Thứ hai, đối với các quy định chồng
chéo mâu thuẫn nhau thì phải được kịp
thời sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Thực tế pháp
luật Việt Nam hiện nay không chỉ thiếu,
mà các văn bản quy phạm pháp luật
vẫn tồn tại những quy định chồng chéo,
mâu thuẫn với nhau, gây khó khăn khi
áp dụng vào cuộc sống ảnh hưởng đến
quyền con người, quyền công dân.
Ví dụ, trong lĩnh vực bầu cử, theo
quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 9
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm
2015 (có hiệu lực từ 1/7/2016) thì người
bị tạm giữ, người bị tạm giam, trong đó
bao gồm người bị kết án tử hình mà bản
án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ
thi hành án, được thực hiện quyền bầu cử
theo quy định của Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều
30 Luật bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND
năm 2015 thì: “ người bị kết án tử hình
đang trong thời gian chờ thi hành án không
được ghi tên vào danh sách cử tri”. Như
vậy, có sự mâu thuẫn về quyền bầu cử
của người bị kết án tử hình trong thời gian
chờ thi hành án giữa quy định tại khoản 1
Điều 30 Luật bầu cử ĐBQH và đại biểu
HĐND năm 2015 với quy định tại Luật
thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
Điều này sẽ gây ra sự không thống nhất,
ảnh hưởng đến quyền bầu cử của họ, do
đó trong thời gian tới cần có sự thay đổi
về vấn đề này.
Việc hiến định nguyên tắc hạn chế
quyền con người, quyền công dân có một
ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nhiệm
vụ xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân nói
chung và nhiệm vụ bảo đảm thực hiện
quyền con người, quyền công dân nói
riêng. Nguyên tắc này như một tấm lá
chắn để đảm bảo cho quyền con người,
quyền công dân không bị hạn chế một
cách tùy nghi, tùy tiện, dễ dãi và không
thể kiểm soát được. Tuy nhiên, nếu chỉ
dừng lại ở một quy định của Hiến pháp
là chưa đủ để hoàn thành sứ mạng này,
mà cần phải được thể hiện, cụ thể hóa
trong toàn bộ các quy định của hệ thống
pháp luật. Vậy nên, vấn đề hạn chế
quyền con người, quyền công dân cần
phải được nghiên cứu một cách nghiêm
túc, kỹ càng, thấu đáo để hiểu được bản
chất của vấn đề, từ đó soi vào các quy
định hiện hành của pháp luật phát hiện
ra những điểm còn tồn tại và đưa ra
những giải pháp góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật để đảm bảo hiệu quả
thực hiện quy định pháp luật về hạn chế
quyền con người, quyền công dân trong
đời sống xã hội./.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÊ CẢM
TRỊNH TIẾN VIỆT
NGUYỄN VĂN THỦY
VƯƠNG THỊ HÀ
NGUYỄN XUÂN PHONG
PHẠM XUÂN THẮNG
LÊ THỊ THU HẰNG
BÙI ĐỨC HẬU
PHẠM THỊ TRANG
Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam
hiện hành và định hướng tiếp tục hoàn thiện trong
tương lai (Kỳ 2 và hết)
Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý trong pháp luật
hình sự Việt Nam trước thách thức Cách mạng
công nghiệp 4.0 (Kỳ 1)
Vấn đề miễn chấp hành hình phạt
Một số vướng mắc trong quyết định hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và giải pháp
hoàn thiện
Một số nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu
quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn Thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm, tỉnh Ninh Thuận
Quy định pháp luật về chức năng đại diện chủ sở
hữu toàn dân của Nhà nước đối với đất đai - Một
số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt vi
phạm hành chính trong quản lý ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện
Hợp đồng có giá trị lớn theo quy định của pháp
luật Hoa Kỳ, pháp luật của Vương quốc Anh và
một số gợi ý cho Việt Nam
MỤC LỤC Trang
Số 04 (31)
2019
3
9
20
30
36
41
50
58
61
LE CAM
TRINH TIEN VIET
NGUYEN VAN THUY
VUONG THI HA
NGUYEN XUAN PHONG
PHAM XUAN THANG
LE THI THU HANG
BUI DUC HAU
PHAM THI TRANG
Crime definition under Vietnamese criminal laws
currently and orientations to continously complete
in the future (Period 2 and end)
Continuing to innovate legal thinking in
Vietnamese criminal law before the challenge of
Industrial Revolution 4.0 (Period 1)
Some matters about penalty remisssion
Several obstacles insentence determination for
under 18-year-old person committing the crimes
and completing solutions
Some causes and solutions to improve the
prevention of property theft crime in Phan Rang-
Thap Cham city, Ninh Thuan province
Legal regulations on the State’s function in
representing the entire-people ownership for land
- Some obstacles and recommendations
Completing legal regulations on restricting
human rights and citizens rights according to the
Constitution in 2013
Some solutions to enhance efficiency of sanctioning
administrative violations in managing conditional
business lines
Great value contracts under the United States of
America and the United of Kingdom’s laws and
some suggestions for Vietnam
INDEX Page
No 04 (31)
2019
3
9
20
30
36
41
50
58
61
50
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƯỜI...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
Ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận vấn đề hạn chế quyền con người, quyền
công dân thành một nguyên tắc ở Điều
14: “Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự án toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định
này thể hiện sự tiến bộ rõ nét trong lịch
sử lập hiến Việt Nam, đó là căn cứ, là
cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục thể
chế hóa trong pháp luật chuyên ngành
những nội dung về hạn chế quyền con
người, quyền công dân, mà đặc trưng là
những quy định trong Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này
trên thực tế không đơn giản vì tính trừu
tượng của nó.
Hạn chế quyền con người, quyền
công dân là hành vi cản trở chủ thể thực
hiện quyền con người, quyền công dân
một cách tuyệt đối trong trường hợp
khẩn cấp quốc gia hoặc trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
1. Một số khó khăn, vướng mắc về
hạn chế quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013
Thứ nhất, nội dung quy định về vấn đề
hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp năm 2013 chưa hoàn toàn
hợp lý và đầy đủ
Tại khoản 2 Điều 14 quy định về nội
dung của nguyên tắc hạn chế quyền con
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013
* Thạc sĩ, Khoa Nhà nước và Pháp luật, Trường
Đại học Kiểm sát Hà Nội
Sau 5 năm thi hành Hiến pháp năm 2013, nhiều quy định pháp luật về hạn
chế quyền con người, quyền công dân rất cần được sửa đổi, bổ sung. Bài viết
tập trung phân tích, chỉ rõ một số hạn chế, vướng mắc và đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền con người, quyền công dân trong
Hiến pháp năm 2013.
Từ khóa: Hạn chế quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm
2013; hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền con người, quyền công dân.
After 5-year implementation of the 2013 Constitution, there are many legal reg-
ulations on restricting human rights and citizens rights need to be amended and
supplemented. The article concentrates on pointing out some shortcomings as well
as suggestions to perfect law on restricting human rights and citizens rights in the
Constitution in 2013.
Keywords: Restricting human rights and citizens rights in the Constitution in
2013, complete law on restricting human rights and citizens rights.
LÊ THỊ THU HẰNG*
51Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
LÊ THỊ THU HẰNG
người, quyền công dân. Tuy nhiên, quy
định này chưa hoàn toàn hợp lý và đầy
đủ, cụ thể:
- Hiến pháp quy định “Quyền con
người quyền công dân chỉ bị hạn chế trên
cơ sở quy định của luật” chưa tương thích
với quy định trong các văn kiện pháp lý
quốc tế cũng như thực tế quy định của
pháp luật Việt Nam. Có nhiều ý kiến
cho rằng việc quy định như vậy là hợp
lý, để tránh sự hạn chế quyền con người,
quyền công dân một cách tùy tiện. Bởi
nếu Hiến pháp cho phép quyền có thể bị
giới hạn bởi “pháp luật”, tức là bao gồm
mọi văn bản quy phạm pháp luật dưới
Hiến pháp, là quá rộng. Và nếu phạm
vi này bao gồm cả Nghị định, Thông tư,
Văn bản của chính quyền địa phương,
thì quyền con người có thể bị xâm phạm
một cách không kiểm soát được.
Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013
sử dụng từ “luật” thay từ “pháp luật”.
Theo quy định này thì chỉ có văn bản của
Quốc hội với tên gọi là “luật” mới được
phép giới hạn quyền. Đây là một cách lý
giải hợp lý, nhưng quy định “trên cơ sở
quy định của luật” là chưa phù hợp với
nội dung của các văn kiện pháp lý quốc
tế về quyền con người. Bởi Tuyên ngôn
quyền con người 1948, các điều ước quốc
tế về quyền con người đều dùng cách diễn
đạt “determined by law”, “in accordance
with the law” hay “prescribed by law”,
chứ không phải chỉ là các đạo luật (statute
law)1. Hơn thế nữa, quy định này không
chỉ không tương thích với các quy định
1 Bùi Tiến Đạt, “Hiến pháp hoá nguyên tắc giới
hạn quyền con người: Cần nhưng chưa đủ”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số 6/2015
của pháp luật quốc tế mà còn không chính
xác với thực tiễn quy định pháp luật ở
Việt Nam.
Như vậy có thể thấy với quy định
“... trên cơ sở quy định của luật”, Hiến pháp
năm 2013 đã đặt tiêu chuẩn quá cao cho
cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, nên nó không thể thực hiện
được trong thực tiễn cuộc sống.
- Hiến pháp quy định “... trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng” là chưa thực
sự đầy đủ và phù hợp với các quy định
của pháp luật quốc tế về hạn chế quyền
con người, quyền công dân. Bởi với quy
định như vậy chưa bao hàm hết cả hai
trường hợp được hạn chế quyền con
người, quyền công dân (hạn chế thực hiện
quyền con người, quyền công dân trong tình
trạng khẩn cấp quốc gia và hạn chế áp dụng
của một số quyền con người, quyền công
dân). Có quan điểm cho rằng việc quy
định “... trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng” đã bao hàm nội dung của Điều 4
Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị (ICCPR): “Trong thời gian có tình
trạng khẩn cấp xảy ra đe doạ sự sống còn của
quốc gia và đã được chính thức công bố, các
quốc gia thành viên có thể áp dụng những
biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong
Công ước này, trong chừng mực do nhu cầu
khẩn cấp của tình hình, với điều kiện những
biện pháp này không trái với những nghĩa vụ
khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp
quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới
52
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƯỜI...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã
hội”. Tuy nhiên, theo tác giả, quan điểm
này là không hợp lý bởi một điều luật
cần được quy định một cách rõ ràng, dễ
hiểu, hiểu đúng nội hàm của quy định
đó chứ không nên được hiểu theo sự suy
diễn, bắc cầu.
Thứ hai, hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật cụ thể hóa quy định hạn chế quyền
con người quyền công dân trong Hiến pháp
năm 2013 vẫn còn thiếu và chưa đảm bảo
tính đồng bộ, thống nhất
Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật
vẫn còn nhiều “lỗ hổng” và nhiều quy
định chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống
nhất. Không chỉ văn bản quy định cụ thể
hóa Hiến pháp mà bản thân quy định của
Hiến pháp về quyền con người, quyền
công dân nói chung và nguyên tắc hạn
chế quyền con người, quyền công dân
vẫn còn thiếu và có nhiều điểm chưa
phù hợp. Cụ thể, nhiều quyền cơ bản
của con người và công dân chưa được
quy định trong Hiến pháp như quyền
im lặng, quyền kháng cáo, quyền được
phiên dịch. Trong hệ thống văn bản
pháp luật còn thiếu những văn bản cụ
thể hóa một số như quyền mít tinh, biểu
tình của công dân. Bên cạnh thiếu các
quy định về các quyền chung, hiện nay
pháp luật vẫn còn thiếu các văn bản quy
định cụ thể về một số quyền của các đối
tượng cụ thể như quyền hiến xác của tử
tù, quyền chuyển đổi giới tính
Về quyền hiến xác, Điều 20 Hiến
pháp 2013 quy định “Mọi người có quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
theo quy định của luật. Việc thử nghiệm
y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình
thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người
phải có sự đồng ý của người được thử
nghiệm”. Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô,
bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
(năm 2006) quy định “Người từ đủ mười
tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể
của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến
xác”. Như vậy quyền hiến mô, bộ phận
cơ thể người và hiến xác là quyền của
tất cả “mọi người” từ đủ 18 tuổi trở lên,
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có
quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình
khi còn sống, sau khi chết và hiến xác
và việc hiến tặng mô, tạng còn phải bảo
đảm nguyên tắc: tự nguyện, vì mục đích
nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc
nghiên cứu khoa học; không nhằm mục
đích thương mại... Tuy nhiên, hiện nay
nhiều tử tù, người phạm tội đã bày tỏ
mong muốn hiến tạng cho y học để phần
nào chuộc lại lỗi lầm, nhưng chưa có
trường hợp nào được chấp nhận. Giải
thích cho tình trạng này, các chuyên gia
cho rằng việc đồng ý để tử tù được hiến
xác cho y học có rất nhiều vấn đề phức
tạp. Việc lấy mô, tạng sẽ diễn ra trước
hay sau khi thi hành án phạt tử hình?
Nếu diễn ra sau khi thi hành án phạt tử
hình thì cần phải có một phương pháp
tử hình khác ngoài tiêm thuốc độc. Bởi
khi đã tiêm thuốc độc vào người thì liệu
cơ thể có đảm bảo để hiến tạng, hiến xác
hay không là cả một vấn đề mà y học
phải nghiên cứu. Muốn hiến tạng, hiến
xác thì phải là một cơ thể “sạch”, phải
đảm bảo được các điều kiện khoa học
nhất định. Phương thức tử hình bằng
53Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
LÊ THỊ THU HẰNG
hình thức xử bắn cũng không thể đáp
ứng được yêu cầu này vì xử bắn gây ra
chấn động đến các mô tạng. Với sự phức
tạp như vậy, mặc dù hiện nay pháp luật
không có quy định cấm tử tù hiến xác
nhưng nguyện vọng cuối cùng của tử
tù - dù là nguyện vọng chính đáng vẫn
chưa được chấp nhận.
Về quyền chuyển giới, hiện nay có
nhiều văn bản pháp luật đã có những
quy định dành cho những người thuộc
giới tính thứ 3 như BLDS năm 2015, Luật
thi hành tạm giam tạm giữ... Song song
với việc thừa nhận quyền chuyển đổi giới
tính, BLDS năm 2015 cũng có những quy
định để đảm bảo các quyền nhân thân
cho người chuyển đổi giới tính. Những
người chuyển đổi giới tính có quyền thay
đổi họ, tên, cải chính hộ tịch và những
quyền nhân thân khác phù hợp với giới
tính như kết hôn, nhận nuôi con nuôi
Tuy nhiên, nhiều vấn đề liên quan đến
quyền chuyển đổi giới tính này vẫn chưa
được quy định như xác định lại quan hệ
vợ chồng, cha (mẹ) và con sau khi một
người thực hiện chuyển đổi giới tính. Ví
dụ một người đã có con trước khi thực
hiện chuyển đổi giới tính thì việc chuyển
đổi giới tính này có hệ quả gì trong mối
quan hệ giữa người chuyển giới và người
con? Trong mối quan hệ với người con,
một người trước đây là cha (vì là nam)
nhưng nay người này chuyển giới thành
nữ thì có được đổi thành mẹ không?....
Bên cạnh việc thiếu các văn bản quy
định chi tiết các quyền, hệ thống pháp
luật hiện này còn có các “lỗ hổng” nhỏ
khác nữa đó là thiếu các quy định cụ
thể giải thích các cụm từ pháp lý như
“bí mật đời tư” “chuyển đổi giới tính”...
Mặc dù quyền được đảm bảo bí mật đời
tư đã được quy định trong Hiến pháp
và BLDS năm 2015, tuy nhiên văn bản
không giải thích thế nào là “bí mật đời
tư” và xác định phạm vi “bí mật đời
tư” nên gây khó khăn cho việc hiểu luật
và áp dụng luật. Ví dụ như vướng mắc
trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có
phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’
hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua
được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường
trung học phổ thông và cơ quan báo chí
rất quan tâm khi công bố công khai điểm
thi tốt nghiệp trung học phổ thông của
thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-
CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định
chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại
Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là
các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận
dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức
khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình
ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên
trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài
sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá
nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán;
địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học
tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em;
thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ
em”. Quy định này khẳng định kết quả
học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là
thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em
năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới
16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối
với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm
thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống
riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên
54
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƯỜI...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định
điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân,
đời sống riêng tư hay không. Điều này
gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp
luật của các cơ quan có thẩm quyền và
phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí
sinh trên 16 tuổi.
2. Hoàn thiện quy định pháp luật về
hạn chế quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013
2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định pháp
luật tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm
2013
Thứ nhất, trong mệnh đề chung giới
hạn quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp năm 2013, cần quy định
“theo quy định của pháp luật” thay vì
“theo quy định của luật” như hiện nay.
Bởi vì việc quy định như vậy sẽ phù hợp
với các quy định trong pháp luật quốc
tế về nhân quyền. Bên cạnh đó, việc quy
định như vậy sẽ phù hợp với thực tiến
quy định của pháp luật Việt Nam hiện
nay. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, một
khi các đạo luật đang còn quá phụ thuộc
vào sự chi tiết hóa của các văn bản dưới
luật, không thể không cho phép các văn
bản dưới luật hạn chế quyền. Vì vậy, căn
cứ để áp dụng hạn chế quyền con người,
quyền công dân không chỉ được quy
định trong luật (Bộ luật, luật) mà được
ghi nhận trong các loại văn bản quy
pháp khác như Nghị định, Thông tư...
Việc thay đổi này là cần thiết vì việc chỉ
cho phép văn bản với tên gọi là “luật”
của Quốc hội có thể hạn chế quyền là bất
khả thi. Không một quốc gia nào có thể
chỉ dùng đạo luật của cơ quan lập pháp
để hạn chế quyền con người, quyền công
dân. Tuy nhiên, cần phải tăng cường
kiểm tra giám sát để đảm bảo việc hạn
chế quyền con người, quyền công dân
trong các quy phạm pháp luật dưới luật
đảm bảo tính cân xứng, hay nói cách
khác, là tính hợp hiến.
Thứ hai, trong phần quy định “...
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Hiến pháp năm 2013 cần bổ sung thêm
trường hợp hạn chế quyền con người,
quyền công dân “trong trường hợp khẩn
cấp quốc gia” để bao hàm được quy định
của Điều 4 Công ước về các quyền dân
sự chính trị năm 1948. Mặt khác, trong
thực tế, quy định về giới hạn quyền của
Hiến pháp năm 2013 còn có thể mở rộng
đến một số mục đích khác mà được nêu
trong luật nhân quyền quốc tế, đó là để
tôn trọng các quyền và tự do chính đáng
và lợi ích của công lý (trong bối cảnh tố
tụng). Tuy nhiên, việc đồng thời xác định
rõ những quyền tuyệt đối cũng rất quan
trọng, để tránh nhầm lẫn rằng nguyên tắc
hạn chế quyền có thể áp dụng cho tất cả
mọi quyền. Bởi vì Hiến pháp năm 2013
chưa quy định rõ những quyền tuyệt đối
là quyền nào và việc áp dụng nguyên tắc
hạn chế quyền với các quyền cụ thể.
2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định
pháp luật về vấn đề hạn chế quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp
năm 2013
Hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc
bảo đảm thực hiện quyền con người,
55Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
LÊ THỊ THU HẰNG
quyền công dân nói chung và đảm bảo
nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền công dân nói riêng.
Thứ nhất, đối với các “lỗ hổng” của
pháp luật cần phải nhanh chóng được
lấp đầy. Trong những năm gần đây với sự
nỗ lực của mình, Quốc hội đã thảo luận
thông qua được các luật cụ thể hóa các
quyền như Luật biểu tình... Tuy nhiên,
hiện nay một số quyền vẫn chỉ dừng lại
ở quyền Hiến định như quyền mít tinh,
biểu tình... bởi cho đến hiện nay chúng ta
vẫn chưa có văn bản quy định cụ thể về
các quyền đó, mặc dù Đảng và nhà nước
ta đã nhận định “việc ban hành Luật
biểu tình là rất cần thiết, nhằm hướng
dẫn người dân thực hiện quyền công dân
chính đáng của mình và xử lý nghiêm các
hoạt động biểu tình trái phép, gây mất
an ninh, trật tự an toàn xã hội”2. Đặc biệt
trong thời gian gần đây trước hình hình
phức tạp của xã hội, trên phạm vi cả nước
diễn ra nhiều cuộc mít tinh biểu tình như
ở Hà Tĩnh, Bình Thuận..., tạo ra sự bất
ổn cho xã hội, gây hoang mang trong dư
luận thì yêu cầu ban hành Luật biểu tình
là một yêu cầu cấp thiết. Luật biểu tình ra
đời sẽ giới hạn phạm vi quyền biểu tình
của người dân, từ đó đảm bảo cho công
dân được tự do thực hiện các quyền đó
trong khuôn khổ pháp luật, vừa đảm bảo
quyền tự do của cá nhân vừa bảo đảm an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
quyền lợi của cộng đồng.
Để đảm bảo quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội của công dân, trong
2 Phương Thảo,“Luật Biểu tình, cử tri sốt ruột, Chính
phủ vẫn chưa chuẩn bị xong”, Báo Dân trí ngày
20/5/2018
đó có quyền quan trọng là bầu cử, ứng
cử thì việc nghiên cứu xây dựng Luật tổ
chức Hội đồng bầu cử quốc gia là thật sự
cần thiết.
Với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng bầu cử quốc gia như tổ chức bầu cử
đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, hướng dẫn
công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp; chỉ đạo công tác thông tin,
tuyên truyền và vận động bầu cử; chỉ đạo
công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn
xã hội trong cuộc bầu cử, Kiểm tra, đôn
đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử,
thì việc hoàn thiện bộ máy tổ chức của
cơ quan thông qua việc xây dựng Luật
tổ chức Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ góp
phần tạo ra sự độc lập, đáp ứng yêu cầu
của một cuộc bầu cử khách quan, công
bằng, qua đó hiệu quả áp dụng nguyên
tắc bầu cử cũng được tăng lên.
Trong lĩnh vực dân sự, mặc dù pháp
luật đã có hướng mở cho việc chuyển
đổi giới tính, tuy nhiên đây không phải
là một quyền dân sự vô hạn như quyền
về danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức
khoẻ, và các quyền nhân thân khác. Khi
công dân thực hiện chuyển đổi giới tính
đều phải tuân thủ chặt chẽ các quy định
của pháp luật. Các văn bản liên quan
phải xác định cụ thể những đối tượng
nào được chuyển đổi giới tính, những cơ
sở y tế nào được thực hiện chuyển đổi
giới tính, cách thức chuyển đổi giới tính
như thế nào, tình trạng hôn nhân của
công dân ra sao, quy trình thay đổi hộ
tịch của công dân sau khi chuyển đổi giới
tính được thực hiện như thế nào Tuy
nhiên, lần đầu tiên pháp luật Việt Nam
cho phép công dân được chuyển đổi giới
56
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CON NGƯỜI...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
tính, do đó sẽ có nhiều vấn đề phức tạp
và nhạy cảm phát sinh, đó là các vấn đề
liên quan đến y tế, bảo hiểm, hôn nhân
gia đình cũng như các chính sách an sinh
xã hội, chẳng hạn như việc thay đổi tên
gọi, xác định lại giới tính trong giấy tờ
hộ tịch. Với người chuyển giới, giới tính
hiện tại của họ không trùng với giới
tính khi sinh ra, các giấy tờ nhân thân
trước đó ghi theo giới tính khi sinh ra.
Điều này dẫn đến hệ quả khi một người
chuyển giới họ phải cải chính thông tin
trên giấy tờ nhân thân và các giấy tờ khác
có liên quan như văn bằng, chứng chỉ
Đây sẽ là một vấn đề phức tạp đối với
một người đã có một quá trình dài lao
động, làm việc, có rất nhiều các loại giấy
tờ cá nhân do nhiều cơ quan ban hành.
Một vấn đề khác liên quan đến lĩnh
vực hôn nhân gia đình, Luật Hôn nhân
gia đình năm 2014 không thừa nhận
hôn nhân đồng giới, nhưng khi BLDS
năm 2015 cho phép chuyển đổi giới tính,
có thể xảy ra trường hợp một cặp vợ
chồng đã kết hôn và có con chung, sau
đó người chồng hoặc người vợ chuyển
đổi giới tính mà chưa ly hôn, lúc đó sẽ
xảy ra trường hợp hôn nhân đồng giới.
Vậy quan hệ hôn nhân này có được thừa
nhận không? Tất cả những vấn đề này
này cần được luật hóa để đảm bảo quyền
bình đẳng, quyền không bị phân biệt đối
xử cho những người thuộc giới tính thứ
3 bởi không chỉ có sự ngăn cản, mà sự
bỏ sót cũng sẽ gây ảnh hưởng sâu sắc
tới việc bảo đảm, bảo vệ các quyền con
người của một nhóm người nhất định.
Vậy nên cần thiết phải ban hành Luật
chuyển đổi giới tính.
Không chỉ thiếu các văn bản quy
phạm pháp luật, mà trong các văn bản
pháp luật hiện hành vẫn còn những “lỗ
hổng” nhất định. Ví dụ trong lĩnh vực tố
tụng hình sự rất nhiều quyền con người,
quyền công dân bị hạn chế khi quy định
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong hoạt động điều tra, truy tố như
quyền được đảm bảo bí mật về thư tín
điện thoại nhưng lại chưa quy định cơ
chế giám sát thực hiện các quyền đó. Vậy
nên yêu cầu đặt ra là pháp luật cần quy
định cơ chế kiểm soát trong quá trình
thực hiện việc hạn chế quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn
và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
cá nhân trong hoạt động tố tụng hình sự,
đặc biệt là trong việc thực hiện các biện
pháp điều tra đặc biệt được quy định tại
chương XVI BLTTHS năm 2015: “Sau khi
khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp
dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
1. Ghi âm, ghi hình bí mật; 2. Nghe điện thoại
bí mật; 3. Thu thập bí mật dữ liệu điện tử”
(Điều 223 BLTTHS năm 2015). Bởi việc
cho phép thực hiện các quyền này chứa
đựng khả năng cao có thể sẽ xâm hại đến
quyền “bí mật về đời tư” nếu không có
một cơ chế kiểm soát hiệu quả.
Trong lĩnh vực bầu cử, để đảm bảo
quyền công dân không bị hạn chế, cần
thiết nghiên cứu xây dựng quy định để
đảm bảo quyền bầu cử cho cử tri đi công
tác, lao động, học tập ở nước ngoài trong
thời gian bầu cử, cử tri vãng lai được thực
hiện quyền bầu cử, có thể xem xét cách
57Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
LÊ THỊ THU HẰNG
thức bỏ phiếu bằng cách gửi thư trước,
sau đó dần tiến tới áp dụng internet trong
bỏ phiếu đối với những trường hợp đặc
biệt này. Đồng thời quy định biện pháp
kiểm soát những cách thức bỏ phiếu
trong các trường hợp này.
Bên cạnh đó, pháp luật cần ban hành
những quy định giải thích, hướng dẫn cụ
thể và cũng như quy định chi tiết thế nào
là “bí mật đời tư”, “chuyển đổi giới tính”
“giới tính”... để tránh tình trạng vẫn tồn
tại những vấn đề pháp lý gây tranh cãi và
gây khó khăn cho cơ quan khi áp dụng
pháp luật.
Thứ hai, đối với các quy định chồng
chéo mâu thuẫn nhau thì phải được kịp
thời sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Thực tế pháp
luật Việt Nam hiện nay không chỉ thiếu,
mà các văn bản quy phạm pháp luật
vẫn tồn tại những quy định chồng chéo,
mâu thuẫn với nhau, gây khó khăn khi
áp dụng vào cuộc sống ảnh hưởng đến
quyền con người, quyền công dân.
Ví dụ, trong lĩnh vực bầu cử, theo
quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 9
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm
2015 (có hiệu lực từ 1/7/2016) thì người
bị tạm giữ, người bị tạm giam, trong đó
bao gồm người bị kết án tử hình mà bản
án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ
thi hành án, được thực hiện quyền bầu cử
theo quy định của Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều
30 Luật bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND
năm 2015 thì: “ người bị kết án tử hình
đang trong thời gian chờ thi hành án không
được ghi tên vào danh sách cử tri”. Như
vậy, có sự mâu thuẫn về quyền bầu cử
của người bị kết án tử hình trong thời gian
chờ thi hành án giữa quy định tại khoản 1
Điều 30 Luật bầu cử ĐBQH và đại biểu
HĐND năm 2015 với quy định tại Luật
thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
Điều này sẽ gây ra sự không thống nhất,
ảnh hưởng đến quyền bầu cử của họ, do
đó trong thời gian tới cần có sự thay đổi
về vấn đề này.
Việc hiến định nguyên tắc hạn chế
quyền con người, quyền công dân có một
ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nhiệm
vụ xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân nói
chung và nhiệm vụ bảo đảm thực hiện
quyền con người, quyền công dân nói
riêng. Nguyên tắc này như một tấm lá
chắn để đảm bảo cho quyền con người,
quyền công dân không bị hạn chế một
cách tùy nghi, tùy tiện, dễ dãi và không
thể kiểm soát được. Tuy nhiên, nếu chỉ
dừng lại ở một quy định của Hiến pháp
là chưa đủ để hoàn thành sứ mạng này,
mà cần phải được thể hiện, cụ thể hóa
trong toàn bộ các quy định của hệ thống
pháp luật. Vậy nên, vấn đề hạn chế
quyền con người, quyền công dân cần
phải được nghiên cứu một cách nghiêm
túc, kỹ càng, thấu đáo để hiểu được bản
chất của vấn đề, từ đó soi vào các quy
định hiện hành của pháp luật phát hiện
ra những điểm còn tồn tại và đưa ra
những giải pháp góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật để đảm bảo hiệu quả
thực hiện quy định pháp luật về hạn chế
quyền con người, quyền công dân trong
đời sống xã hội./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_han_che_quyen_con_nguoi_quyen_cong_d.pdf