Hoàn thiện quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm

“Điều 211. Thủ tục hỏi người làm chứng 1. Theo yêu cầu của KSV, người bào chữa, hoặc khi cần thiết chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly người làm chứng để cho họ không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Nếu lời khai của người làm chứng và bị cáo có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể cách ly bị cáo trước khi hỏi người làm chứng. Người làm chứng được cách ly trước khi được hỏi về vụ án, hoặc trước khi hỏi bị cáo, hoặc khi người làm chứng và bị cáo đang trả lời việc xét hỏi thì có thể bị tạm dừng và thực hiện việc cách ly đối với họ. 4. Người làm chứng đã trình bày xong nếu không cần phải trình bày gì thêm hoặc lời khai của họ không có mâu thuẫn, giả tạo thì họ có thể được rời phòng xử án khi phiên tòa đang tiếp tục. 5. .” Năm là, kiến nghị bổ sung trường hợp bắt buộc phải công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra khi bị cáo chối tội và khi cần phải đối chất tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật TTHS, vì trên thực tế xảy ra nhiều phiên tranh tụng bị cáo không nhận tội, hoặc không thừa nhận hành vi nào đó xuyên suốt từ quá trình điều tra cho đến khi xét hỏi tại phiên tòa. Cụ thể khoản 2 Điều 208 Bộ luật TTHS được thiết lập như sau: “Điều 208. Công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra 1. . 2. Chỉ được công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp sau đây: . d) Bị cáo chối tội hoặc không thừa nhận một trong những hành vi phạm tội do mình gây ra, hoặc HĐXX xét thấy cần phải đối chất tại phiên tòa”. Sáu là, kiến nghị mở rộng đối tượng của vật chứng và vật thể được đưa ra xem xét tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 212 Bộ luật TTHS, gồm băng ghi âm, ghi hình và phim, nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Cụ thể khoản 1 Điều 212 được thiết lập như sau (bao gồm đặt tên gọi mới của điều luật là “Xem xét vật chứng và vật thể liên quan đến vụ án” thay cho tên gọi cũ là “Xem xét vật chứng”).

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOAÂN THIÏåN QUY ÀÕNH CUÃA BÖÅ LUÊÅT TÖË TUÅNG HÒNH SÛÅ NÙM 2003 VÏÌ THUÃ TUÅC XEÁT HOÃI TAÅI PHIÏN TOÂA SÚ THÊÍM NGUYỄN NGỌC KIỆN* 1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm 1.1. Thủ tục trình bày cáo trạng Theo quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2003 thì trước khi tiến hành xét hỏi, kiểm sát viên (KSV) đọc cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có. Cần khẳng định rằng, đọc cáo trạng không phải là hoạt động xét hỏi, mà là một thủ tục TTHS bắt buộc tạo cơ sở cho hoạt động xét hỏi liền ngay sau đó. Đồng thời với đọc cáo trạng, KSV được trình bày ý kiến bổ sung, nếu có. Vấn đề đặt ra ở đây là, việc bổ sung của KSV chỉ để làm rõ, giải thích cáo trạng hay bao gồm cả những tình tiết vụ án? Ở nước ta, Viện kiểm sát thường lập cáo trạng rất dài, phải công bố tốn rất nhiều thời gian của phiên tòa. Cáo trạng đã tổng hợp đầy đủ các vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án thì việc xét hỏi, lập luận, đưa ra chứng cứ tranh tụng tại Tòa án sẽ mất đi tính hấp dẫn. Cáo trạng trước đó đã được giao cho bị cáo và người tham gia tố tụng1, giao cho Tòa án và Cơ quan điều tra thì việc công bố lại một lần nữa tại phiên tòa là không cần thiết, lãng phí rất nhiều thời gian của phiên tranh tụng. Để tránh khỏi định kiến thì nhiều nước trên thế giới không có thủ tục đọc cáo trạng, thậm chí cáo trạng được xây dựng rất vắn tắt và chỉ giao cho Hội đồng xét xử (HĐXX) trước khi bước vào hoạt động xét hỏi. Pháp luật TTHS hiện hành không quy định thủ tục trình bày ý kiến của bị cáo về sự buộc tội của KSV và đưa ra ý kiến về việc có nhận tội hay không trước khi bước vào hoạt động xét hỏi. Việc quy định bị cáo được đưa ra ý kiến lập luận về nội dung buộc tội (có nhận tội hay không, đồng ý hay không một phần hay toàn bộ nội dung bị cáo buộc, lý do?) giúp cho định hướng hoạt động tố tụng tiếp theo được thuận lợi, là cách thức thực hiện quyền bào chữa, quyền không phải chứng minh là mình vô tội. Bên cạnh đó, pháp luật TTHS cũng chưa đặt ra thủ tục người bị hại trình bày lời buộc tội, nếu vụ án được khởi tố theo yêu cầu của họ. Trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, xảy ra hai khả năng: thứ nhất, người bị hại tự mình thực hiện việc buộc tội và không cần phải KSV tham gia phiên tòa; thứ hai, người bị hại và KSV cùng thực hiện việc buộc tội, trường hợp này KSV phải tham gia phiên tòa. Ở 43NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT * ThS. Trường Đại học Luật - Đại học Huế. 1 Ở nước ta, thủ tục tố tụng chưa quy định phải giao cáo trạng cho bị hại và người tham gia tố tụng khác là một bất cập. trường hợp thứ hai, phương thức, thời điểm buộc tội có thể khác nhau. Đó là người bị hại có thể tự mình hoặc người đại diện trình bày lời buộc tội ngay sau khi KSV đọc cáo trạng tại phiên tòa. 1.2. Chủ thể và phạm vi xét hỏi Theo quy định tại Chương XX của Bộ luật TTHS (Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa) thì có thể phân chủ thể xét hỏi thành hai nhóm đối tượng. Nhóm thứ nhất là người tiến hành tố tụng và nhóm thứ hai là người tham gia tố tụng. Ở nhóm thứ nhất, chủ thể xét hỏi gồm có thẩm phán chủ tọa, các hội thẩm và KSV; nhóm thứ hai, chủ thể xét hỏi gồm có: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, bị cáo; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của những người này; người làm chứng. Vấn đề đặt ra là thủ tục xét hỏi chỉ xác lập quyền xét hỏi trực tiếp thuộc về các thành viên HĐXX, KSV và người bào chữa (nhóm thứ nhất), còn các chủ thể xét hỏi khác (nhóm thứ hai) chỉ có quyền xét hỏi gián tiếp. Nghĩa là việc đặt câu hỏi phải thông qua đề nghị HĐXX và HĐXX là người đặt câu hỏi. Như vậy, ở đây đã xảy ra sự giới hạn và sự phụ thuộc trong hoạt động xét hỏi, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền của chủ thể tham gia tố tụng và hiệu quả chứng minh bị giảm sút. Về phạm vi xét hỏi, được quy định tại khoản 3 Điều 209 Bộ luật TTHS, đó là, “KSV hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo. Người bào chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến vụ án”. Quy định này vẫn còn một số hạn chế là: Một là, theo quy định của Bộ luật TTHS thì HĐXX chịu trách nhiệm chính trong hoạt động xét hỏi, có toàn quyền quyết định hỏi mọi vấn đề trong vụ án. Dẫn đến một hệ quả tất yếu là thực tế HĐXX đã lạm dụng hoạt động xét hỏi; hỏi tường tận mọi vấn đề làm cho KSV và người bào chữa không còn gì để hỏi. KSV thường tìm xem có vấn đề gì HĐXX chưa hỏi để đặt câu hỏi tránh bị trùng lặp. Hai là, việc xác định giới hạn phạm vi xét hỏi chưa hợp lý. Theo đó, KSV được hỏi về những tình tiết liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội. Hiểu và xác định như thế nào là một tình tiết liên quan đến việc buộc tội và không liên quan đến việc buộc tội? Chắc chắn là không thể xác định đúng và đủ được. Ví dụ, KSV cần phải hỏi để làm rõ hóa đơn viện phí, ngày công lao động và thu nhập thực tế của người bị hại để xác định trách nhiệm bồi thường dân sự, hoặc là thủ tục xử lý vật chứng, tài sản trong vụ án v.v.. thì có phải là tình tiết buộc tội không? Giới hạn nội dung xét hỏi của KSV đã hạn chế quyền hạn chứng minh của chủ thể này, và trên thực tế phạm vi xét hỏi như vậy đã không được KSV xác định. Chủ thể này có thể hỏi bất kỳ vấn đề nào liên quan đến vụ án. Bên cạnh đó, phạm vi xét hỏi của KSV còn là những tình tiết liên quan đến gỡ tội. Điều này có mâu thuẫn chăng, vì tại phiên tòa, KSV chỉ làm chức năng buộc tội, sao lại còn phải hỏi gỡ tội? Ở đây có thể giải thích rằng, ở nước ta Viện kiểm sát vừa thực hiện chức năng thực hành quyền công tố nhà nước, vừa thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tại phiên tòa, KSV vừa phải giữ quyền công tố, tiến hành buộc tội, vừa phải kiểm sát hoạt động xét xử của HĐXX để khắc phục vi phạm tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo và người tham gia tố tụng. Đơn cử như HĐXX đã bỏ qua thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ của người bào chữa hoặc người tham gia tố tụng nào đó, hoặc thành viên HĐXX không đúng, có vi phạm v.v.., lúc này KSV trực tiếp yêu cầu HĐXX khắc phục 44 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT ngay. Do đó, nhiệm vụ được pháp luật TTHS đặt ra là các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, KSV nói riêng không được làm oan người vô tội. Như vậy, không đơn thuần là KSV chỉ đặt câu hỏi để buộc tội. Điều này là có lợi cho hoạt động của bên bào chữa và bị cáo. Trong trường hợp này, có thể nhìn thấy ở đó sự hợp tác của KSV với người bào chữa chứ không hoàn toàn là xét hỏi mang tính đối tụng nữa. Ba là, người bào chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa, và người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi về những tình tiết liên quan đến bảo vệ quyền lợi của đương sự. Việc giới hạn như vậy cũng không thể xác định được tình tiết nào là liên quan hay không liên quan đến việc bào chữa, việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thực tế tại phiên tòa sơ thẩm không thể phân định hay bắt buộc các chủ thể xét hỏi và chủ thể đề nghị xét hỏi làm đúng phạm vi xét hỏi như vậy. Vì xét hỏi gắn liền với việc chứng minh, với nhiều đối tượng chứng minh khác nhau cần phải hỏi toàn diện và phải có phương pháp, nghệ thuật trong hoạt động nghiệp vụ, nghề nghiệp thì mới đạt hiệu quả. Dù biết rằng nhà làm luật với ý chí mong muốn là tránh cho việc xét hỏi lan man, kéo dài không cần thiết, nhưng muốn vậy thì phải xác định lại thủ tục, phương pháp xét hỏi, chứ không phải là đặt ra phạm vi để giới hạn. 1.3. Phương pháp và trình tự xét hỏi - Về phương pháp xét hỏi. Theo quy định tại Điều 207, Điều 209, Điều 210, Điều 211 và Điều 215 của Bộ luật TTHS, có thể phân chia các phương pháp xét hỏi như sau: xét hỏi từng người, xét hỏi bổ sung, xét hỏi kết hợp với biện pháp cách ly bị cáo và người làm chứng, xét hỏi kết hợp với công bố lời khai tại cơ quan điều tra, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ và trình bày, công bố các tài liệu của vụ án. Trong các phương pháp xét hỏi đó, chúng ta chú ý đến phương pháp xét hỏi kết hợp với biện pháp cách ly bị cáo và người làm chứng. Phương pháp này với ý nghĩa là tạo tâm lý thuận lợi cho người khai, làm cho người được xét hỏi không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Trong quá trình xét hỏi, chủ tọa phiên tòa có thể cho cách ly các bị cáo với nhau, cách ly bị cáo với người làm chứng và cách ly người làm chứng với nhau. Vấn đề đặt ra, một là, các quy phạm của Bộ luật TTHS nêu trên chỉ quy định cho HĐXX được áp dụng biện pháp cách ly trong xét hỏi, còn các chủ thể khác như KSV, người bào chữa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác muốn áp dụng thủ tục này phải thông qua đề nghị HĐXX (thực tế hiếm khi gặp)2. Đó là một hạn chế, ảnh hưởng đến quyền chứng minh thông qua tranh tụng của các bên. Do vậy, pháp luật tố tụng không những phải mở rộng về chủ thể có quyền yêu cầu, đề nghị chủ tọa áp dụng biện pháp cách ly, mà về thời gian thực hiện cách ly phải quy định cụ thể cả trước và trong khi xét hỏi để tạo ra sự linh động, hiệu quả. Hai là, trên phương diện thực tiễn, HĐXX hiếm khi thực hiện biện pháp cách ly trong xét hỏi như đã nêu, cho dù vụ án đó phải cách ly. Lý do là dự đoán lời khai của bị cáo có trái ngược nhau hay không, người làm chứng khai có ảnh hưởng đến bị cáo, đến người làm chứng đối lập hay không thì rất khó và do luật chưa quy định cụ thể người tham gia tố tụng được yêu cầu, đề nghị chủ tọa phiên tòa thực hiện biện pháp cách ly. Ba là, về mặt kỹ thuật lập pháp, khoản 2 Điều 204 Bộ luật TTHS chỉ nên quy định về giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng, còn biện pháp cách ly đối 45NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 2 Pháp luật nhiều nước trên thế giới quy định rõ ràng quyền đề nghị này, như Pháp, Nga, Nhật Bản. Ở Pháp còn quy định Công tố viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác có quyền đề nghị chủ tọa cách ly người làm chứng trước khi xét hỏi; Ở Nhật, việc cách ly bị cáo khi lấy lời khai người làm chứng chỉ khi có mặt luật sư của bị cáo tại phiên tòa... với chủ thể này nên được quy định thống nhất tại Điều 211 Bộ luật TTHS, nhằm tránh cùng vấn đề nhưng lại được quy định tản mạn. Bên cạnh đó còn phải chú ý đến phương pháp xét hỏi kết hợp với xem xét vật chứng. Vật chứng là một nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh cao nhất, nhưng Điều 212 Bộ luật TTHS lại không quy định bắt buộc là trong quá trình xét hỏi, chủ tọa phiên tòa phải để cho bị cáo, người làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác trực tiếp xem xét vật chứng và đưa ra lời nhận xét3. Vì thế mà trên thực tế hầu hết các phiên tòa hình sự sơ thẩm ở nước ta chưa coi trọng việc trưng diện vật chứng ra trước tòa để kết hợp với việc xét hỏi, hoặc là khi cần phải đưa vật chứng ra để chứng minh thì Tòa án chỉ đưa biên bản xác nhận vật chứng. Đó là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả chứng minh. Bên cạnh vật chứng và ảnh, thì cần thiết phải bổ sung quy định công bố băng ghi âm hoặc ghi hình và phim đáp ứng yêu cầu thực tiễn. - Về trình tự xét hỏi. Theo quy định tại Điều 207 Bộ luật TTHS thì lần lượt chủ tọa hỏi trước rồi đến các hội thẩm, sau đó đến KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Vận dụng quy định này trong những năm qua, HĐXX đã đảm trách chính hoạt động xét hỏi, khiến cho KSV và người bào chữa bị lu mờ, và sự áp đặt chính kiến của HĐXX là không thể tránh khỏi. Chính vì trình tự xét hỏi và trách nhiệm xét hỏi không hợp lý, đã không làm rõ được các chức năng cơ bản tại phiên tòa; không bảo đảm yếu tố bình đẳng trong hoạt động tranh tụng. Trong thời gian qua có nhiều ý kiến cho rằng, khi cải cách, sửa đổi thủ tục xét hỏi thì nên để cho HĐXX làm vai trò “trọng tài”, đứng giữa các bên để đưa ra phán quyết như ở nhiều nước trên thế giới theo hệ tranh tụng. Thiết nghĩ, không nên hiểu và thiết kế vai trò của HĐXX trong xét hỏi là “trọng tài”. Như vậy sẽ rập khuôn, làm cho HĐXX sẽ bị động. Vì vậy, cần quy định để cho HĐXX xét hỏi sau cùng, với vai trò phụ, chỉ hỏi bổ sung khi các tình tiết vụ án chưa được làm rõ. 2. Hoàn thiện Bộ luật luật Tố tụng hình sự năm 2003 về các quy định thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm Một là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 206 Bộ luật TTHS về thủ tục trình bày cáo trạng: i) đổi tên gọi điều luật là “Đọc bản cáo trạng” thành “Trình bày lời buộc tội và ý kiến của bị cáo”; ii) về nội dung điều luật: loại bỏ thủ tục đọc cáo trạng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nhằm khắc phục hạn chế, vướng mắc của nó, thay vào đó là bổ sung thủ tục trình bày lời buộc tội của KSV và giải thích, bổ sung luận điểm truy tố nếu cần thiết; bổ sung thủ tục người bị hại trình bày ý kiến buộc tội trong trường hợp khởi tố vụ án theo yêu của họ; bổ sung thủ tục chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo có hiểu nội dung buộc tội hay không, có nhận tội hay không và có cần trình bày ý kiến của bị cáo về việc bị KSV cáo buộc hay không. Cụ thể Điều 206 được thiết kế như sau: “Điều 206. Trình bày lời buộc tội và ý kiến của bị cáo Trước khi tiến hành xét hỏi, KSV trình bày lời buộc tội; giải thích, bổ sung làm rõ nội dung luận điểm truy tố, nếu có. Người bị hại hoặc người đại diện của họ có mặt tại phiên tòa trình bày lời buộc tội trong trường hợp vụ án bắt buộc phải khởi tố theo yêu cầu của họ. Sau đó chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo về việc có hiểu nội dung buộc tội hay không, có nhận tội hay không và bị cáo (kể cả người 46 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 3 Trường hợp vật chứng không thể đưa đến phiên tòa thì khi có yêu cầu của các bên tham gia phiên tòa, hoặc xét thấy cần thiết mới đến nơi gửi/giữ vật chứng để xem xét. bào chữa cho bị cáo) có cần bày tỏ thái độ với lời buộc tội hay không”. Hai là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 207 Bộ luật TTHS về trình tự xét hỏi, bằng việc đổi tên gọi điều luật là “Trình tự xét hỏi” thành “Phương pháp xét hỏi và trình tự xét hỏi”. Về nội dung điều luật: i) bổ sung quyền xét hỏi trực tiếp của bị cáo và người tham gia tố tụng khác để bảo đảm quyền chất vấn trực tiếp và đối mặt với những cáo buộc lẫn nhau từ hai phía buộc tội và bào chữa. Điều đó làm tăng cường yếu tố tranh tụng. Các chủ thể này có quyền được xét hỏi trực tiếp theo trình tự, chỉ đề nghị HĐXX khi muốn hỏi bổ sung; ii) bổ sung cụ thể hơn về các phương pháp xét hỏi nhằm tạo ra sự linh hoạt. Đó là đặt KSV chịu trách nhiệm chính trong việc xét hỏi, HĐXX chỉ hỏi bổ sung khi thấy cần thiết; chủ thể xét hỏi được quyền lựa chọn bị cáo hoặc người tham gia tố tụng nào trước để hỏi; khắc phục thực trạng trong hoạt động xét hỏi không gắn với việc trưng diện và làm rõ vật chứng, cũng như bị cáo và người tham gia tố tụng khác không được nhận xét vật chứng tại phiên tòa (chỉ xem qua biên bản mô tả vật chứng trong giai đoạn điều tra); iii) nhằm khắc phục bất cập trong việc điều khiển phiên tòa, tạo ra sự bình đẳng, dân chủ trong hoạt động tranh tụng, kiến nghị bổ sung quy định chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian xét hỏi, nhưng có quyền cắt những câu hỏi có tính gợi ý, vòng vo, hoặc không liên quan đến vụ án. Cụ thể, Điều 207 nên được thiết kế như sau: “Điều 207. Phương pháp và trình tự xét hỏi 1. KSV phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. KSV hỏi bị cáo trước, khi cần thiết thì có thể hỏi người bị hại, người làm chứng trước. 2. KSV hỏi trước rồi đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, bị cáo và người tham gia tố tụng khác, sau đó đến HĐXX. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác có quyền trực tiếp đặt câu hỏi đối với bị cáo và người tham gia tố tụng khác. HĐXX chỉ hỏi khi xét thấy việc xét hỏi chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. 3. Khi xét hỏi, KSV, người bào chữa và HĐXX phải xem xét vật chứng trong vụ án; trong quá trình xét hỏi, chủ tọa phiên tòa phải để cho bị cáo, người làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác trực tiếp xem xét vật chứng và đưa ra lời nhận xét. 4. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian xét hỏi, tạo điều kiện cho người bào chữa, người tham gia tố tụng đặt câu hỏi, nhưng có quyền cắt những câu hỏi có tính gợi ý, vòng vo lặp lại hoặc không liên quan đến vụ án”. Ba là, kiến nghị sửa đổi Điều 209 Bộ luật TTHS về hỏi bị cáo. Theo đó, loại bỏ khoản 2 của Điều luật này. Bởi vì, nội dung của quy định này cho thấy sự lặp lại, khó hiểu và rườm rà, đó là: bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết vụ án, sau đó HĐXX hỏi thêm những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Ngoài ra, cần loại bỏ khoản 3 Điều luật này. Bởi vì ở đó đã giới hạn nội dung xét hỏi của KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (chỉ được hỏi những tình tiết liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội, việc bào chữa, việc bảo vệ quyền lợi của đương sự) là thiếu tính khả thi. Nó cũng không đạt được mục đích của nhà làm luật là tránh cho việc xét hỏi thiếu trọng tâm, bị kéo dài. Về mặt quy phạm, vô hình trung nó đã bó hẹp những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Bốn là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 204 Bộ luật TTHS về giải thích quyền, nghĩa vụ và cách ly người làm chứng và Điều 211 Bộ luật TTHS về hỏi người làm chứng. Theo đó, mở rộng các chủ thể là KSV, 47NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT người bào chữa và bị cáo, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra yêu cầu, đề nghị chủ tọa áp dụng biện pháp cách ly người làm chứng, về thời gian thực hiện cách ly phải quy định cụ thể cả trước và trong khi xét hỏi để tạo ra sự linh hoạt; về mặt kỹ thuật lập pháp, cùng một vấn đề cách ly người làm chứng nhưng được quy định tại khoản 2 Điều 204 và lặp lại tại khoản 1 Điều 211 là không hợp lý, do đó cần sửa đổi nhằm tránh việc quy định tản mạn và được cụ thể hơn; đồng thời để tạo ra sự linh hoạt, thuận lợi về thời gian tham gia phiên tòa, thì không nên bắt buộc trong mọi trường hợp người làm chứng phải ở lại phiên tòa khi họ đã trình bày xong. Như vậy, bỏ đi quy định tại khoản 2 Điều 204 và đặt tên gọi mới của Điều 204 là “Điều 204. Giải thích quyền, nghĩa vụ người làm chứng”. Điều 211 với tên gọi mới “Thủ tục hỏi người làm chứng”, được bổ sung khoản 1 và sửa đổi khoản 4 như sau: (lưu ý là nội dung của các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 211 được giữ nguyên, sắp xếp lại thứ tự theo số thập phân): “Điều 211. Thủ tục hỏi người làm chứng 1. Theo yêu cầu của KSV, người bào chữa, hoặc khi cần thiết chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly người làm chứng để cho họ không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Nếu lời khai của người làm chứng và bị cáo có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể cách ly bị cáo trước khi hỏi người làm chứng. Người làm chứng được cách ly trước khi được hỏi về vụ án, hoặc trước khi hỏi bị cáo, hoặc khi người làm chứng và bị cáo đang trả lời việc xét hỏi thì có thể bị tạm dừng và thực hiện việc cách ly đối với họ. 2. ... 3. ... 4. Người làm chứng đã trình bày xong nếu không cần phải trình bày gì thêm hoặc lời khai của họ không có mâu thuẫn, giả tạo thì họ có thể được rời phòng xử án khi phiên tòa đang tiếp tục. 5. ...” Năm là, kiến nghị bổ sung trường hợp bắt buộc phải công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra khi bị cáo chối tội và khi cần phải đối chất tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật TTHS, vì trên thực tế xảy ra nhiều phiên tranh tụng bị cáo không nhận tội, hoặc không thừa nhận hành vi nào đó xuyên suốt từ quá trình điều tra cho đến khi xét hỏi tại phiên tòa. Cụ thể khoản 2 Điều 208 Bộ luật TTHS được thiết lập như sau: “Điều 208. Công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra 1. ... 2. Chỉ được công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp sau đây: ... d) Bị cáo chối tội hoặc không thừa nhận một trong những hành vi phạm tội do mình gây ra, hoặc HĐXX xét thấy cần phải đối chất tại phiên tòa”. Sáu là, kiến nghị mở rộng đối tượng của vật chứng và vật thể được đưa ra xem xét tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 212 Bộ luật TTHS, gồm băng ghi âm, ghi hình và phim, nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Cụ thể khoản 1 Điều 212 được thiết lập như sau (bao gồm đặt tên gọi mới của điều luật là “Xem xét vật chứng và vật thể liên quan đến vụ án” thay cho tên gọi cũ là “Xem xét vật chứng”). “Điều 212. Xem xét vật chứng và vật thể liên quan đến vụ án 1. Vật chứng, ảnh chụp vật chứng hoặc biên bản xác nhận vật chứng, và băng ghi âm hoặc ghi hình và phim được đưa ra để xem xét tại phiên tòa.”n 48 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_quy_dinh_cua_bo_luat_to_tung_hinh_su_nam_2003_ve.pdf
Tài liệu liên quan