Nguyên nhân của các hạn chế,
bất cập
Thực trạng nêu trên xuất phát từ các
nguyên nhân sau:
Một là, việc hạn chế thực hiện quyền
tiếp cận thông tin để đảm bảo quyền bảo vệ
đời tư của bệnh nhân làm giảm hiệu quả
giám sát trực tiếp của người dân trong việc
phòng, chống dịch Covid-19.
Hai là, một số quy định trong Luật
Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007
chưa đáp ứng được công tác phòng, chống
dịch bệnh hiện nay ở nước ta.
Ba là, nhận thức về tầm quan trọng của
hoạt động giám sát trực tiếp của người dân
trong công tác phòng, chống bệnh truyền
nhiễm nói chung, đại dịch Covid-19 nói
riêng chưa đầy đủ, vẫn còn một bộ phận có
tâm lý thờ ơ, coi thường dịch bệnh và thiếu
trách nhiệm với cộng đồng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về quyền bảo vệ đời tư, quyền tiếp cận thông tin, giám sát trực tiếp của người dân trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 8(408) - T4/202026
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Các quy định của pháp luật về quyền
bảo vệ đời tư, quyền tiếp cận thông tin,
giám sát trực tiếp của người dân và thực
tiễn thực hiện
1.1. Các quy định của pháp luật
Quyền bảo vệ đời tư là một trong những
quyền cơ bản của con người được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế và
quốc gia, cụ thể là:
Tuyên bố quốc tế về nhân quyền của
Liên hợp quốc năm 1948 quy định tại Điều
12 “Không ai có thể bị xâm phạm một cách
độc đoán về đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín,
hay bị xúc phạm đến danh dự, thanh danh.
Ai cũng có quyền được pháp luật bảo vệ
chống lại những xâm phạm ấy”.
Quyền bảo vệ đời tư ở Việt Nam được
quy định tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013:
“Mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm
về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí
mật gia đình, có quyền bảo vệ uy tín của
mình”; khoản 2 Điều 3 Luật Khám, chữa
HOàN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẢO VỆ ĐỜI TƯ,
QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN, GIÁM SÁT TRỰC TIẾP CỦA
NGƯỜI DÂN TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID - 19 Ở VIỆT NAM
Phan Thị Lan Phương *
* TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bảo vệ đời tư; tiếp cận thông
tin; giám sát trực tiếp; Covid-19.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/04/2020
Biên tập : 26/03/2020
Duyệt bài : 29/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Privacy protection,
information access, direct
supervision, Covid-19.
Article History:
Received : 16 Mar. 2020
Edited : 26 Mar. 2020
Approved : 29 Mar. 2020
Tóm tắt:
Thực tiễn phòng, chống dịch Covid-19 của Việt Nam trong thời
gian qua cho thấy một số bất cập trong việc thực hiện quyền bảo
vệ đời tư của bệnh nhân, quyền tiếp cận thông tin và giám sát
trực tiếp của người dân. Bài viết tập trung phân tích những bất
cập trong việc thực hiện các quyền này và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc phòng,
chống dịch bệnh, giảm thiểu tối đa các thiệt hại về kinh tế và các
tác động tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Abstract:
The recent practice of Vietnam for prevention and fights against
Covid-19 epidemic shows some inadequacies in exercising the
right to protect patients’ privacy, the right to information and right
to direct supervision of the people. This article is focused on
analysis of the inadequacies in exercising these rights and
recommendations for improvement of the law to increase the
effectiveness of disease prevention, minimize economic losses
and negative impacts on people’s lives.
27Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
bệnh năm 2011 quy định nguyên tắc khám,
chữa bệnh phải: “Tôn trọng quyền của người
bệnh, giữ bí mật về thông tin về tình trạng
sức khoẻ và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh
án, nếu không phải là trường hợp thuộc
khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 11 và khoản 4
Điều 59”; Điều 38, Bộ luật Dân sự năm 2015
quy định: “Đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm
và được pháp luật bảo vệ, việc lưu giữ, thu
thập, công khai thông tin cá nhân phải được
người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ và
sử dụng công khai thông tin liên quan đến bí
mật gia đình phải được gia đình đồng ý, trừ
trường hợp luật có quy định khác”. Là văn
bản trực tiếp điều chỉnh trong việc phòng,
chống bệnh truyền nhiễm, khoản 5 Điều 8
Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm
2007 quy định về hành vi bị cấm “Phân biệt,
đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về
người mắc bệnh truyền nhiễm”.
Quyền tiếp cận thông tin được hiểu là
một trong những quyền thuộc nhóm quyền
chính trị, dân sự quy định trong Tuyên ngôn
nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 và
trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị năm 1966.
Quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
được quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm
2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện quyền này do
pháp luật quy định”. Quy định của Hiến
pháp về quyền tiếp cận thông tin được cụ thể
hóa bởi Luật Tiếp cận thông tin năm 2016;
theo đó, Điều 3 Luật quy định: “Mọi người
đều được bình đẳng trong việc thực hiện
quyền tiếp cận thông tin; Thông tin cung cấp
phải chính xác, đầy đủ và rõ ràng, tức là
thông tin đến với người dân phải đảm bảo
đầy đủ, không được phép mập mờ dẫn đến
hiểu sai bản chất của thông tin; Việc cung
cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận
lợi cho công dân, đúng trình tự, thủ tục theo
quy định của pháp luật”.
Giám sát trực tiếp của người dân được
hiểu là sự theo dõi, xem xét, đánh giá của
người dân với hoạt động của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Tuy chưa được ghi nhận trực
tiếp trong văn bản pháp luật quốc tế, nhưng
trong Điều 21 Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người năm 1948 quy định “mọi người
đều có quyền tham gia quản lý đất nước
mình một cách trực tiếp hoặc thông qua các
đại diện mà họ được tự do lựa chọn”; khoản
2 Điều 25 của Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị quy định: “Công dân
nếu không có sự hạn chế và phân biệt thì có
quyền tham gia điều hành công việc của xã
hội một cách trực tiếp hoặc thông qua cơ
quan đại diện do họ trực tiếp bầu”. Như vậy,
có thể hiểu hoạt động giám sát trực tiếp của
người dân là một phần của quyền tham gia
điều hành các công việc của xã hội.
Hoạt động giám sát của người dân nói
chung được quy định trong Điều 8 Hiến
pháp năm 2013: “Các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng
nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân”; Điều 28
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân
có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với các
cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở,
địa phương và cả nước; Nhà nước tạo điều
kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước
và xã hội; công khai, minh bạch trong việc
tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân”.
Khoản 4 Điều 23 Luật Phòng, chống
bệnh truyền nhiễm năm 2007 quy định: “Cơ
quan, tổ chức, cá nhân khi phát hiện bệnh
hoặc dấu hiệu bệnh truyền nhiễm có trách
nhiệm thông báo cho Uỷ ban nhân dân, cơ
quan chuyên môn y tế hoặc cơ sở y tế nơi
gần nhất”.
Về một số quy định cho phép hạn chế
quyền con người: Điều 4 của Công ước quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
quy định “Trong bối cảnh khẩn cấp đe doạ sự
sống còn của đất nước, các quốc gia có thể áp
dụng những biện pháp hạn chế việc thực hiện
các quyền nêu trong Công ước này trong một
Số 8(408) - T4/202028
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
thời gian nhất định”. Trong Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị cũng chỉ ra
quyền bảo vệ đời tư không phải là quyền tuyệt
đối, các quốc gia có quyền thu thập thông tin
cá nhân nếu vì mục đích xã hội1.
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Quyền con người và quyền công
dân bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khoẻ cộng đồng”.
Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin năm
2016 quy định, việc hạn chế quyền tiếp cận
thông tin phải do luật định trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khoẻ của cộng đồng.
1.2. Các hạn chế, bất cập trong thực
hiện pháp luật
Thực tiễn áp dụng các quy định nêu trên
trong phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt
Nam cho thấy một số những hạn chế, bất cập
trong các quy định của pháp luật về quyền
bảo vệ đời tư, quyền tiếp cận thông tin, hoạt
động giám sát trực tiếp của người dân trong
phòng, chống dịch bệnh Covid-19.
Một là, trong bối cảnh đại dịch Covid-
19, khi chúng ta thực hiện các quy định của
pháp luật về quyền bảo vệ đời tư, sẽ làm hạn
chế quyền tiếp cận thông tin của người dân;
trong khi đó, quyền tiếp cận thông tin là cơ
sở pháp lý để người dân có thể thực hiện
giám sát trực tiếp thông qua theo dõi phát
hiện kịp thời các vi phạm pháp luật về
phòng, chống dịch bệnh.
Bên cạnh đó, việc hạn chế quyền tiếp
cận thông tin của người dân còn gây nhiều
khó khăn trong công tác phòng, chống dịch
bệnh, làm ảnh hưởng đến đời sống xã hội khi
mà pháp luật quốc tế quy định chỉ hạn chế
các quyền con người nếu điều đó nhằm
mang lại lợi ích tốt đẹp hơn cho xã hội.
Ngoài ra, pháp luật chưa quy định cụ thể
về hoạt động giám sát trực tiếp của người
dân trong phòng, chống dịch bệnh. Các hình
thức giám sát của người dân hiện nay chủ
yếu mới được thực hiện qua các cơ quan đại
diện như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một
số tổ chức xã hội như Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, tổ chức Công đoàn. Pháp luật đã
quy định hình thức giám sát trực tiếp thông
qua việc trưng cầu dân ý, thực hiện quy chế
dân chủ cấp cơ sở hoặc qua hoạt động khiếu
nại, tố cáo, tố giác, báo tin. Tuy nhiên, các
quy định này được hiểu là người dân giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc
nhà chức trách trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, cho nên vẫn thiếu
vắng các quy định về giám sát trực tiếp của
người dân.
Hai là, Luật Phòng, chống bệnh truyền
nhiễm năm 2007 bao hàm nhiều quy định
chưa bảo đảm sự thống nhất giữa các quyền
bảo vệ đời tư, quyền tiếp cận thông tin và
giám sát trực tiếp của người dân, có thể chỉ
ra trong các nhóm quy định sau đây:
+ Nhóm quy định về quyền bảo vệ đời
tư của người bệnh:
Khoản 3 Điều 33 Luật quy định về trách
nhiệm của thầy thuốc và nhân viên y tế tại
cơ sở khám chữa bệnh “phải giữ bí mật
thông tin liên quan đến người bệnh”.
Khoản 5 Điều 8 Luật quy định: “Cấm
phân biệt, đối xử và đưa hình ảnh, thông tin
tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm”.
Các quy định trên đã dẫn đến cách hiểu
việc phòng, chống dịch chỉ là trách nhiệm
của riêng các cơ quan có thẩm quyền, đồng
nghĩa với việc giảm nhẹ đi vai trò tham gia,
sự chủ động phòng và chống dịch của mỗi
người dân.
Ngoài ra, trong trường hợp các thông
tin liên quan bệnh dịch không thể tiếp cận
đầy đủ cũng làm cho người dân không nhận
1 Giáo trình lý luận về quyền con người, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.228.
29Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
thức đúng về sự nguy hiểm của dịch bệnh;
có tâm lý chủ quan, thờ ơ, thậm chí không
tuân thủ nghiêm túc các quy tắc trong
phòng, chống dịch.
+ Nhóm các quy định liên quan đến
quyền tiếp cận thông tin:
Nguyên tắc phòng, chống bệnh truyền
nhiễm được quy định tại khoản 3 Điều 4
Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, đó
là: công khai, chính xác, kịp thời thông tin
về dịch.
Khoản 4 Điều 9 Luật quy định về nội
dung giáo dục truyền thông về phòng, chống
bệnh truyền nhiễm: trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong phòng, chống bệnh
truyền nhiễm.
Khoản 1 Điều 10 Luật quy định: “Người
dân được quyền tiếp cận mọi thông tin liên
quan đến dịch bệnh”.
Có thể thấy, Luật Phòng, chống bệnh
truyền nhiễm đã thừa nhận quyền tiếp cận
thông tin của người dân, không giới hạn
quyền tiếp cận thông tin.
+ Nhóm quy định liên quan đến hoạt
động giám sát của người dân:
Khoản 8 Điều 2 Luật giải thích: “Giám
sát bệnh truyền nhiễm là việc thu thập
thông tin liên tục, có hệ thống về tình hình,
chiều hướng của bệnh truyền nhiễm, phân
tích, giải thích nhằm cung cấp thông tin cho
việc lập kế hoạch, triển khai và đánh giá
hiệu quả các biện pháp phòng, chống bệnh
truyền nhiễm”.
Điều 20 Luật quy định hoạt động giám
sát bệnh truyền nhiễm là: “giám sát các
trường hợp mắc bệnh, bị nghi ngờ mắc
bệnh và mang mầm bệnh truyền nhiễm,
giám sát tác nhân gây bệnh, giám sát trung
gian gây bệnh”.
Khoản 4 Điều 23 Luật quy định: “Cơ
quan, tổ chức, cá nhân khi phát hiện bệnh
hoặc dấu hiệu bệnh truyền nhiễm có trách
nhiệm thông báo cho Uỷ ban nhân dân, cơ
quan chuyên môn y tế hoặc cơ sở y tế nơi
gần nhất”.
Như vậy, với nhóm quy định về giám sát
dịch bệnh của Luật đã cho thấy có sự chưa
thống nhất giữa các điều luật. Theo cách quy
định giải thích về giám sát dịch bệnh thì chủ
thể thực hiện giám sát không phải là người
dân; trong khi đó, quy định về trách nhiệm
giám sát có đề cập đến “cá nhân”, điều này
gây khó khăn trong việc áp dụng.
Ba là, các quy định về xử lý vi phạm
trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm
còn thiếu cụ thể gây khó khăn cho việc
tiếp cận nội dung nhằm kiểm tra tính đúng
đắn của hành vi hay khi xác định chế tài
của từng hành vi vi phạm làm hạn chế
hiệu lực của luật.
Trong khoảng thời gian từ tháng 1/2020
đến tháng 4/2020, Việt Nam đã rất quyết liệt
trong công tác phòng, chống dịch Covid-19.
Đối với những trường hợp xuất hiện bệnh
nhân bị nhiễm Covid-19, cơ quan chức năng
đưa lên phương tiện thông tin đại chúng dưới
dạng đánh số ký hiệu và địa phương nơi
bệnh nhân sinh sống để cho người dân cả
nước nắm được, đồng thời, chọn phương án
khai thác thông tin trực tiếp từ người nhiễm
bệnh để khoanh vùng phạm vi và các đối
tượng có tiếp xúc để thực hiện việc cách ly
y tế nguồn lây bệnh với cộng đồng. Chúng
tôi cho rằng, với thực tế 320 ca nhiễm ở Việt
Nam2, để nhớ và phân biệt được bệnh nhân
từ số 1 đến 320 sẽ rất khó khăn cho người
dân tiếp cận thông tin.
Việc bảo vệ quyền đời tư của bệnh nhân
mà các cơ quan chức năng đang thực hiện
tuy phù hợp với quy định của pháp luật về
phòng, chống dịch Covid-19, nhưng cũng có
hạn chế là việc thu thập thông tin để truy tìm
dấu vết nguồn lây bệnh nhằm khoanh vùng,
cách ly khu vực chứa mầm bệnh, thực chất
2 Tính tới ngày 18/5/2020.
Số 8(408) - T4/202030
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
chỉ mới ràng buộc trách nhiệm của người
bệnh phải tự nguyện khai báo, điều này dẫn
đến xảy ra các trường hợp sau:
- Người bệnh rất tích cực hợp tác khi
khai báo tình trạng bệnh, nhưng vì thời gian
ủ bệnh lâu3, có trường hợp mang mầm bệnh
nhưng không bộc lộ triệu chứng mà do đặc
thù công việc phải di chuyển nhiều nơi, tiếp
xúc nhiều người làm cho khi khai báo thông
tin, họ đã vô tình bỏ sót các đối tượng đã tiếp
xúc dẫn đến làm gia tăng nguy cơ lây lan
dịch bệnh.
- Có những trường hợp do lo ngại ảnh
hưởng lợi ích cá nhân nên người bệnh đã
không tự nguyện hợp tác, không trung thực
khi khai báo làm cản trở cơ quan chức năng
lần theo dấu vết dịch bệnh, kiến cho dịch
bệnh lây lan trong cộng đồng4.
1.3. Nguyên nhân của các hạn chế,
bất cập
Thực trạng nêu trên xuất phát từ các
nguyên nhân sau:
Một là, việc hạn chế thực hiện quyền
tiếp cận thông tin để đảm bảo quyền bảo vệ
đời tư của bệnh nhân làm giảm hiệu quả
giám sát trực tiếp của người dân trong việc
phòng, chống dịch Covid-19.
Hai là, một số quy định trong Luật
Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007
chưa đáp ứng được công tác phòng, chống
dịch bệnh hiện nay ở nước ta.
Ba là, nhận thức về tầm quan trọng của
hoạt động giám sát trực tiếp của người dân
trong công tác phòng, chống bệnh truyền
nhiễm nói chung, đại dịch Covid-19 nói
riêng chưa đầy đủ, vẫn còn một bộ phận có
tâm lý thờ ơ, coi thường dịch bệnh và thiếu
trách nhiệm với cộng đồng.
2. Một số đề xuất kiến nghị
Các quyền con người vốn là những giá
trị cao quý cần được tôn trọng và bảo đảm,
nhưng trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hiện
nay, chúng ta cần đặt quyền con người trong
mối quan hệ với lợi ích chung của xã hội; có
nghĩa là, các quyền cá nhân phải hài hoà với
quyền của nhóm, quyền của số đông.
Covid-19 xuất hiện như là sự cảnh báo
về những đại dịch tiếp theo mà con người có
thể phải đối mặt trong tương lai. Vì vậy,
chúng ta cần chủ động đón nhận và có các
biện pháp ngăn chặn hữu hiệu, làm giảm
thiểu tối đa những thiệt hại mà dịch bệnh gây
ra cho con người, cho xã hội. Để khắc phục
những hạn chế, bất cập nêu trên, chúng tôi
đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức về
vai trò của người dân trong giám sát trực
tiếp hoạt động của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức nhà nước nhằm phát hiện kịp thời
các vi phạm pháp luật và áp dụng các biện
pháp ngăn chặn. Cụ thể là, cần ban hành
Luật Giám sát của Nhân dân, trong đó quy
định riêng về hình thức giám sát trực tiếp
của người dân trong trường hợp xảy ra
dịch bệnh.
Thứ hai, việc hạn chế quyền bảo vệ đời
tư của người bệnh cần được quy định rõ
trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
Thứ ba, cần sửa đổi Luật Phòng,
chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 theo
hướng sau:
3 Theo tổ chức y tế thế giới-WHO, thời gian ủ bệnh của vi-rút Corona là từ 14-28 ngày.
4 Trường hợp bệnh nhân có số kí hiệu 34 ở Bình Thuận đã bay về Việt Nam từ vùng dịch nhưng vẫn di chuyển
nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người lại khai báo vòng vo, không trung thực, nhỏ giọt về lịch sử di chuyển và số
người mà bệnh nhân đã tiếp xúc, kết quả là làm lây bệnh cho 9 người, cách ly nhiều người. Đối với bệnh
nhân mang số kí hiệu 178 khi biết mình vào diện F1, được yêu cầu cách ly tập trung đã cố tình trốn tránh
bằng cách bỏ trốn về quê, sử dụng xe khách làm phương tiện di chuyển nhiều nơi cho đến khi bị sốt và phải
vào bệnh viện khám thì có hành vi khai báo gian dối khiến nhiều người phải cách ly đồng thời, phong toả
bệnh viện Đại Từ, Thái Nguyên.
(Xem tiếp trang 42)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_quyen_bao_ve_doi_tu_quyen_tiep_can_t.pdf