Thứ nhất, tại thời điểm Quỹ ngưng thu
việc trích nộp, có DNBH, chi nhánh bảo hiểm
nước ngoài đã tham gia trích nộp Quỹ rất
nhiều năm, có DNBH, chi nhánh bảo hiểm
nước ngoài mới tham gia trích nộp Quỹ được
vài năm, thậm chí là một năm, nhưng Quỹ
phải có nghĩa vụ chi trả theo quy định của
pháp luật cho bất kỳ thành viên trích nộp Quỹ
mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản.
Thứ hai, các DNBH, chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài tham gia vào thị
trường bảo hiểm Việt Nam sau thời điểm
Quỹ đã ngưng thu việc trích nộp sẽ không
phải thực hiện việc trích nộp Quỹ theo quy
định (lý do là quy mô Quỹ thời điểm này
bằng hoặc vượt mức 5% tổng tài sản DNBH
phi nhân thọ, chi nhánh bảo hiểm phi nhân
thọ nước ngoài trong lĩnh vực phi nhân thọ,
quy mô Quỹ bằng hoặc vượt mức 3% tổng
tài sản của DNBH nhân thọ trong năm tài
chính trước liền kề, và vốn nhàn rỗi của Quỹ
tiếp tục được sử dụng đầu tư sinh lợi theo
quy định). Vấn đề đặt ra là, nếu việc ngưng
thu này kéo dài cho đến khi một trong những
chủ thể này mất khả năng thanh toán hoặc
phá sản thì Quỹ có phải thực hiện việc chi
trả cho NĐBH không, khi DNBH, chi nhánh
bảo hiểm nước ngoài mà họ ký kết chưa từng
thực hiện nghĩa vụ trích nộp Quỹ?
Trong trường hợp trên, nếu Quỹ tiến
hành việc chi trả thì tạo ra sự không công
bằng đối với các DNBH, chi nhánh bảo hiểm
nước ngoài đã tham gia trích nộp Quỹ trước
đó, bởi họ đã phải thực hiện một nghĩa vụ tài
chính trong nhiều năm, nhưng Quỹ lại sử
dụng để chi trả cho trường hợp mất khả năng
thanh toán hoặc phá sản của chủ thể KDBH
chưa từng thực hiện nghĩa vụ tài chính này.
Nếu Quỹ không thực hiện việc chi trả thì sẽ
không công bằng đối với các chủ thể KDBH
tham gia thị trường bảo hiểm sau khi Quỹ
ngưng thu việc trích nộp, vì họ khó có thể
cạnh tranh thị phần với các DNBH, chi
nhánh bảo hiểm nước ngoài tham gia đóng
Quỹ trước đó vì tâm lý của người mua bảo
hiểm luôn muốn được bảo vệ ở mức cao
nhất, và điều này chắc chắn ảnh hưởng đến
sự phát triển của thị trường bảo hiểm.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo vệ người được bảo hiểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOAÂN THIÏÅN PHAÁP LUÊÅT
VÏÌ QUYÄ BAÃO VÏÅ NGÛÚÂI ÀÛÚÅC BAÃO HIÏÍM
NguyễN CHí Hiếu*
Theo pháp luật về KDBH ở nhiều quốc
gia, khi một chủ thể KDBH bị phá sản hoặc
mất khả năng thanh toán, thông thường
NĐBH được ưu tiên nhận tiền bồi thường
hoặc được hoàn phí bảo hiểm từ tài sản thanh
lý của chủ thể KDBH đó. Cơ chế này cho
phép NĐBH được ưu tiên nhận tiền bồi
thường khi thanh lý tài sản đầu tư từ quỹ dự
phòng nghiệp vụ, ký quỹ hoặc từ toàn bộ tài
sản của chủ thể KDBH phá sản. Tuy nhiên,
cơ chế này bộc lộ nhược điểm là khó có thể
chi trả đầy đủ các khoản nợ đối với tất cả các
hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) mà DNBH bị
phá sản hay mất khả năng thanh toán đã ký
kết trước đó.
Để giải quyết nhược điểm trên, một số
quốc gia có quy định cơ chế bảo vệ NĐBH
ở mức cao hơn, theo đó, khi NĐBH không
nhận được đầy đủ tiền bồi thường từ chủ thể
KDBH phá sản hoặc mất khả năng thanh
toán thì việc chi trả hỗ trợ phần còn thiếu cho
họ được đảm bảo thanh toán bởi một Quỹ do
các chủ thể KDBH đóng góp hàng năm theo
quy định của pháp luật. Quỹ đó có tên gọi
khác nhau tùy quốc gia như: Quỹ Bảo vệ chủ
HĐBH (Policyholder’s protection fund) ở
Singapore, Hongkong, Nhật Bản, Malaysia1
hay Quỹ Bảo vệ NĐBH ở Việt Nam.
Có thể nói, sự ra đời của Quỹ Bảo vệ
NĐBH giữ vai trò quan trọng trong việc bảo
vệ bên mua bảo hiểm không chuyên nghiệp;
duy trì niềm tin của công chúng vào thị
trường bảo hiểm; góp phần thúc đẩy cạnh
tranh giữa các thị trường bảo hiểm trong và
ngoài nước; góp phần tạo môi trường pháp
lý bình đẳng cho hoạt động kinh doanh giữa
các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và ngân
hàng trên thị trường tài chính2.
Ở Việt Nam, Quỹ Bảo vệ NĐBH được
thành lập theo quy định tại khoản 11 Điều 1
Luật số 61/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật KDBH, được quy định chi
tiết tại Mục 4 Nghị định số 123/2011/NĐ-CP
(Nghị định 123) và Thông tư số
101/2013/TT-BTC (Thông tư 101) hướng
dẫn việc quản lý, sử dụng Quỹ. Trên thực tế,
Quỹ Bảo vệ NĐBH chính thức ra mắt và đi
vào hoạt động chưa lâu (09/9/2014), nên
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(310) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Theo pháp luật của từng quốc gia, Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm
(NĐBH) là Quỹ do các chủ thể kinh doanh bảo hiểm (KDBH) bắt buộc
phải đóng góp hàng năm để giải quyết vấn đề bồi thường cho NĐBH, khi
có chủ thể KDBH phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, dù đã được ưu
tiên phân chia tài sản. Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về loại Quỹ này
còn khá hạn chế, vì vậy chúng tôi mong muốn các kiến nghị trong bài
viết có thể góp phần hoàn thiện pháp luật về Quỹ Bảo vệ NĐBH.
* Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ.
1 Sivalap Sukpaiboonwat, Chucheep Piputsitee & Arunee Punyasavatsut (2014), “Thailand Insurance Regulation: Highlights
& Time to Go Ahead”, Canadian Center of Science and Education, p. 26 - 29.
2 Yasui, T. (2001), “Policyholder Protection Funds: Rationale and Structure”, OECD Insurance and Private Pensions Com-
pendium for Emerging Economies.
nhiều người chưa có điều kiện tiếp cận cũng
như đánh giá được đầy đủ, toàn diện những
ưu, khuyết điểm trong thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật về Quỹ bảo vệ
NĐBH ở Việt Nam. Tuy nhiên, trên cơ sở
nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện,
chúng tôi thấy một số hạn chế và mạnh dạn
đưa ra kiến nghị hoàn thiện các quy định
pháp luật về Quỹ, cụ thể:
1. Quy định về trường hợp sử dụng Quỹ
tại khoản 11 Điều 1 Luật số 61/2010/QH12
sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Kinh
doanh bảo hiểm
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật KDBH (Luật số 61/2010/QH12) được
Quốc hội khóa XII ban hành ngày
24/11/2010 bổ sung khoản 3 Điều 97 Luật
KDBH như sau: “Quỹ Bảo vệ NĐBH được
thành lập để bảo vệ quyền lợi của NĐBH
trong trường hợp DNBH phá sản hoặc mất
khả năng thanh toán; Nguồn để lập Quỹ Bảo
vệ NĐBH được trích lập theo tỷ lệ phần trăm
trên phí bảo hiểm áp dụng đối với tất cả
HĐBH; Chính phủ quy định việc trích lập và
quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ NĐBH”.
Với quy định trên, có thể hiểu là Quỹ
bảo vệ NĐBH (Quỹ) sẽ được sử dụng để chi
trả nhằm mục đích bảo vệ NĐBH trong
trường hợp DNBH phá sản hoặc mất khả
năng thanh toán. Tuy nhiên, nguồn để lập
Quỹ lại được trích theo tỷ lệ phần trăm trên
phí bảo hiểm áp dụng đối với tất cả HĐBH.
Vậy một vấn đề đặt ra là những người tham
gia sử dụng dịch vụ bảo hiểm của các chi
nhánh bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có
được Quỹ bảo vệ không khi chủ thể này mất
khả năng thanh toán, vì chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài không có tư cách
pháp nhân, không là DNBH. Đây cũng là vấn
đề từng được Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
quan tâm trước đó trong “Báo cáo thẩm tra
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật KDBH”3.
Đến khi Nghị định 123 và Thông tư 101
được ban hành thì vấn đề trên đã được hướng
dẫn cụ thể, theo đó, đối tượng trích nộp Quỹ
bao gồm DNBH (DNBH phi nhân thọ,
DNBH chuyên kinh doanh sức khỏe, DNBH
nhân thọ) và chi nhánh phi nhân thọ nước
ngoài4 và Quỹ thực hiện việc chi trả cho
NĐBH hoặc cho DNBH, chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài nhận chuyển giao
HĐBH khi xảy ra trường hợp DNBH bị phá
sản hoặc DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài mất khả năng thanh
toán5. Có thể thấy, cùng với quy định trên và
quy định về hạn mức chi trả tối đa tùy theo
loại hình bảo hiểm, người sử dụng dịch vụ
bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài được Quỹ
bảo vệ ngang bằng với người sử dụng dịch
vụ của các DNBH có tư cách pháp nhân
trong nước. Như vậy, Quỹ sử dụng để chi trả
nhằm để bảo vệ quyền lợi của NĐBH theo
pháp luật hiện hành không chỉ trong trường
hợp DNBH phá sản hoặc mất khả năng thanh
toán mà còn cả trong trường hợp chi nhánh
bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài mất khả
năng thanh toán.
Từ sự phân tích trên, chúng tôi kiến nghị
hoàn thiện quy định tại khoản 3 Điều 97 Luật
Luật KDBH như sau: “Quỹ Bảo vệ NĐBH
được thành lập để bảo vệ quyền lợi của
NĐBH trong trường hợp DNBH phá sản
hoặc DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi nhân
thọ nước ngoài mất khả năng thanh toán...”.
Thiết nghĩ với việc bổ sung như vậy, nội
dung tại khoản 3 Điều 97 này có thể được
hiểu thống nhất với quy định chi tiết tại Điều
32 Nghị định 123 và hướng dẫn tại Điều 6
Thông tư 101.
2. Quy định về hạn mức chi trả của Quỹ
Bảo vệ người được bảo hiểm theo Điều 7
Thông tư số 101/2013/TT-BTC
Một trong những vấn đề mà Quỹ Bảo vệ
NĐBH cần xem xét, cập nhật và hoàn thiện
là quy định về hạn mức chi trả của Quỹ Bảo
vệ NĐBH, bởi đây là một trong những nội
dung quan trọng đóng góp vào sự thành công
của chính sách bảo vệ người tham gia bảo
hiểm ở Việt Nam.
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(310) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
3 Xem Mục 7 Báo cáo số 1822/BC-UBKT12 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Khóa XII ngày 18/10/2010 về “Báo cáo thẩm
tra Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KDBH”.
4 Xem Điều 29, Nghị định số 123/2011/NĐ-CP.
5 Xem Điều 6, Thông tư số 101/2013/TT-BTC.
Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của
từng quốc gia mà việc quy định hạn mức chi
trả của Quỹ Bảo vệ NĐBH ở các quốc gia sẽ
không giống nhau. Hạn mức chi trả của Quỹ
thể hiện chính sách của Nhà nước, được xây
dựng trong từng thời kỳ và việc xác định hạn
mức cần đảm bảo đồng thời hai nguyên tắc:
(i) hạn mức cần đủ cao để duy trì niềm tin
của người dân vào thị trường bảo hiểm và (ii)
hạn mức cần đủ thấp để những người mua
bảo hiểm không chủ quan với các hoạt động
KDBH thiếu an toàn và rủi ro, qua đó kiểm
soát và điều tiết rủi ro đạo đức, tránh tình
trạng mạo hiểm khi tham gia bảo hiểm.
Ngoài ra, việc xác định hạn mức cần tính tới
các yếu tố có liên quan như: thu nhập GDP
bình quân đầu người, mức độ lạm phát, tỷ
giá, lòng tin của người dân vào hệ thống bảo
hiểm, mức độ rủi ro của thị trường bảo hiểm
và tổng thể nền kinh tế hay tình hình năng
lực tài chính của Quỹ.
Tại Việt Nam, hạn mức chi trả của Quỹ
được quy định tại Điều 7 Thông tư 101, theo
đó đối với HĐBH nhân thọ, Quỹ chi trả tối
đa 90% mức trách nhiệm của DNBH nhân
thọ, nhưng không quá 200 triệu
đồng/NĐBH/hợp đồng. Đối với HĐBH sức
khỏe, Quỹ cũng chi trả tối đa 90% mức trách
nhiệm của DNBH, chi nhánh nước ngoài và
không quá 200 triệu đồng/NĐBH/hợp đồng.
Riêng đối với HĐBH phi nhân thọ thì có hai
trường hợp chi trả: HĐBH bắt buộc trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được chi trả
tối đa theo quy định của pháp luật (70 triệu
đồng/NĐBH/vụ6); các HĐBH thuộc các
nghiệp vụ bảo hiểm khác, Quỹ chi trả tối đa
80% mức trách nhiệm của DNBH nhưng
không quá 100 triệu đồng/hợp đồng.
Hiện tại, với quy định hạn mức chi trả
của Quỹ như trên là phù hợp với tình hình
thực tế. Tuy nhiên, với việc quy định một
khung cứng là chưa hợp lý, bởi quy định về
hạn mức chi trả được cân nhắc dựa trên chỉ
số đã được nêu ở trên. Yêu cầu của hạn mức
chi trả của Quỹ là làm sao với số tiền chi trả
tối đa có thể bảo vệ được phần lớn NĐBH
khi xảy ra sự kiện chi trả, đồng thời cũng hạn
chế việc tạo ra rủi ro đạo đức, sự trông chờ
từ phía các DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài cũng như người tham
gia bảo hiểm. Chính vì yêu cầu này nên đòi
hỏi quy định về hạn mức chi trả của Quỹ
phải thường xuyên thay đổi để phù hợp với
tình hình thực tế.
Chúng tôi kiến nghị, nên có quy định
“mở” cho hạn mức chi trả của Quỹ, cụ thể
tại Điều 7 Thông tư 101 về “Hạn mức chi trả
của Quỹ” bổ sung thêm khoản 4: “Hạn mức
chi trả của Quỹ có thể thay đổi. Bộ trưởng
Bộ Tài chính quy định hạn mức chi trả Quỹ
Bảo vệ NĐBH theo đề nghị của Hội đồng
quản lý Quỹ trong từng thời kỳ”. Thiết nghĩ,
quy định này sẽ khắc phục được hạn chế như
đã nêu, tạo được sự linh hoạt cũng như tính
ổn định của Luật.
3. Quy định về chức năng của Quỹ Bảo vệ
người được bảo hiểm
Ngoài chức năng Quỹ được sử dụng để
trả tiền bảo hiểm, giá trị hoàn lại; trả tiền bồi
thường bảo hiểm; hoàn phí bảo hiểm theo
thỏa thuận tại HĐBH cho NĐBH trong
trường hợp DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài mất khả năng thanh
toán, DNBH phá sản, thì một chức năng
quan trọng của Quỹ là hỗ trợ việc duy trì và
tiếp tục HĐBH, giúp người mua bảo hiểm
không phải tìm kiếm DNBH, chi nhánh bảo
hiểm phi nhân thọ nước ngoài khác để ký
HĐBH mới.
Khoản 3 Điều 6 Thông tư 101 quy định
“Trường hợp chuyển giao HĐBH từ DNBH,
chi nhánh nước ngoài mất khả năng thanh
toán, DNBH bị phá sản cho DNBH, chi nhánh
nước ngoài khác, số tiền do Quỹ chi trả theo
hạn mức quy định tại Điều 7 Thông tư này
được chuyển trực tiếp cho DNBH, chi nhánh
nước ngoài nhận chuyển giao”. Với quy định
này, chủ HĐBH sẽ được Quỹ hỗ trợ để tiếp
tục duy trì HĐBH của mình ở DNBH, chi
nhánh bảo hiểm nước ngoài mới, và điều này
thật sự có ý nghĩa hơn trong lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ bởi lẽ người mua bảo hiểm sẽ rất khó
khăn trong việc ký kết HĐBH nhân thọ mới
vì phí bảo hiểm quá cao hay các hạn chế về
điều kiện tuổi tác, sức khỏe của NĐBH.
54
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(310) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
6 Xem khoản 5, Điều 1 Thông tư số 151/2012/TT-BTC.
Vấn đề đặt ra là giả sử Quỹ không tìm
được DNBH, chi nhánh bảo hiểm nước
ngoài nhận chuyển giao HĐBH này do các
hạn chế về rủi ro cao của NĐBH như: sức
khỏe, tuổi tác,... thì quyền lợi của NĐBH sẽ
được Quỹ bảo vệ như thế nào, khi họ vẫn
mong muốn tiếp tục duy trì HĐBH? Trong
trường hợp này, nên nghiên cứu và quy định
thêm chức năng của Quỹ về việc “trực tiếp
quản lý những HĐBH của các DNBH, chi
nhánh nước ngoài mất khả năng thanh toán,
DNBH phá sản và tiến hành chi trả tiền bảo
hiểm theo quy định trong HĐBH khi không
tìm được DNBH, chi nhánh bảo hiểm nước
ngoài nhận chuyển giao” để NĐBH được
bảo vệ tốt nhất.
4. Quy định về đầu tư nguồn tiền nhàn rỗi
của Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm tại
khoản 2, Điều 16 Thông tư số
101/2013/TT-BTC
Do mục tiêu hình thành Quỹ là bảo vệ
NĐBH khi DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài mất khả năng thanh
toán, khi DNBH phá sản, nên trong quá trình
vận hành, Quỹ phải luôn ở chế độ sẵn sàng
có tiền để chi trả khi xảy ra các sự kiện nói
trên. Do đó, một nguyên tắc rất cơ bản khi tổ
chức các hoạt động đầu tư của Quỹ là dù đầu
tư vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng
phải đảm bảo tính thanh khoản cao, tức khả
năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền
và có thể thu hồi được dễ dàng để có thể chi
trả cho NĐBH. Đây cũng là tính đặc thù
trong hoạt động đầu tư của Quỹ so với các
hoạt động đầu tư thông thường khác.
Hoạt động đầu tư từ nguồn tiền nhàn rỗi
của Quỹ cũng được quy định cụ thể: Mua trái
phiếu Chính phủ với số lượng không hạn
chế; Mua trái phiếu doanh nghiệp được
Chính phủ bảo lãnh với mức tối đa không
quá 5% tổng số tiền nhàn rỗi của Quỹ tại một
doanh nghiệp và không vượt quá 10% tổng
số tiền nhàn rỗi của Quỹ; Gửi tiền tại các
ngân hàng thương mại được thành lập và
hoạt động hợp pháp tại Việt Nam với mức tối
đa không quá 10% tổng số tiền nhàn rỗi của
Quỹ tại một ngân hàng thương mại và không
vượt quá 50% tổng số tiền nhàn rỗi của Quỹ.
Ngân hàng thương mại nơi Quỹ gửi tiền phải
là các ngân hàng có tình hình tài chính lành
mạnh, kinh doanh có hiệu quả, có khả năng
thanh khoản cao theo Quy chế đầu tư Quỹ.
Tuy nhiên, với việc không quy định hạn
mức phần trăm tổng số tiền nhàn rỗi của Quỹ
được giữ lại để dự phòng, tổng số tiền nhàn
rỗi của Quỹ có thể được đem đầu tư hết sau
khi trừ đi chi phí quản lý và các chi phí khác,
khi đó Quỹ có thể rơi vào tình trạng bị động,
không thanh toán kịp thời theo thời hạn luật
định cho NĐBH khi xảy ra trường hợp có
DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ mất
khả năng thanh toán, DNBH phá sản. Việc
thanh khoản gấp các nguồn đầu tư của Quỹ
trên thị trường chứng khoán cũng gây ra
những khó khăn cho Quỹ trong việc đảm bảo
khả năng sinh lợi. Vì vậy, theo chúng tôi, cần
thiết quy định tỷ lệ phần trăm nhất định Quỹ
giữ lại để dự phòng, nên là từ 10% đến 20%
trên tổng số tiền nhàn rỗi của Quỹ, để có thể
đảm bảo mức độ nhất định cho việc chi trả
trong thời hạn luật quy định. Trong trường
hợp Quỹ không đủ khả năng chi trả, Quỹ có
thể tiến hành vay tiền từ Ngân hàng Nhà
nước nhưng phải được Cục Quản lý, giám sát
bảo hiểm cho phép. Nếu số tiền chi trả của
Quỹ vượt quá tổng số tiền mà các DNBH,
chi nhánh bảo hiểm nước ngoài đóng góp,
thiết nghĩ, Quỹ cần được hỗ trợ về tài chính từ
Chính phủ (như quy định của Nhật Bản7) để
có thể bảo vệ được quyền lợi cho NĐBH như
mục đích của việc thành lập Quỹ đã đề ra.
5. Quy định về thời điểm ngưng trích
nộp Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm
theo khoản 2, Điều 4 Thông tư số
101/2013/TT-BTC
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông
tư 101 thì việc trích nộp Quỹ Bảo vệ NĐBH
hàng năm theo tỷ lệ không vượt quá 0,3%
trên tổng doanh thu phí bảo hiểm giữ lại
thuộc các HĐBH gốc trong năm tài chính
trước liền kề là nghĩa vụ bắt buộc đối với các
DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ
nước ngoài, để hình thành và gia tăng quy
mô của Quỹ, nhằm đảm bảo Quỹ có thể thực
55
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(310) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
7 Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm - Bộ Tài chính (2012), Phân tích và đánh giá mô hình quỹ bảo vệ chủ HĐBH của một số
nước, Bản tin Thị trường Bảo hiểm toàn cầu, số 6 (24) ngày 31/7/2012, tr. 20.
hiện việc chi trả khi có thành viên trích nộp
Quỹ mất khả năng thanh toán hay phá sản.
Việc trích nộp này được quản lý và theo dõi
riêng đối với từng loại hình bảo hiểm nhân
thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên,
nghĩa vụ này chỉ thực hiện cho đến khi quy
mô của Quỹ đạt đến tỷ lệ phần trăm nhất
định so với tổng tài sản của DNBH, chi
nhánh bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài trên
thị trường bảo hiểm trong năm tài chính
trước liền kề. Cụ thể khoản 2 Điều 4 Thông
tư 101 quy định: “Việc trích nộp Quỹ được
thực hiện đến khi quy mô của Quỹ trong lĩnh
vực bảo hiểm phi nhân thọ đạt 5% tổng tài
sản của DNBH phi nhân thọ, chi nhánh nước
ngoài và Quy mô của Quỹ trong lĩnh vực
nhân thọ đạt 3% tổng tài sản của DNBH
nhân thọ trong năm tài chính trước liền kề”.
Quy định này đồng nghĩa với việc giảm phần
nghĩa vụ tài chính đối với các DNBH, chi
nhánh bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, bởi
khi này quy mô của Quỹ đã đủ lớn để vận
hành theo mục đích đề ra.
Chúng tôi cho rằng, quy định trên là bất
cập, chưa thật sự tạo sự công bằng giữa các
DNBH, chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ
nước ngoài tham gia trên thị trường bảo hiểm
Việt Nam trước và sau khi Quỹ Bảo vệ
NĐBH ngưng việc thu trích nộp bởi các lý
do sau:
Thứ nhất, tại thời điểm Quỹ ngưng thu
việc trích nộp, có DNBH, chi nhánh bảo hiểm
nước ngoài đã tham gia trích nộp Quỹ rất
nhiều năm, có DNBH, chi nhánh bảo hiểm
nước ngoài mới tham gia trích nộp Quỹ được
vài năm, thậm chí là một năm, nhưng Quỹ
phải có nghĩa vụ chi trả theo quy định của
pháp luật cho bất kỳ thành viên trích nộp Quỹ
mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản.
Thứ hai, các DNBH, chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài tham gia vào thị
trường bảo hiểm Việt Nam sau thời điểm
Quỹ đã ngưng thu việc trích nộp sẽ không
phải thực hiện việc trích nộp Quỹ theo quy
định (lý do là quy mô Quỹ thời điểm này
bằng hoặc vượt mức 5% tổng tài sản DNBH
phi nhân thọ, chi nhánh bảo hiểm phi nhân
thọ nước ngoài trong lĩnh vực phi nhân thọ,
quy mô Quỹ bằng hoặc vượt mức 3% tổng
tài sản của DNBH nhân thọ trong năm tài
chính trước liền kề, và vốn nhàn rỗi của Quỹ
tiếp tục được sử dụng đầu tư sinh lợi theo
quy định). Vấn đề đặt ra là, nếu việc ngưng
thu này kéo dài cho đến khi một trong những
chủ thể này mất khả năng thanh toán hoặc
phá sản thì Quỹ có phải thực hiện việc chi
trả cho NĐBH không, khi DNBH, chi nhánh
bảo hiểm nước ngoài mà họ ký kết chưa từng
thực hiện nghĩa vụ trích nộp Quỹ?
Trong trường hợp trên, nếu Quỹ tiến
hành việc chi trả thì tạo ra sự không công
bằng đối với các DNBH, chi nhánh bảo hiểm
nước ngoài đã tham gia trích nộp Quỹ trước
đó, bởi họ đã phải thực hiện một nghĩa vụ tài
chính trong nhiều năm, nhưng Quỹ lại sử
dụng để chi trả cho trường hợp mất khả năng
thanh toán hoặc phá sản của chủ thể KDBH
chưa từng thực hiện nghĩa vụ tài chính này.
Nếu Quỹ không thực hiện việc chi trả thì sẽ
không công bằng đối với các chủ thể KDBH
tham gia thị trường bảo hiểm sau khi Quỹ
ngưng thu việc trích nộp, vì họ khó có thể
cạnh tranh thị phần với các DNBH, chi
nhánh bảo hiểm nước ngoài tham gia đóng
Quỹ trước đó vì tâm lý của người mua bảo
hiểm luôn muốn được bảo vệ ở mức cao
nhất, và điều này chắc chắn ảnh hưởng đến
sự phát triển của thị trường bảo hiểm.
Để giải quyết vấn đề trên, chúng tôi kiến
nghị sửa đổi khoản 2 Điều 4 Thông tư 101
như sau: “DNBH phi nhân thọ, chi nhánh
nước ngoài thực hiện việc trích nộp Quỹ cho
đến khi tổng số tiền trích nộp Quỹ đạt 5%
tổng tài sản của DNBH, chi nhánh nước
ngoài trong năm tài chính trước liền kề;
DNBH nhân thọ thực hiện việc trích nộp
Quỹ cho đến khi đạt 3% tổng tài sản của
DNBH nhân thọ trong năm tài chính trước
liền kề. Việc trích nộp Quỹ sẽ được phục hồi
nếu tổng tài sản của DNBH, chi nhánh nước
ngoài tăng vào năm tài chính trước liền kề”.
Với kiến nghị này, việc trích nộp Quỹ là bình
đẳng đối với các DNBH, chi nhánh nước
ngoài dù tham gia vào thị trường bảo hiểm
Việt Nam trước hay sau cũng phải trích nộp
Quỹ cho đến khi đạt mức phần trăm nhất
định trên tổng số tài sản của mình, góp phần
tạo môi trường pháp lý an toàn và bình đẳng
cho các chủ thể KDBH ở Việt Nam và bảo
vệ tốt nhất cho NĐBH n
56
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(310) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_quy_bao_ve_nguoi_duoc_bao_hiem.pdf