Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống tác hại của thuốc lá

Cuối cùng, trong chế tài hành chính tồn tại biện pháp “khắc phục hậu quả”. Giá trị của biện pháp này là ở chỗ buộc người vi phạm phải “khắc phục” mọi hậu quả do HVVP của mình gây ra và đưa tình trạng vi phạm trở về trạng thái ban đầu. Mặc dù được gọi là biện pháp khắc phục hậu quả nhưng tính chất cưỡng chế và mức độ “khắc nghiệt” của nó lại không thua kém các hình thức trách nhiệm pháp lý. Như đã trình bày, đối với hầu hết các vi phạm liên quan đến thuốc lá thì hình thức xử phạt chỉ là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang “đau đầu” với tình trạng xử phạt cảnh cáo vì hình phạt này ít có tác dụng răn đe, còn phạt tiền thì nhiều người vi phạm không có tiền để nộp. Thiết nghĩ, đối với các vi phạm liên quan đến thuốc lá thì cần quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả. Điều 28 Luật Xử lý VPHC năm 2012 sau khi liệt kê các biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể thì còn quy định thêm “các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định”. Như vậy, Chính phủ có thể quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả khác mà chưa được định danh trong Luật Xử lý VPHC năm 2012. Theo chúng tôi, có thể nghiên cứu để áp dụng biện pháp “buộc lao động công ích” đối với những người VPHC liên quan đến thuốc lá. Về nguyên tắc, những hành vi hút thuốc lá nơi công cộng, hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, sức khỏe của những người xung quanh nên phải thực hiện những hoạt động nhằm cải tạo môi trường. Như vậy, đối với những vi phạm này thì bên cạnh hình thức xử phạt chính còn có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như tổ chức cho người vi phạm lao động tại các công trình công ích như chăm sóc cây xanh, dọn dẹp vệ sinh ở công viên, cải tạo kênh mương Đây hoàn toàn không phải là cưỡng bức lao động mà nhằm mục đích nâng cao ý thức pháp luật của người vi phạm. Một hình thức lao động giản đơn, hợp lý luôn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Những cảnh cáo, nhắc nhở đơn thuần, “thiếu mồ hôi, thiếu công sức” sẽ không mang lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, cần lưu ý là cơ chế thực hiện, hình thức, cách làm phải khoa học, thận trọng, tránh lạm dụng, vừa thực hành vừa giáo dục, thuyết phục để người vi phạm không tái phạm trong tương lai

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 113 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống tác hại của thuốc lá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOAÂN THIÏåN PHAÁP LUÊÅT VÏÌ XÛÃ PHAÅT VI PHAÅM HAÂNH CHÑNH TRONG LÔNH VÛÅC PHOÂNG, CHÖËNG TAÁC HAÅI CUÃA THUÖËC LAÁ CAO VŨ MINH* TRƯƠNG TƯ PHƯỚC** 1. Một số hạn chế của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến thuốc lá Thứ nhất, việc xử phạt hành chính các vi phạm liên quan đến thuốc lá chưa nghiêm minh Trong Quốc lệnh tháng 1/1946, Hồ Chí Minh có nêu: “Thưởng phạt nghiêm minh là cần thiết. Nếu không thưởng thì không khuyến khích, nếu không phạt thì không giữ vững kỷ luật”1. Hiện nay, các chế tài hành chính liên quan đến vi phạm thuốc lá đã tương đối đầy đủ nhưng việc thực thi của các cơ quan chức năng lại rất hạn chế. Theo thống kê, từ năm 2010 đến giữa năm 2011, địa phương xử phạt người hút thuốc lá không đúng nơi quy định nhiều nhất là Lào Cai (phạt được 10 người, mức phạt tổng cộng 1,5 triệu đồng), Tp. Hồ Chí Minh phạt được 02 trường hợp, một số địa phương thì không phạt được bất kỳ trường hợp nào2. Trong khi đó, vi phạm liên quan đến hút thuốc lá nơi công cộng là rất phổ biến. Đồng thời, không chỉ ở nơi công cộng mà tại các cơ sở y tế, trường học - những nơi cấm hút thuốc lá hoàn toàn - vẫn có người “vô tư” hút thuốc song không bị xử phạt. Theo một thống kê, 38,7% số người được hỏi đã trả lời là có nhìn thấy việc hút thuốc lá tại cơ quan nhà nước; 23,6% thấy có hút thuốc tại cơ sở y tế; 22,3% thấy có hút thuốc tại trường mầm non, trường phổ thông; 34,4% nhìn thấy có hút 49NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT * ThS, GV. Khoa Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. ** GV. Khoa Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Sự Thật, H., 1984, tr.116. 2 Thông báo của Văn phòng Chương trình phòng chống tác hại thuốc lá (Bộ Y tế). Ý thức được tác hại của thuốc lá trong việc bảo vệ sức khỏe nhân dân, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Phòng, chống tác hại (PCTH) của thuốc lá năm 2012 tại kỳ họp thứ 3. Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 được ban hành đã tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho việc kiểm soát thuốc lá. Tuy nhiên, những quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) liên quan đến thuốc lá vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều quy định pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng, từ đó gây khó khăn trong việc áp dụng vào thực tiễn. thuốc lá trên phương tiện giao thông công cộng3. Hàng loạt nguyên nhân được nêu ra như “thiếu người xử phạt”, “người vi phạm không có tiền nộp phạt”, “vi phạm giao thông nếu không có tiền còn có thể tạm giữ xe, chứ hút thuốc lá nơi công cộng nếu không có tiền thì tạm giữ bao thuốc lá hay bật lửa” để “bào chữa” cho việc buông lỏng xử lý vi phạm. Theo chúng tôi, những giải thích trên không phải là lý do chính để “bỏ mặc” hoàn toàn việc xử phạt các vi phạm liên quan đến hút thuốc lá. Tình trạng các doanh nghiệp sử dụng lực lượng nữ xinh đẹp để tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng tại các quán ăn, nhà hàng vẫn phổ biến. Tình trạng thuốc lá không ghi nhãn, không in cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá vẫn diễn ra hàng ngày, hàng giờ với cường độ cao. Đây là những hành vi vi phạm (HVVP) rõ ràng, dễ phát hiện nhưng tại sao lại không bị xử phạt? Ở một góc độ tiêu cực, việc không xử lý nghiêm minh các vi phạm liên quan đến thuốc lá cũng chính là khuyến khích cho HVVP. Thứ hai, việc áp dụng các nguyên tắc xử phạt VPHC liên quan đến thuốc lá vào thực tiễn gặp nhiều khó khăn. - Việc áp dụng nguyên tắc “mọi VPHC liên quan đến thuốc lá phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay” gặp nhiều trở ngại. Theo quy định của pháp luật thì khi phát hiện vi phạm liên quan đến thuốc lá, người có thẩm quyền phải đình chỉ ngay. Đình chỉ vi phạm là công việc đầu tiên cần làm nhằm đảm bảo ngăn chặn kịp thời vi phạm tiếp diễn. Có thể nhận thấy, hiện nay, lực lượng chủ yếu phát hiện các vi phạm chỉ là các chiến sĩ công an và kiểm soát viên thị trường, nhưng lực lượng này lại không có quyền xử phạt trên 500.000 đồng. Trong khi đó, mức tiền phạt đối với nhiều HVVP liên quan đến thuốc lá thường lên đến từ vài triệu đến vài chục triệu đồng. Đơn cử, đối với các hành vi như bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi; bán thuốc lá không ghi nhãn, không in cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá đều có mức tiền phạt từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Nếu phát hiện hành vi này thì chiến sĩ công an hoặc kiểm soát viên thị trường chỉ có thể lập biên bản rồi chuyển lên cấp trên để ra quyết định xử phạt. Một khi chưa ra được quyết định xử phạt thì không thể áp dụng các hình thức phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: tịch thu tang vật vi phạm, buộc thu hồi sản phẩm. Điều đó có nghĩa là những hành vi này vẫn có khả năng được tiếp diễn. Trong một chừng mực nào đó thì biên bản của chiến sĩ công an hoặc kiểm soát viên thị trường lập lại có thể trở thành “bùa hộ mệnh” cho người vi phạm vì cứ trình biên bản này ra là có thể không bị xử phạt nữa. - Việc áp dụng nguyên tắc “người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC” vào thực tiễn rất khó khăn. Điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy định: “Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không VPHC”. Đối với VPHC liên quan đến thuốc lá thì nguyên tắc này được hiểu rằng, các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ chứng minh lỗi của người vi phạm. Nếu các cơ quan nhà nước không chứng minh được cá nhân, tổ chức có lỗi thì không được xử phạt họ. Không thể phủ nhận đây là một nguyên tắc rất nhân văn và là đảm bảo pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân4. Tuy 50 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 3 Báo Tuổi trẻ online, “Anh Một năm rưỡi, chỉ phạt được... 10 người hút thuốc lá” ngày 23/05/2011. 4 Cao Vũ Minh, Những điểm mới của Luật Xử lý VPHC năm 2012 trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Tạp chí Tòa án nhân dân số 13, tháng 7/2014. nhiên, đối với nhiều HVVP liên quan đến thuốc lá thì nguyên tắc này lại tạo ra những trở ngại đáng kể. Để xử phạt hành vi hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm, điều cần thiết là phải bắt quả tang và có bằng chứng. Thế nhưng, người ta chỉ hút 1 - 2 phút là xong một điếu thuốc, thậm chí chỉ châm lửa hút 1 - 2 hơi rồi bỏ hoặc khi phát hiện lực lượng chức năng, họ vứt luôn điếu thuốc xuống đất. Trong những trường hợp như thế, lực lượng chức năng rất khó khăn trong việc chứng minh vi phạm. Thường khi điều này xảy ra thì lực lượng chức năng sẽ có hai cách giải quyết: một là, sẽ vẫn tiếp tục xử phạt để rồi phải lo lắng vì có thể bị khiếu nại, khởi kiện và hai là, “ngó lơ” để không bị khiếu nại hoặc trở thành người bị kiện trong vụ án hành chính. Khi lực lượng chức năng tiến hành xử phạt mà việc chứng minh vi phạm trở nên phức tạp, khó khăn thì điều rất dễ nhận thấy là đa số sẽ lựa chọn cách hành xử thứ hai. Điều đó có nghĩa, vi phạm liên quan đến thuốc lá vẫn ngang nhiên tiếp diễn. - Việc áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền “trường hợp HVVP liên quan đến thuốc lá thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện” cũng có nhiều bất cập. Thực tế cho thấy, nếu đó là vụ việc dễ dàng xác định HVVP (như sản xuất, mua bán, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển thuốc lá) thì các cơ quan cùng “chạy đua” nhau phát hiện để trở thành người thụ lý đầu tiên và tiến hành xử phạt. Ngược lại, trong những vụ việc phức tạp, khó khăn, nhạy cảm (xử phạt người chưa đủ 18 tuổi sử dụng thuốc lá, xử phạt người bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi) thì lại né tránh, đùn đẩy nhau, thậm chí để vụ việc rơi vào tình trạng “cha chung không ai khóc”. Với lý do cho rằng có nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt, nếu cơ quan này không phạt thì vẫn có cơ quan khác xử phạt nên tình trạng “đùn đẩy” công việc xảy ra khá thường xuyên. Kết quả của sự né tránh, đùn đẩy này là tình hình vi phạm liên quan đến thuốc lá rất đáng báo động. Thứ ba, các quy định của pháp luật về xử phạt VPHC liên quan đến thuốc lá chưa đầy đủ, tản mạn và còn nhiều bất cập. Điều 9 Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 nghiêm cấm các hành vi: 1. Sản xuất, mua bán, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển thuốc lá giả, sản phẩm được thiết kế có hình thức hoặc kiểu dáng như bao, gói hoặc điếu thuốc lá; mua bán, tàng trữ, vận chuyển nguyên liệu thuốc lá, thuốc lá nhập lậu. 2. Quảng cáo, khuyến mại thuốc lá; tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng dưới mọi hình thức. 3. Tài trợ của tổ chức, cá nhân kinh doanh thuốc lá, trừ trường hợp quy định tại Điều 16 của Luật này. 4. Người chưa đủ 18 tuổi sử dụng, mua, bán thuốc lá. 5. Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi mua, bán thuốc lá. 6. Bán, cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi. 7. Bán thuốc lá bằng máy bán thuốc lá tự động; hút, bán thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm. 8. Sử dụng hình ảnh thuốc lá trên báo chí, xuất bản phẩm dành riêng cho trẻ em. 9. Vận động, ép buộc người khác sử dụng thuốc lá. Tuy liệt kê các hành vi bị nghiêm cấm nhưng Luật PCTH thuốc lá năm 2012 không quy định chế tài cụ thể đối với từng hành vi. Điều này chỉ có thể được làm rõ thông qua các nghị định của Chính phủ. Tuy nhiên, điều bất cập là chế tài của các hành vi này lại nằm tản mạn trong rất nhiều các nghị định khác nhau. Cụ thể, khoản 2 Điều 9 Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 quy định hành vi bị cấm 51NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT là: “quảng cáo, khuyến mại thuốc lá; tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng dưới mọi hình thức” nhưng chế tài lại nằm trong 03 nghị định khác nhau. Theo đó, hành vi quảng cáo thuốc lá bị xử phạt theo chế tài của Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ban hành ngày 12/11/2013 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; hành vi khuyến mại thuốc lá bị xử phạt theo chế tài của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ban hành ngày 15/11/2013 quy định xử phạt VPHC trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; còn hành vi tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng dưới mọi hình thức bị xử phạt theo chế tài của Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ban hành ngày 31/12/2013 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế. Về kỹ thuật lập pháp thì việc thiết kế các chế tài như trên là không hợp lý. Dẫu biết rằng, mỗi HVVP có thể thuộc một lĩnh vực khác nhau và được điều chỉnh trong một nghị định chuyên ngành nhưng sự tản mạn của các chế tài này đã gây ra khó khăn trong quá trình xem xét, xử lý cũng như công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Ngay đối với những nhà nghiên cứu và các chuyên gia luật thì việc tìm hiểu tất cả HVVP cũng như chế tài xử phạt đã là điều không đơn giản. Điều này càng trở nên phức tạp hơn đối với những người không chuyên về luật. Một nghịch lý là chế tài xử phạt các HVVP về thuốc lá tuy nhiều nhưng lại không đầy đủ. Khoản 6 Điều 9 Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 quy định hành vi bị cấm là: “Bán, cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi”. Hành vi “bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Nghị định số 185/2013/NĐ- CP. Tuy nhiên, hành vi “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” thì lại không tìm thấy chế tài tương ứng trong các nghị định của Chính phủ. Theo chúng tôi, hành vi “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” không thể đồng nhất với hành vi “bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” vì đơn giản “bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” phải tồn tại yếu tố trao đổi ngang giá. Trong khi đó, “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” thì không cần yếu tố này vì có thể là tặng cho... Như vậy, dẫu biết “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” là HVVP pháp luật nhưng chế tài xử lý thế nào thì lại không rõ ràng. Thông thường, các quy định thiếu chế tài sẽ chỉ là các khẩu hiệu. Nếu nói, đạo luật trong nhà nước pháp quyền cũng phải có thuộc tính riêng, thì chắc chắn, thuộc tính của đạo luật ấy không thể là tính nửa vời trong việc điều chỉnh pháp luật5. Thay vào đó, trong nhà nước pháp quyền, các đạo luật được xây dựng phải có tính minh bạch cao, tạo ra các thông điệp rõ ràng với hệ thống thưởng phạt tương xứng để điều chỉnh hành vi của mọi cá nhân, tổ chức6. Thứ tư, chế tài xử phạt VPHC liên quan đến thuốc lá không đa dạng, dẫn đến việc áp dụng vào thực tế còn tồn tại nhiều hạn chế. Theo quy định của pháp luật, mỗi HVVP liên quan đến thuốc lá thì chủ thể phải chịu 52 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 5 Nguyễn Văn Cương, Đạo luật thiếu chế tài - bàn về một thông lệ xây dựng luật ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 115, tháng 2/2008. 6 Giáo sư luật nổi tiếng người Hoa Kỳ Lon Fuller đã chỉ rõ trong tác phẩm Đạo của pháp luật (Morality of Law) những yếu tố khiến cho một hệ thống pháp luật trở nên vô nghĩa, trong đó có một yếu tố là sự thiếu minh bạch trong việc quy định các biện pháp chế tài. Xem thêm Lon Fuller, The Morality of Law (revised edition); New Haven and London: Yale University Press, 1969 at. 39. một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả: tịch thu tang vật đối với HVVP; tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh; buộc tiêu hủy hàng hóa vi phạm; buộc thu hồi hàng hóa vi phạm Tuy nhiên, hệ thống các hình thức xử phạt VPHC và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực PCTH của thuốc lá ở nước ta hiện nay còn quá đơn giản. Hiện nay, HVVP phổ biến nhất ở nước ta là hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm. Đối với hành vi này thì chế tài xử phạt là cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng. Cảnh cáo thì quá nhẹ, không có tác dụng lớn trong đấu tranh PCTH của thuốc lá. Trong khi đó, hình thức phạt tiền chỉ có tính răn đe với “người nghèo” còn “người giàu” thì tình nguyện chịu nộp phạt để tiếp tục vi phạm. Bằng chứng là báo chí hằng ngày vẫn cứ than phiền rằng nhiều người nghiện thuốc lá nặng (trong đó có cả cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên y tế) tình nguyện chịu phạt tiền chỉ để xin được hút thuốc lá7. Thậm chí, có trường hợp, khi lực lượng chức năng phát hiện hành vi hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm thì người vi phạm xin được phạt cảnh cáo vì không có tiền nộp phạt. Trong những trường hợp này, rõ ràng, chế tài xử phạt đã không phát huy được tác dụng như mục đích vốn dĩ nó phải có. 2. Một số giải pháp cụ thể Không thể phủ nhận việc xử phạt VPHC liên quan đến thuốc lá là rất khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, không phải vì “bài toán” khó này mà các cơ quan, các đoàn thể và cả xã hội lại “bó tay”, để mặc cho các VPHC liên quan đến thuốc lá hoành hành. Trên cơ sở phân tích những hạn chế nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về PCTH của thuốc lá. Thứ nhất, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền cần thực hiện nghiêm minh việc phát hiện, xử phạt các VPHC liên quan đến thuốc lá. Thậm chí, có thể đưa “xử lý nghiêm minh các VPHC liên quan đến thuốc lá” là một tiêu chí để phân loại thi đua cuối năm hoặc xem xét mức độ hoàn thành công việc. Việc buông lỏng xử phạt đã làm cho tình trạng vi phạm liên quan đến thuốc lá tiếp tục nở rộ như nấm sau cơn mưa. Suy cho cùng, đó là lỗi của cơ quan quản lý. Vì vậy, đưa nội dung đánh giá như trên vào tiêu chí phân loại thi đua là hoàn toàn hợp lý. Tất nhiên, khi thực hiện tiêu chí này cũng cần phải phân biệt với hiện tượng “phạt theo chỉ tiêu” đã từng áp dụng trong lĩnh vực giao thông8. Giữa “xử lý nghiêm minh” với “phạt theo chỉ tiêu” có mục đích hoàn toàn khác nhau. “Phạt theo chỉ tiêu” chỉ nhằm mục đích thu tiền phạt, trong khi đó, mục đích của việc “xử lý nghiêm minh” là nhằm đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng, bảo vệ sức khỏe nhân dân và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các lực lượng chức năng cần làm tốt và phát huy tác dụng của công tác nắm tình hình. Cụ thể, lực lượng chức năng phải tổ chức triển khai thực hiện tốt công tác điều tra cơ bản, tiến hành kiểm tra, khảo sát các địa điểm thường xuyên xảy ra HVVP liên quan đến thuốc lá. Từ đó phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm đảm bảo cho việc xử lý nghiêm minh các vi phạm liên 53NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 7 Báo Người Lao động, Ngọc Dung, “Phạt nặng vẫn khó cấm hút thuốc lá”, ngày 12/12/2013. 8 Vũ Văn Nhiêm, Mấy ý kiến về một số biện pháp xử lý VPHC trong lĩnh vực giao thông dưới góc nhìn bảo vệ quyền con người - quyền công dân, Tham luận Hội thảo khoa học “Sửa đổi Luật Xử lý VPHC” do Khoa Luật Hành chính Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Viện Nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển thuộc Hội Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh ngày 29/04/2010. quan đến thuốc lá. Đơn cử, các quyết định xử phạt của lực lượng chức năng cũng cần được sự hỗ trợ rất lớn từ phía chính quyền địa phương trong việc tống đạt, thông báo và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt. Thứ hai, những quy định hiện nay về thẩm quyền xử phạt VPHC liên quan đến thuốc lá cần có sự điều chỉnh khoa học và hợp lý, tránh tình trạng quá tải đối với một số chủ thể có thẩm quyền xử phạt. Trước hết, cần nâng thẩm quyền xử phạt cho chiến sĩ công an và kiểm soát viên thị trường. Hiện nay, mức tiền phạt của các chủ thể này là quá thấp và trong nhiều trường hợp không thể đình chỉ ngay HVVP. Quy định nâng thẩm quyền xử phạt của chiến sĩ công an đang thi hành công vụ và kiểm soát viên thị trường sẽ hạn chế được tình trạng vi phạm không được xử lý kịp thời hay tình trạng quá tải trong việc xử phạt của cơ quan cấp trên. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác xử phạt hành chính liên quan đến thuốc lá thì việc Nhà nước đầu tư những phương tiện kỹ thuật đồng bộ, hiện đại là cần thiết. Nhờ có sự hỗ trợ của phương tiện khoa học kỹ thuật mà những chủ thể làm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ nhanh chóng phát hiện ra các vi phạm để kịp thời xử lý nghiêm minh. Tại các “điểm nóng” vi phạm liên quan đến thuốc lá có thể trang bị đồng bộ hệ thống camera quan sát tự động nhằm hỗ trợ lực lượng chức năng phát hiện và xử phạt vi phạm. Ngoài camera thì Nhà nước cần trang bị cho các lực lượng chức năng một số phương tiện nghiệp vụ kỹ thuật như máy chụp ảnh, máy quay phim cầm tay để có thể xử phạt các HVVP. Thiết nghĩ, nếu có sự hỗ trợ của các phương tiện nghiệp vụ kỹ thuật hiện đại này thì việc chứng minh các vi phạm của cá nhân, tổ chức sẽ trở nên thuận lợi, minh bạch hơn. Thứ ba, như đã trình bày, hiện nay các chế tài xử phạt liên quan đến thuốc lá nằm trong quá nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Điều này là không hợp lý và không tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sưu tra, tìm kiếm nhằm phổ biến, tuyên truyền, xử lý các vi phạm liên quan đến thuốc lá. Theo chúng tôi, Chính phủ nên ban hành một nghị định duy nhất để điều chỉnh tất cả HVVP liên quan đến thuốc lá. Nếu thực hiện theo cách này thì chỉ cần tập hợp hóa các quy định tản mạn ở các nghị định khác nhau để ban hành thành một nghị định duy nhất. Tất nhiên, để tránh sự trùng lắp thì những nghị định khác phải bãi bỏ hết các quy định liên quan để xử phạt hành chính về thuốc lá vì những hành vi này đã được điều chỉnh trong nghị định chuyên ngành. Bên cạnh đó, cần bổ sung chế tài đối với hành vi “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi”. Theo chúng tôi, nếu không quy định chế tài đối với các hành vi này thì sẽ gây ra nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời cũng không đạt hiệu quả trong việc phòng ngừa, ngăn chặn, những HVVP trên thực tế. Cuối cùng, trong chế tài hành chính tồn tại biện pháp “khắc phục hậu quả”. Giá trị của biện pháp này là ở chỗ buộc người vi phạm phải “khắc phục” mọi hậu quả do HVVP của mình gây ra và đưa tình trạng vi phạm trở về trạng thái ban đầu. Mặc dù được gọi là biện pháp khắc phục hậu quả nhưng tính chất cưỡng chế và mức độ “khắc nghiệt” của nó lại không thua kém các hình thức trách nhiệm pháp lý. Như đã trình bày, đối với hầu hết các vi phạm liên quan đến thuốc lá thì hình thức xử phạt chỉ là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang “đau đầu” với tình trạng xử phạt cảnh cáo vì hình phạt này ít có tác dụng răn đe, còn phạt tiền thì nhiều người vi phạm không có tiền để nộp. Thiết nghĩ, đối với các vi phạm liên quan đến thuốc lá thì cần quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả. Điều 28 Luật Xử lý VPHC 54 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT năm 2012 sau khi liệt kê các biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể thì còn quy định thêm “các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định”. Như vậy, Chính phủ có thể quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả khác mà chưa được định danh trong Luật Xử lý VPHC năm 2012. Theo chúng tôi, có thể nghiên cứu để áp dụng biện pháp “buộc lao động công ích” đối với những người VPHC liên quan đến thuốc lá. Về nguyên tắc, những hành vi hút thuốc lá nơi công cộng, hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, sức khỏe của những người xung quanh nên phải thực hiện những hoạt động nhằm cải tạo môi trường. Như vậy, đối với những vi phạm này thì bên cạnh hình thức xử phạt chính còn có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như tổ chức cho người vi phạm lao động tại các công trình công ích như chăm sóc cây xanh, dọn dẹp vệ sinh ở công viên, cải tạo kênh mương Đây hoàn toàn không phải là cưỡng bức lao động mà nhằm mục đích nâng cao ý thức pháp luật của người vi phạm. Một hình thức lao động giản đơn, hợp lý luôn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Những cảnh cáo, nhắc nhở đơn thuần, “thiếu mồ hôi, thiếu công sức” sẽ không mang lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, cần lưu ý là cơ chế thực hiện, hình thức, cách làm phải khoa học, thận trọng, tránh lạm dụng, vừa thực hành vừa giáo dục, thuyết phục để người vi phạm không tái phạm trong tương lai n a) Người thực hiện HVNH mắc bệnh từ thời điểm nào (trước, trong hay sau khi thực hiện HVNH); b) Nếu người thực hiện HVNH mắc bệnh trước hoặc trong khi thực hiện hành vi thì phải chứng minh tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không. c) Tình trạng bệnh và tâm thần của người thực hiện HVNH có liên quan đến sự nguy hiểm cho bản thân họ, cho những người xung quanh hoặc có thể gây nên những thiệt hại khác cho xã hội hay không. 2. Khi tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra phải bảo đảm có người bào chữa tham gia tố tụng từ khi xác định được người có HVNH mắc BTT hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Người đại diện hợp pháp của người đó có thể tham gia tố tụng trong trường hợp cần thiết. 3. Trường hợp kết quả giám định xác định bị can mắc BTT hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì Cơ quan điều tra gửi văn bản đề nghị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh kèm theo kết luận giám định và toàn bộ hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để xem xét, quyết định. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của Cơ quan điều tra cùng kết luận giám định và toàn bộ hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh đối với bị can hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại nếu thấy chưa đủ căn cứ để quyết định. 4. Trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra đối với bị can n Nhûäng vêën àïì... (TiÕp theo trang 42) 55NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_phap_luat_ve_xu_phat_vi_pham_hanh_chinh_trong_lin.pdf
Tài liệu liên quan