Một số kiến nghị
Để bảo vệ quyền, lợi ích của các bên
trong hoạt động M&A ngân hàng thương
mại, bảo vệ quyền lợi của người lao động,
chúng tôi cho rằng, cần hoàn thiện pháp luật
về sở hữu trí tuệ theo hướng sau:
Một là, cần sửa đổi quy định Chuẩn
mực kế toán Việt Nam số 04 về việc xác
định các thuật ngữ tài sản trí tuệ và cách
thức định giá tài sản trí tuệ cho phù hợp với
Thông tư số 127/2014/ TT- BTC.
Hai là, bổ sung quy định về việc giải
quyết sử dụng lao động khi M&A doanh
nghiệp trong Bộ luật Lao động năm 2012 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ba là, bổ sung quy định về thông báo
cho người lao động phương án sử dụng lao
động khi sáp nhập, mua lại ngân hàng trong
văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh
nghiệp năm 2014 theo hướng, người lao động
phải được lấy ý kiến rộng rãi về phương án
sử dụng lao động khi sáp nhập, mua lại ngân
hàng, để có được các thỏa thuận cụ thể về lao
động giữa ngân hàng nhận sáp nhập, mua lại
và ngân hàng được sáp nhập, mua lại
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ và sử dụng lao động trong các thương vụ mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC
THƯƠNG VỤ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI1
1 Bài viết có sử dụng một số nội dung trong đề tài khoa học cấp Trường Đại học Luật Hà Nội “Pháp luật về xác định giá trị
doanh nghiệp, cạnh tranh và quản lý nhân sự trong quá trình mua bán, sáp nhập các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
Tóm tắt:
Mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại (M&A) là con đường
tất yếu trong lộ trình phát triển ngân hàng nhằm tái cấu trúc ngành
ngân hàng. Tài sản trí tuệ và nguồn lao động là những yếu tố quan
trọng quyết định sự thành công của các thương vụ mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại. Vì tài sản trí tuệ, chất lượng nhân sự
sẽ là các lợi thế cạnh tranh của ngân hàng nhận mua lại, nhận sáp
nhập. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về định giá tài sản trí tuệ và
sử dụng lao động trong các thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng
thương mại ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Trần Thị Bảo Ánh*
* TS. Trường Đại học Luật Hà Nội
Abstract
Acquisition and merger of commercial banks (M&A) is an
indispensable route in the banking development roadmap for
restructure of the banking sector. Intellectual property and labour
resource are important determinants for the success of acquisitions
and mergers. It is because the intellectual property and the quality of
human resources will be the competitive advantage of the acquiring
and merging commercial banks. Therefore, the improvement
of the law on valuation of the intellectual property and labour
arrangements in the acquisition and merger of commercial banks in
Vietnam shall provide both theoretical and practical significance.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: mua lại và sáp nhập ngân
hàng thương mại ở Việt Nam, hoàn
thiện pháp luật về định giá tài sản trí
tuệ, sử dụng lao động, M&A
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 25/09/2018
Biên tập : 02/10/2018
Duyệt bài : 09/10/2018
Article Infomation:
Keywords: Acquisition and merger
of commercial banks in Vietnam;
improvement of the law on valuation
of the intellectual property and labour
arrangements; M&A
Article History:
Received : 25 Sep. 2018
Edited : 02 Oct. 2018
Approved : 09 Oct. 2018
1. Sự cần thiết của hoạt động M&A ngân
hàng thương mại
Ở Việt Nam, sau năm 1991, hàng loạt
các ngân hàng thương mại cổ phần ra đời.
Năm 1997 là năm có số lượng ngân hàng
thương mại cao nhất với 84 ngân hàng. Do
sự tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ năm 1997 nên nhiều ngân
hàng lâm vào tình trạng khó khăn. Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) chịu áp lực phải
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 22(374) T11/2018
củng cố tập trung xây dựng hệ thống ngân
hàng vững mạnh bằng các biện pháp như
giải thể, rút giấy phép, mua lại, sáp nhập
ngân hàng. Năm 2012, Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án 254 "Cơ cấu lại hệ
thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011
- 2015" với mục đích tái cấu trúc ngành
ngân hàng theo hướng giảm số lượng ngân
hàng để lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng.
Đầu năm 2015, Chính phủ tiếp tục có Nghị
quyết số 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2015.
Theo đó, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà
nước và các cơ quan, bộ, ngành tạo điều
kiện thúc đẩy nhanh các phương án mua lại,
sáp nhập các tổ chức tín dụng nói chung,
M&A ngân hàng thương mại nói riêng dựa
trên cơ sở tự nguyện và đúng pháp luật. Hoạt
động M&A ngân hàng thương mại trong giai
đoạn này diễn ra khá sôi động, chủ yếu nằm
trong chương trình tái cơ cấu bắt buộc của
NHNN nhằm đảm bảo an toàn hệ thống các
tổ chức tín dụng, ổn định thị trường tiền
tệ. Trong hai năm 2012 và 2013, có một số
thương vụ M&A ngân hàng như hợp nhất
(SCB, Ficombank, Tinnghiabank); sáp nhập
Habubank vào SHB; Thương vụ DaiABank
và HD Bank hợp nhất thành HD Bank với
mức vốn điều lệ tăng từ 5.000 tỷ đồng lên
8.100 tỷ đồng. Ngày 22/5/2015, Ngân hàng
Thương mại cổ phần Phát triển nhà đồng
bằng sông Cửu Long (MHB) đã chính thức
sáp nhập vào Ngân hàng Đầu tư và phát triển
(BIDV). Cùng ngày 22/5/2015, PG Bank
cũng đã sáp nhập vào Vietinbank; ngày
12/8/2015, Ngân hàng Thương mại cổ phần
Phát triển Mê Kông (MDB) chính thức sáp
nhập vào Maritime Bank Để đảm bảo ổn
định thị trường tiền tệ, NHNN cũng đã quyết
định mua lại ba ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém với giá 0 đồng là Ngân hàng
cổ phần Dầu khí Toàn cầu (G.PBank), Ngân
hàng Đại Dương (Oceanbank) và Ngân hàng
Xây dựng (VNCB). Đây là giải pháp tái cơ
cấu chưa từng được áp dụng trước đây.
Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp
M&A ngân hàng thương mại bắt nguồn từ
tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Ngân hàng thương mại là doanh
nghiệp có hoạt động kinh doanh cung cấp đa
dạng các dịch vụ tài chính như nhận tiền gửi,
cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán
và cung ứng các dịch vụ tài chính khác. Với
hoạt động kinh doanh đặc thù liên quan đến
lĩnh vực tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro và có
tác động đến nền kinh tế - xã hội nên ngân
hàng phải tuân thủ nhiều yêu cầu trong hoạt
động kinh doanh. Đó là phải đảm bảo tính
liên tục, ổn định và không ảnh hưởng đến
quyền lợi của khách hàng, của những người
gửi tiền và của các bên có liên quan; đảm
bảo các điều kiện về vốn điều lệ và tỷ lệ an
toàn vốn. Trong thời gian vừa qua, M&A
ngân hàng thương mại tại Việt Nam chủ
yếu là để thực hiện lộ trình tăng vốn điều
lệ tối thiểu theo quy định tại nghị định số
141/2006 NĐ-CP ngày 22/11/2006 quy định
về danh mục vốn pháp định của các tổ chức
tín dụng thì đến năm 2010, vốn điều lệ của
mỗi ngân hàng thương mại phải ít nhất bằng
vốn pháp định, đạt tối thiểu 3.000 tỷ đồng.
Mục đích M&A ngân hàng thương
mại để đảm bảo được sự an toàn về tài chính
cho hệ thống các ngân hàng (M&A nhằm
tăng vốn điều lệ của ngân hàng); hạn chế
nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng; bảo đảm
an toàn cho tài sản của Nhà nước; thực hiện
việc chi trả bình thường đối với tiền gửi của
khách hàng... Đối với ngân hàng bị mua lại
hoặc bị sáp nhập, hoạt động M&A là một
giải pháp để bảo vệ quyền lợi của các chủ sở
hữu và các nhà đầu tư; hạn chế rủi ro đến lợi
ích của người gửi tiền và bảo đảm tính ổn
định của hệ thống ngân hàng. Đối với ngân
hàng mua lại hoặc nhận sáp nhập, hoạt động
mua bán hoặc sáp nhập sẽ tận dụng được
lợi thế kinh doanh, rút ngắn thời gian tham
gia thị trường và giảm chi phí so với việc
thành lập doanh nghiệp mới và vẫn kế thừa
hệ thống khách hàng. Như vậy, M&A ngân
hàng thương mại là con đường tất yếu trong
lộ trình phát triển ngân hàng Việt Nam hiện
tại và tương lai.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 22(374) T11/2018
2. Quy định của pháp luật về định giá tài
sản trí tuệ và sử dụng lao động trong hoạt
động M&A các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam
2.1 Quy định của pháp luật về định
giá tài sản trí tuệ trong hoạt động M&A các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Ngân hàng thương mại là một loại
hình doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh
đặc thù, đó là thực hiện các hoạt động ngân
hàng như nhận tiền gửi, cấp tín dụng và
cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản2.
Hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng đến
nền kinh tế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy
M&A ngân hàng cần thiết phải được điều
chỉnh trong những văn bản pháp luật riêng
biệt. Các văn bản trực tiếp điều chỉnh M&A
ngân hàng gồm: Luật các Tổ chức tín dụng
năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Thông tư số 04/2010/TT-NHNN của NHNN
ngày 11/2/2010 quy định việc sáp nhập,
hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng; Thông
tư số 36/2015/TT-NHNN của NHNN ngày
31/12/2015 quy định tổ chức lại tổ chức tín
dụng thay thế các quy định về sáp nhập, hợp
nhất tổ chức tín dụng quy định tại Thông tư
số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/2/2010 của
NHNN.
Thuật ngữ tài sản trí tuệ gắn liền với
thuật ngữ quyền sở hữu trí tuệ được quy
định tại khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2009; theo đó tài sản trí tuệ chính là
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Quyền
sở hữu trí tuệ là quyền của các tổ chức, cá
nhân đối với tài sản trí tuệ bao gồm quyền
tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng.
Nhìn nhận ở góc độ khác, theo quy
định tại Điều 105 của Bộ luật Dân sự năm
2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản. Quyền tài sản là quyền
2 Xem khoản 2, khoản 12 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
3 Chuyên đề: Định giá tài sản trí tuệ đối với hoạt động mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam, PGS. TS Vũ
Thị Hải Yến, đề tài khoa học cấp trường Đại học Luật Hà Nội “Pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp, cạnh tranh
và quản lý nhân sự trong quá trình mua bán, sáp nhập các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”.
trị giá được thành tiền bao gồm quyền tài
sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
Như vậy quyền sở hữu trí tuệ là một loại tài
sản (quyền tài sản).
Nhận thức về vai trò của sở hữu trí tuệ
đối với tăng trưởng kinh tế đã kéo theo sự
thay đổi trong quan niệm về tài sản trong
các doanh nghiệp. Theo đánh giá của Tổng
giám đốc Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới,
“các tài sản trí tuệ đang là cơ sở để đánh giá
sự trụ vững và hoạt động trong tương lai của
doanh nghiệp”3. Tài sản trí tuệ có những ưu
thế như: (i) Không bị giới hạn phạm vi sử
dụng có thể được khai thác cùng một lúc ở
nhiều nơi; (ii) Tài sản trí tuệ là sản phẩm của
sự sáng tạo không ngừng nghỉ của con người
nên không bị khấu hao như tài sản hữu hình;
(iii) Tài sản trí tuệ có khả năng sinh lợi quyết
định sự gia tăng giá trị của sản phẩm, dịch
vụ và tạo cho doanh nghiệp có ưu thế cạnh
tranh trên thị trường. Vì những ưu thế nổi
trội như vậy nên việc định giá tài sản trí tuệ
có ý nghĩa quan trọng và cần thiết trong các
giao dịch M&A của doanh nghiệp để xác
định lợi ích kinh tế của các bên tham gia
M&A. Định giá tài sản trí tuệ có thể được
hiểu là việc xác định giá trị bằng tiền của
một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo
hộ, có thể chuyển giao và có thể tạo ra thu
nhập tại một địa điểm, thời điểm xác định.
Ở Việt Nam, quy định về định giá tài
sản trí tuệ được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật như Luật Chuyển giao công nghệ
năm 2006; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009;
Luật Doanh nghiệp năm 2014; Chuẩn mực
kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình
ban hành và công bố theo Quyết định số
149/2001/QĐ- BTC ngày 31/12/2001 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính (Chuẩn mực kế
toán số 04); Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13
thẩm định giá tài sản cố định vô hình được
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 22(374) T11/2018
ban hành kèm theo Thông tư số 06/2014/
TT- BTC ngày 07/01/2014 của Bộ Tài chính
(Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13)
Quy định về định giá tài sản trí tuệ
trong các văn bản nêu trên đã tạo cơ sở pháp
lý quan trọng cho hoạt động thương mại nói
chung, hoạt động M&A nói riêng. Bên cạnh
đó, quy định về định giá tài sản trí tuệ của các
văn bản này còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Một là: Quy định về tài sản trí tuệ
trong các văn bản chưa thống nhất.
Các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ hầu
như không điều chỉnh trực tiếp mà chỉ đề cập
đến các quy định mang tính chất nguyên tắc
về cách tính toán (dựa trên sổ sách) của tài
sản vô hình, trong đó bao gồm các tài sản trí
tuệ. Trong thực tiễn, điểm a khoản 7, Điều
18 Thông tư số 127/2014/ TT- BTC ngày
05/09/2014 Hướng dẫn xử lý tài chính và giá
trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty
cổ phần có thừa nhận giá trị của thương
hiệu (bao gồm nhãn hiệu và tên thương mại)
được tính vào giá trị của doanh nghiệp khi
cổ phần hóa4. Tuy nhiên, trong Chuẩn mực
kế toán Việt Nam số 04 quy định các nhãn
hiệu hàng hóa được hình thành trong nội bộ
doanh nghiệp không được ghi nhận là tài sản
cố định vô hình để định giá tính vào giá trị
doanh nghiệp và ghi vào sổ kế toán.
Hai là: Việc định giá tài sản trí tuệ vẫn
chưa theo một chuẩn mực chung.
Do chưa có quy định thống nhất về các
loại tài sản trí tuệ nên cách thức định giá có
thể khác nhau và mang yếu tố cảm tính. Trên
thực tế, mỗi ngân hàng thương mại Việt Nam
4 Giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại
trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp 5 năm, bao gồm chi phí thành
lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu
sản phẩm, giới thiệu công ty; xây dựng trang web....
Thông tư số 127/2014 nay được thay bằng Thông tư số 41/2018 TT- BTC ngày 04/05/2018 hướng dẫn một số nội dung
về xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần.
5 Xem: tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/hoan-thien-quy-dinh-ve-dinh-gia-tai-san-tri-tue-trong-dieu-kien-hoi-
nhap-kinh-te-117697.html, Hoàn thiện quy định về định giá tài sản trí tuệ trong điều kiện hội nhập kinh tế, Lê Minh
Thái, Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, ngày 22/07/2017.
định giá tài sản theo cách khác nhau; cùng
một tài sản nhưng ở mỗi ngân hàng cho một
kết quả định giá khác nhau. Việc định giá
doanh nghiệp cũng chỉ dựa trên căn cứ số
liệu sổ sách, bảng cân đối kế toán nên cũng
rất khó xác định chính xác giá trị đích thực
của doanh nghiệp, đặc biệt giá trị của doanh
nghiệp là ngân hàng lại càng khó định giá do
ngoài tài sản hữu hình còn có nhiều tài sản
vô hình với giá trị lớn như: thương hiệu, bản
quyền sáng chế, sản phẩm truyền thống, uy
tín của đội ngũ lãnh đạo ngân hàng5.
2.2 Quy định của pháp luật về việc sử
dụng lao động trong các thương vụ M&A
ngân hàng thương mại
M&A ngân hàng là những sự kiện có
tác động lớn đến việc giải quyết lao động
trong ngân hàng và có thể làm cho nhiều
người lao động đang làm việc cho ngân hàng
thương mại bị mất việc làm. Vì vậy, pháp
luật phải có các quy định bảo vệ quyền lợi
người lao động theo hướng đảm bảo quyền
làm việc của người lao động sau khi ngân
hàng bị sáp nhập, mua lại. Điều 45 Bộ luật
Lao động năm 2012 quy định nghĩa vụ của
người sử dụng lao động trong những trường
hợp sáp nhập doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
“1. Trong trường hợp sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã thì
người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu
trách nhiệm tiếp tục sử dụng số lao động
hiện có và tiến hành việc sửa đổi, bổ sung
hợp đồng lao động.
Trong trường hợp không sử dụng hết
số lao động hiện có, thì người sử dụng lao
động kế tiếp có trách nhiệm xây dựng và
thực hiện phương án sử dụng lao động theo
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 22(374) T11/2018
quy định tại Điều 46 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp chuyển quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh
nghiệp, thì người sử dụng lao động trước đó
phải lập phương án sử dụng lao động theo
quy định tại Điều 46 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp người sử dụng
lao động cho người lao động thôi việc theo
quy định tại Điều này, thì phải trả trợ cấp
mất việc làm cho người lao động theo quy
định tại Điều 49 của Bộ luật này”.
Quy định trên cho thấy, đối với lao
động hiện có của ngân hàng bị sáp nhập,
mua lại sẽ được ngân hàng nhận sáp nhập,
mua lại giải quyết theo hai phương án là:
tiếp nhận và tiếp tục sử dụng lao động hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động.
Về nguyên tắc, trên cơ sở phương án
sử dụng lao động được hai bên thỏa thuận
trong hợp đồng sáp nhập ngân hàng, ngân
hàng nhận sáp nhập phải tiếp nhận và sử
dụng hết số lao động hiện có của ngân hàng
bị sáp nhập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi
thương lượng, các ngân hàng nhận sáp nhập,
mua lại thường chỉ cam kết đảm bảo việc
làm cho toàn bộ nhân viên của ngân hàng bị
sáp nhập, bị mua lại6. Thủ tục sử dụng lao
động được thực hiện theo quy định tại Điều
35; khoản 1 Điều 45 Bộ luật Lao động năm
2012. Theo đó, ngân hàng nhận sáp nhập và
người lao động sẽ tiến hành việc sửa đổi, bổ
sung hợp đồng lao động, chủ yếu để thay
đổi thông tin về người sử dụng lao động
(chuyển từ ngân hàng bị sáp nhập sang ngân
hàng nhận sáp nhập) và một số nội dung của
hợp đồng lao động.
6 Trong vụ Ngân hàng Habubank (HBB) sáp nhập vào Ngân hàng SHB, Đề án sáp nhập HBB vào SHB được SHB trình
trong Đại hội đồng cổ đông có những nội dung chính theo quy định của Thông tư 04/2010/TT-NHNN của NHNN. Các
yêu cầu về giải quyết quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động được đảm bảo và làm rõ trong đề án sáp nhập. Do
HBB sáp nhập vào SHB, không phải hợp nhất nên ngân hàng sau sáp nhập vẫn giữ pháp nhân của SHB và hoạt động
với Hội đồng quản trị và Ban điều hành của SHB. Về cơ bản, ngân hàng sau sáp nhập vẫn giữ nguyên cơ cấu nhân sự
hiện tại của SHB, có bổ sung thêm một số cá nhân có năng lực quản trị và năng lực chuyên môn từ HBB mà SHB đánh
giá đáp ứng đủ điều kiện để tham gia điều hành. Cơ cấu nhân sự của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát cuối cùng được
Đại hội đồng cổ đông quyết định. Bộ máy tổ chức của HBB sau khi sáp nhập sẽ được thực hiện theo bộ máy tổ chức
của SHB. Ngân hàng sau sáp nhập sẽ tiếp tục và sử dụng tất cả những cán bộ, nhân viên hiện tại của SHB và HBB vào
ngày sáp nhập. Cán bộ nhân viên thì căn cứ theo năng lực và nhu cầu sẽ được tiếp nhận nhưng sẽ sắp xếp công việc theo
năng lực phù hợp nghiệp vụ, bộ máy tổ chức, đảm bảo sau sáp nhập hoạt động chuyên nghiệp.
Ngoài ra, theo quy định của điểm a, b
khoản 2 Điều 195 Luật Doanh nghiệp năm
2014, các bên phải thông báo hợp đồng sáp
nhập cho người lao động biết trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày thông qua phương án
sáp nhập (trong hợp đồng phải có nội dung
về phương án sử dụng lao động khi sáp nhập
doanh nghiệp). Tuy nhiên, cho đến nay, các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh
nghiệp năm 2014 vẫn chưa cụ thể hóa nội
dung này.
2. Một số kiến nghị
Để bảo vệ quyền, lợi ích của các bên
trong hoạt động M&A ngân hàng thương
mại, bảo vệ quyền lợi của người lao động,
chúng tôi cho rằng, cần hoàn thiện pháp luật
về sở hữu trí tuệ theo hướng sau:
Một là, cần sửa đổi quy định Chuẩn
mực kế toán Việt Nam số 04 về việc xác
định các thuật ngữ tài sản trí tuệ và cách
thức định giá tài sản trí tuệ cho phù hợp với
Thông tư số 127/2014/ TT- BTC.
Hai là, bổ sung quy định về việc giải
quyết sử dụng lao động khi M&A doanh
nghiệp trong Bộ luật Lao động năm 2012 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ba là, bổ sung quy định về thông báo
cho người lao động phương án sử dụng lao
động khi sáp nhập, mua lại ngân hàng trong
văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh
nghiệp năm 2014 theo hướng, người lao động
phải được lấy ý kiến rộng rãi về phương án
sử dụng lao động khi sáp nhập, mua lại ngân
hàng, để có được các thỏa thuận cụ thể về lao
động giữa ngân hàng nhận sáp nhập, mua lại
và ngân hàng được sáp nhập, mua lại■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 22(374) T11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_cua_phap_luat_ve_dinh_gia_tai_san_tri_tu.pdf