Theo ý kiến của tác giả, thực tế là việc
áp dụng biện pháp bảo đảm từ thời điểm
có quyết định thi hành án sẽ khó đảm bảo
được tính bảo đảm, ngăn chặn và kịp thời
phòng ngừa trong nhiều trường hợp của
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự,
dẫn tới không còn điều kiện để thi hành
án, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm
không phát huy được hiệu quả. Do vậy,
đề xuất cần phải bổ sung quy định về thời
điểm yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự, theo đó: Bản án, quyết
định có hiệu lực thi hành là căn cứ, cơ sở cho
việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự. Quy định như vậy có thể tạo ra sự
bao quát được các trường hợp phát sinh
việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản và trốn tránh
thi hành án trước khi có quyết định thi
hành án. Quy định về việc áp dụng biện
pháp bảo đảm trước khi có quyết định thi
hành án cũng cần quy định cụ thể các vấn
đề sau: 1/ Căn cứ áp dụng biện pháp bảo
đảm; 2/ Quyền yêu cầu áp dụng; 3/ Hình
thức nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp
bảo đảm; 4/ Thẩm quyền quyết định áp
dụng biện pháp bảo đảm.
Liên quan đến trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp người phải thi hành án
yêu cầu áp dụng BPBĐTHADS không
đúng dẫn tới gây thiệt hại cho người phải
thi hành án, người thứ ba có liên quan: Có
thể thấy trách nhiệm bồi thường cần được
đặt ra do yêu cầu không đúng của đương
sự gây thiệt hại cho phía đương sự còn
lại hoặc bên thứ ba. Do vậy, đề nghị bổ
sung quy định về việc người yêu cầu áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự phải nộp một khoản tiền đặt trước khi
nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự để đảm bảo việc
bồi thường có thể thực thi được trên thực
tế sau này. Không những thế, cần phải
quy định cụ thể về mức bồi thường, hình
thức bồi thường, phương thức bồi thường.
Các quy định này có thể dẫn chiếu theo
quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015,
đồng thời cũng cần phải tôn trọng sự thỏa
thuận của các bên về các vấn đề nêu trên.
Ngoài ra, Luật THADS cũng như các
văn bản hướng dẫn cần có giải đáp hợp lý
về các dấu hiệu của người phải thi hành
án để áp dụng BPBĐTHADS; hay quy
định cụ thể về thời gian thực hiện của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý
tài khoản, tài sản của người phải thi hành
án theo yêu cầu của Chấp hành viên về
phong toả tài khoản, tài sản; cũng như có
những hướng dẫn cần thiết trong trường
hợp người được thi hành án tự xác minh
thông tin về tài khoản, số dư tài khoản
của người phải thi hành án làm căn cứ
yêu cầu áp dụng các BPBĐTHADS.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
1. Khái quát chung về biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự,
ngoài các nghĩa vụ mang tính nhân thân1
thì phần lớn các nghĩa vụ thi hành án là
nghĩa vụ thanh toán tiền, tài sản.2 Trước
đây, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 chỉ quy định về các biện pháp cưỡng
chế khi người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành. Tuy nhiên, thực tiễn thi
1 Các nghĩa vụ mang tính nhân thân như: buộc
thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định; giao con chưa thành niên cho người
được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định;
buộc nhận người lao động trở lại làm việc.
2 Đặng Ngọc Dư (2016), Một số vấn đề về các biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Tạp chí Kiểm
sát số 19 năm 2016, tr.21-25
hành án dân sự cho thấy đến thời điểm
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
thì người phải thi hành án thường không
còn điều kiện để thi hành án nữa và dẫn
đến không thực hiện được việc thi hành
án hoặc việc thi hành án phải kéo dài, tồn
đọng. Trong các nguyên nhân dẫn đến
thực trạng này, có một nguyên nhân rất
quan trọng đến từ tâm lý “chây ỳ”, trốn
tránh thi hành án của người phải thi hành
dẫn tới việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Chính
từ thực tiễn đó, yêu cầu tất yếu đặt ra là
pháp luật thi hành án dân sự cần phải có
cơ chế pháp lý để đảm bảo mục đích ngăn
chặn, phòng ngừa, đảm bảo điều kiện thi
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
NGUYỄN THỊ DUNG*
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật dân sự và Kiểm sát dân
sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có vai trò rất quan trọng nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trên thực tiễn, việc
áp dụng pháp luật về biện pháp bảo đảm còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần
được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Bài viết đưa ra một số ý kiến liên quan
đến các quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự và
đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.
Từ khoá: Biện pháp bảo đảm, thi hành án dân sự, biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
The application of measures to secure judgment enforcement plays an
important role in improving effectiveness of civil judgments enforcement.
However, in reality, legal application of secure measures still faces to many
difficulties that need to be continuously studied. The article brings out
some matters related to legal regulations on measures to secure judgment
enforcement and suggestions as well.
Keywords: Secure measures, civil judgments enforcement, measures to
secure civil judgment enforcement, Law on Enforcement of Civil Judgments,
Decree No. 62/2015/NĐ-CP.
62
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
hành án dân sự. Với tinh thần đó, Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 cũng như
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây
gọi chung là “Luật THADS”) đã bổ sung
các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa
nhằm bảo đảm cho quá trình thi hành án
đạt kết quả, các biện pháp này gọi là các
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và
được quy định tại Mục 1 Chương IV cũng
như hướng dẫn chi tiết tại các điều 13, 15,
18, 19, 20, 23, 34 và 38 của Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật THADS (sau
đây gọi là Nghị định số 62). Cụ thể, khoản
3 Điều 66 Luật THADS đã quy định các
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
(“BPBĐTHADS”), bao gồm: 1/ Phong toả
tài khoản; 2/ Tạm giữ tài sản, giấy tờ của
đương sự; và 3/ Tạm dừng việc đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản.
BPBĐTHADS có một số đặc điểm sau:
Một là, BPBĐTHADS có tính bảo
đảm bởi những biện pháp này khi được
áp dụng sẽ đặt tài sản của người phải
thi hành án trong tình trạng bị hạn chế
quyền sử dụng, định đoạt nhằm ngăn
chặn việc người phải thi hành án tẩu tán,
huỷ hoại tài sản, trốn tránh thi hành án.
BPBĐTHADS sẽ bảo toàn được tình trạng
tài sản của người phải thi hành án, đôn
đốc người phải thi hành án tự nguyện thi
hành nghĩa vụ theo bản án, quyết định
của Toà án hoặc bảo đảm hiệu quả của
việc thi hành án dân sự trong trường hợp
người phải thi hành án dân sự không tự
nguyện thi hành án.
Hai là, BPBĐTHADS có tính ngăn
chặn, phòng ngừa việc tẩu tán, huỷ hoại
tài sản. Pháp luật thi hành án dân sự
mặc dù không định nghĩa về biện pháp
bảo đảm, song cũng đã quy định về mục
đích của việc áp dụng BPBĐTHADS. Như
vậy, BPBĐTHADS được áp dụng tại thời
điểm hiện tại để ngăn chặn một hành vi
của người phải thi hành án có thể xảy ra ở
tương lai, mục đích rõ ràng được luật nêu
ra: nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán, huỷ
hoại tài sản và trốn tránh việc thi hành án.3
Ba là, BPBĐTHADS có tính kịp thời,
nhanh chóng về thời gian, đơn giản về
thủ tục. Hiện nay, do sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ trên toàn cầu,
quá trình chuyển dịch tài sản sẽ diễn ra
rất nhanh chóng, tạo thuận lợi cho các bên
trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Vì lẽ đó, người phải thi hành án có thể lợi
dụng điều này để tẩu tán, huỷ hoại tài sản
dẫn tới làm mất điều kiện thi hành án. Để
ngăn chặn hành vi này, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền thi hành án dân sự cần áp
dụng biện pháp phù hợp, theo quy định
của pháp luật thi hành án dân sự có thể
áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc biện
pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, nhược điểm
của biện pháp cưỡng chế tại thời điểm cần
ngăn chặn ngay lại là sự chậm trễ trong áp
dụng, phức tạp về thủ tục sẽ tạo cơ hội cho
người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại
tài sản. Như vậy, nếu áp dụng biện pháp
bảo đảm sẽ kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán,
huỷ hoại tài sản, bảo đảm cho cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền thi hành án dân sự có
điều kiện tiếp tục áp dụng các biện pháp
cưỡng chế để thi hành án dân sự.
2. Một số vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự
Thực tế cho thấy, các BPBĐTHADS
được quy định tại Luật THADS và Nghị
định 62 đã đặt những cơ sở pháp lý đầu
3 Khoản 1 Điều 66 Luật THADS.
63Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
tiên để Chấp hành viên tiến hành các hoạt
động thi hành án nhằm kịp thời ngăn chặn
việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh
việc thi hành án của người phải thi hành
án, đảm bảo sự thượng tôn pháp luật qua
việc bảo đảm thi hành một cách triệt để và
hiệu quả các bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật. Tuy nhiên, có thể nhận thấy
rằng, quy định về các BPBĐTHADS vẫn
tồn tại những bất cập trong cả quy định
chung về các BPBĐTHADS lẫn các quy
định cụ thể về từng biện pháp, dẫn đến
thực tế là các Chấp hành viên rất hạn chế
áp dụng các biện pháp này vì một số khó
khăn, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, sự không rõ ràng, mâu thuẫn
trong các quy định pháp luật:
Một là, cách quy định của Luật
THADS hiện tại là một điều luật quy định
chung về các BPBĐTHADS, liền sau đó là
các điều luật về từng biện pháp. Theo quy
định tại khoản 3 Điều 66 Luật THADS thì
các biện pháp bảo đảm thi hành án bao
gồm: 1/ Phong tỏa tài khoản; 2/ Tạm giữ
tài sản, giấy tờ; 3/ Tạm dừng việc đăng
ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về
tài sản. Tuy nhiên, điều luật ngay sau đó,
Điều 67 lại quy định về biện pháp phong
toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Do vậy,
có thể thấy phạm vi điều chỉnh của Điều
67 là rộng hơn phạm vi của biện pháp bảo
đảm đầu tiên tại khoản 3 Điều 66.
Hai là, về đối tượng được yêu cầu áp
dụng biện pháp bảo đảm được quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 7, Điều 7a và
khoản 1 Điều 66. Cụ thể, điểm a khoản
1 Điều 7 quy định người được thi hành
án có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp
bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế
thi hành án. Còn theo quy định của Điều
7a thì thấy rằng người phải thi hành án
không có quyền yêu cầu áp dụng biện
pháp bảo đảm. Trong khi đó, khoản 1 Điều
66 về biện pháp bảo đảm thi hành án thì
quy định: “Chấp hành viên có quyền tự mình
hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương
sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành
án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài
sản, trốn tránh việc thi hành án.” Như vậy,
ở đây “đương sự” có thể yêu cầu để Chấp
hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án, mà “đương sự” bao gồm người
được thi hành án, người phải thi hành án.4
Do đó, tồn tại sự mâu thuẫn giữa các quy
định trong Luật THADS, cụ thể giữa quy
định về quyền của người phải thi hành án
và khoản 1 Điều 66 Luật THADS.
Ba là, các quy định pháp luật hiện tại
chưa có hướng dẫn cụ thể về thời hạn mà
Chấp hành viên phải ra quyết định áp
dụng biện pháp bảo đảm theo yêu cầu của
đương sự. Điều này dẫn đến việc áp dụng
trên thực tế phụ thuộc vào ý chí chủ quan
và không thống nhất giữa các Chấp hành
viên. Trong thực tế, có trường hợp, Chấp
hành viên ra ngay quyết định áp dụng
biện pháp bảo đảm sau khi nhận được
đơn đề nghị từ đương sự, nhưng cũng có
trường hợp phải vài ngày sau, hoặc lâu
hơn, Chấp hành viên mới ra quyết định
áp dụng biện pháp bảo đảm. Việc chậm
trễ này có thể ảnh hưởng đến kết quả tổ
chức thi hành, ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người được thi hành án.
Bốn là, về người có thẩm quyền ký
quyết định áp dụng BPBĐTHADS trong
trường hợp đương sự có đơn yêu cầu thi
hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án ngay. Luật
THADS hiện tại chưa có quy định giải
quyết về việc trong trường hợp này ai sẽ
là người ký quyết định. Bởi theo Luật định
4 Khoản 1 Điều 3 Luật THADS
64
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
thì quyết định áp dụng các biện pháp bảo
đảm thi hành án là do Chấp hành viên
ký.5 Tuy nhiên, trong trường hợp đương
sự yêu cầu cùng lúc với nộp đơn yêu cầu
thi hành án thì thời điểm này Thủ trưởng
cơ quan thi hành án chưa ra quyết định
thi hành án và chưa phân công cho Chấp
hành viên tổ chức thi hành.
Năm là, Luật THADS và các văn bản
hướng dẫn thi hành mới chỉ quy định một
cách chung chung về các dấu hiệu “ tẩu
tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành
án”6 Trong thực tế, rất khó xác định
những dấu hiệu này bởi người phải thi
hành án còn có nhiều hành vi nhằm thực
hiện giao dịch bình thường trong quá
trình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng,
và vì vậy dễ dàng cho đương sự khiếu
nại, và để an toàn, Chấp hành viên rất ít
khi áp dụng biện pháp bảo đảm.
Sáu là, khoản 2 Điều 67 Luật THADS
có đoạn quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá
nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải
thực hiện ngay yêu cầu của Chấp hành viên về
phong tỏa tài khoản, tài sản. Biên bản, quyết
định phong tỏa tài khoản, tài sản trong trường
hợp này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp,” và các văn bản hướng
dẫn đều quy định cụ thể trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
không thực hiện quyết định phong toả tài
khoản, tài sản ở nơi gửi giữ,7 tuy nhiên, lại
5 Biểu mẫu C15 đến C19 Phụ lục V Thông tư số
01/2016/TT-BTP ban hành ngày 01 tháng 02 năm
2016 hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản
lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi
hành án dân sự.
6 Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự.
7 Khoản 1 Điều 14 Thông tư liên tịch số 02/2014/
TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN do Bộ
trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội - Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam ban hành
chưa có văn bản pháp luật nào giải thích
thế nào là “thực hiện ngay”. Chính vì điều
này, việc hợp tác giữa các cơ quan quản lý
tài khoản, tài sản của người phải thi hành
án với cơ quan thi hành án dân sự còn hạn
chế, chưa kịp thời dẫn đến việc áp dụng
biện pháp này còn khó khăn.
Bảy là, theo quy định thì việc thu thập
thông tin về tài khoản của người phải thi
hành án có thể do người yêu cầu áp dụng
biện pháp phong toả tài khoản thực hiện
hoặc cũng có thể do Chấp hành viên thực
hiện. Tuy nhiên, việc thu thập thông tin về
tài khoản từ phía người được thi hành án
trở nên càng khó khăn hơn khi phải xác
định và cung cấp cho cơ quan thi hành án
dân sự số tài khoản, số dư tài khoản của
người phải thi hành án làm căn cứ để tổ
chức thi hành án (ra quyết định phong toả
tài khoản). Bởi lẽ, các ngân hàng, tổ chức
tín dụng thường viện dẫn Điều 17, Điều
104 Luật các tổ chức tín dụng về nghĩa vụ
bảo mật thông tin khách hàng để từ chối
cung cấp thông tin khi người được thi
hành án muốn tự xác minh.
Tám là, khoản 2 Điều 66 Luật THADS
quy định về trách nhiệm bồi thường của
người yêu cầu áp dụng biện pháp bảo
đảm. Theo đó, trong trường hợp yêu cầu
áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng
mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng
biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ
ba thì người yêu cầu phải bồi thường.
Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trường
hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp
bảo đảm không đúng gây thiệt hại, tuy
nhiên rất khó để giải quyết bồi thường
bởi chưa có các quy định cụ thể về các nội
dung như mức bồi thường, hình thức bồi
thường, phương thức bồi thường. Theo
đó, cần phải xác định rõ việc bồi thường
tuân theo các quy định về bồi thường thiệt
65Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân
sự hay quy định cụ thể việc bồi thường,
đồng thời tôn trọng sự thỏa thuận của các
bên về các vấn đề nêu trên về bồi thường,
song các nội dung đó không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội.
Chín là, khoản 4 Điều 68 quy định về
việc “Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp
các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh
quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương
sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền
sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm
giữ,” giúp Chấp hành viên sớm xác định
có hay không có tranh chấp đối với tài
sản, và tăng thêm trách nhiệm của Chấp
hành viên nhằm tránh xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người thứ ba. Tuy nhiên, điều luật chưa
quy định rõ khoảng thời gian để đương
sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu xác
định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài
sản, giấy tờ.
Thứ hai, chưa có quy chế phối hợp giữa
chính quyền địa phương, các cơ quan, tổ chức
có liên quan với các cơ quan thi hành án hoặc
quan hệ phối hợp chưa được nhiệt tình, triệt để
Mặc dù Luật THADS trao quyền cho
Chấp hành viên được áp dụng các biện
pháp bảo đảm thi hành án tại bất cứ thời
điểm nào của quá trình thi hành án nhằm
ngăn chặn hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài
sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên,
việc thực hiện BPBĐTHADS cần có sự
tham gia của các đối tượng như cơ quan
thi hành án dân sự, đương sự, các tổ chức
tín dụng, công an, bảo hiểm, các cơ quan
chính quyền địa phương, Thế nhưng,
cho đến nay, ngoài một số quy định tại
Chương VIII Luật THADS về trách nhiệm
phối hợp của một số cơ quan, mới chỉ có
các quy chế phối hợp của cơ quan công
an với cơ quan thi hành án trong cưỡng
chế thi hành án,8 hoặc trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong
hoạt động tạm giữ tài sản, giấy tờ để thi
hành án,9 hay quy chế phối hợp giữa ngân
hàng, tổ chức tín dụng với cơ quan thi
hành án trong công tác thi hành án dân
sự,10 mà không có một quy định chung
trong Luật THADS về trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong
việc phối hợp và bồi thường thiệt hại nếu
có xảy ra do không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng yêu cầu phối hợp của
cơ quan thi hành án dân sự. Do vậy, trên
thực tế lực lượng công an thường từ chối
không hỗ trợ khi được Chấp hành viên
yêu cầu trong khi áp dụng các biện pháp
bảo đảm thi hành án, hay một số cơ quan,
tổ chức không thực hiện đúng nghĩa vụ,
trách nhiệm trong việc tạo điều kiện hỗ
trợ, phối hợp, tham gia công tác thi hành
án như: không tống đạt các loại giấy tờ,
quyết định về thi hành án cho các đương
sự, không tạo điều kiện cho cơ quan thi
hành án xác minh điều kiện thi hành án,
cưỡng chế, kê biên, định giá tài sản.11
3. Kiến nghị hoàn thiện
Để bảo đảm sự thống nhất trong các
8 Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA
giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an chỉ quy định cụ
thể về việc phối hợp bảo vệ trong cưỡng chế thi
hành án dân sự.
9 Khoản 1 Điều 68 Luật THADS, Khoản 1 Điều 18
Nghị định 62
10 Quy chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP
giữa Ngân hàng nhà nước Việt Nam với Bộ Tư
pháp trong hoạt động thi hành án dân sự ngày
18/3/2015.
11 Hà Minh Thảo, Công tác thi hành án dân sự ở
Lạng Sơn Thực trạng và giải pháp, Nghề Luật số
06 năm 2015, tr.60-63.
66
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm
trong thi hành án dân sự, và nâng cao hiệu
quả của việc áp dụng các BPBĐTHADS
trong thực tế, tác giả đưa ra một số kiến
nghị sau:
Thứ nhất, chỉnh sửa, bổ sung làm rõ
các quy định có liên quan hiện còn đang
gây mâu thuẫn, không rõ ràng:
Trước hết, cần bổ sung cụm từ “tài sản
ở nơi gửi giữ” vào điểm a khoản 3 Điều 66
để đồng bộ với tên gọi của biện pháp bảo
đảm “phong toả tài khoản, tài sản ở nơi
gửi giữ” được quy định tại Điều 67 Luật
THADS. Như vậy, Điều 66 Luật THADS
nên sửa đổi, bổ sung là:
“Các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm:
a) Phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ;
b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch,
thay đổi hiện trạng về tài sản.”
Ngoài ra, để thể hiện sự logic và tránh
gây tranh cãi về việc ra quyết định áp
dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án
trước khi người phải thi hành án được
thông báo hợp lệ về quyết định thi hành
án hay sau khi nhận được quyết định thi
hành án, đề nghị các cơ quan có thẩm
quyền sớm quy định về thời hạn ra quyết
định áp dụng các biện pháp bảo đảm
thi hành án. Theo khoản 1 Điều 66 Luật
THADS thì “ Chấp hành viên có quyền
tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản
của đương sự áp dụng ngay biện pháp
bảo đảm”. Như vậy về nguyên tắc,
Chấp hành viên phải áp dụng ngay biện
pháp bảo đảm khi có yêu cầu bằng văn
bản của đương sự, song Luật THADS và
các văn bản hướng dẫn chưa quy định
rõ thời hạn giải quyết cụ thể. Do vậy để
tránh việc áp dụng dựa vào ý chí chủ
quan, có thể quy định ngay khi có yêu cầu
của đương sự hoặc sau mấy ngày thì cần
thiết quy định một cách cụ thể để Chấp
hành viên có căn cứ rõ ràng về thời hạn
giải quyết trong việc tiến hành áp dụng
biện pháp bảo đảm, đồng thời cũng hạn
chế được tình trạng khiếu nại không đáng
có của đương sự về thời hạn ra quyết định
áp dụng biện pháp bảo đảm. Do đó, đề
xuất sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 66
Luật THADS như sau:
“Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc
theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm
ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn
tránh việc thi hành án. Thời hạn ra quyết định
áp dụng là không quá 05 ngày làm việc kể từ
ngày có yêu cầu bằng văn bản của đương sự.
Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án,
Chấp hành viên không phải thông báo trước
cho đương sự”.
Một vấn đề khác liên quan đến người
có thẩm quyền ký quyết định áp dụng
BPBĐTHADS trong trường hợp đương
sự có đơn yêu cầu thi hành án kèm theo
yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án ngay. Trên thực tế hiện đang
tồn tại hai hướng quan điểm về người
có thẩm quyền ký quyết định áp dụng
BPBĐTHADS trong trường hợp cần phải
áp dụng BPBĐTHADS ngay khi nhận
được cùng lúc đơn yêu cầu thi hành án dân
sự và đơn yêu cầu áp dụng BPBĐTHADS.
Quan điểm thứ nhất cho rằng Thủ trưởng
cơ quan thi hành án đồng thời cũng là
Chấp hành viên, do đó, trong trường hợp
đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án
kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo
đảm, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án
ra quyết định thi hành án, đồng thời là
người ký quyết định áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án, sau đó phân công
cho Chấp hành viên giải quyết việc thi
67Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
hành án. Trong khi đó, quan điểm thứ hai
cho rằng, quyết định áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án là do Chấp hành viên
trực tiếp giải quyết việc thi hành án ký, do
đó, trong trường hợp này Thủ trưởng cơ
quan thi hành án ra quyết định thi hành
án, sau đó phân công cho Chấp hành viên
giải quyết việc thi hành án. Chấp hành
viên nào được phân công giải quyết hồ sơ
thi hành án sẽ ký quyết định áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án.
Theo ý kiến của tác giả, thực tế là việc
áp dụng biện pháp bảo đảm từ thời điểm
có quyết định thi hành án sẽ khó đảm bảo
được tính bảo đảm, ngăn chặn và kịp thời
phòng ngừa trong nhiều trường hợp của
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự,
dẫn tới không còn điều kiện để thi hành
án, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm
không phát huy được hiệu quả. Do vậy,
đề xuất cần phải bổ sung quy định về thời
điểm yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự, theo đó: Bản án, quyết
định có hiệu lực thi hành là căn cứ, cơ sở cho
việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự. Quy định như vậy có thể tạo ra sự
bao quát được các trường hợp phát sinh
việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản và trốn tránh
thi hành án trước khi có quyết định thi
hành án. Quy định về việc áp dụng biện
pháp bảo đảm trước khi có quyết định thi
hành án cũng cần quy định cụ thể các vấn
đề sau: 1/ Căn cứ áp dụng biện pháp bảo
đảm; 2/ Quyền yêu cầu áp dụng; 3/ Hình
thức nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp
bảo đảm; 4/ Thẩm quyền quyết định áp
dụng biện pháp bảo đảm.
Liên quan đến trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp người phải thi hành án
yêu cầu áp dụng BPBĐTHADS không
đúng dẫn tới gây thiệt hại cho người phải
thi hành án, người thứ ba có liên quan: Có
thể thấy trách nhiệm bồi thường cần được
đặt ra do yêu cầu không đúng của đương
sự gây thiệt hại cho phía đương sự còn
lại hoặc bên thứ ba. Do vậy, đề nghị bổ
sung quy định về việc người yêu cầu áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự phải nộp một khoản tiền đặt trước khi
nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự để đảm bảo việc
bồi thường có thể thực thi được trên thực
tế sau này. Không những thế, cần phải
quy định cụ thể về mức bồi thường, hình
thức bồi thường, phương thức bồi thường.
Các quy định này có thể dẫn chiếu theo
quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015,
đồng thời cũng cần phải tôn trọng sự thỏa
thuận của các bên về các vấn đề nêu trên.
Ngoài ra, Luật THADS cũng như các
văn bản hướng dẫn cần có giải đáp hợp lý
về các dấu hiệu của người phải thi hành
án để áp dụng BPBĐTHADS; hay quy
định cụ thể về thời gian thực hiện của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý
tài khoản, tài sản của người phải thi hành
án theo yêu cầu của Chấp hành viên về
phong toả tài khoản, tài sản; cũng như có
những hướng dẫn cần thiết trong trường
hợp người được thi hành án tự xác minh
thông tin về tài khoản, số dư tài khoản
của người phải thi hành án làm căn cứ
yêu cầu áp dụng các BPBĐTHADS.
Thứ hai, xây dựng quy chế phối hợp
giữa cơ quan thi hành án dân sự và cơ
quan công an, cơ quan, tổ chức khác có
liên quan không chỉ trong việc cưỡng
chế thi hành án mà còn cả trong việc áp
dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án.
Thắt chặt hơn nữa các chế tài đối với các
cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc
từ chối phối hợp thực hiện yêu cầu của
cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
viên. Cần phải có quy định rõ ràng về
68
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
trách nhiệm phối hợp và về hậu quả pháp
lý đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân
đối với việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng yêu cầu phối hợp của
cơ quan thi hành án. Khi có quy định sẽ
có tính chất gây “áp lực” lên các cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan, và là điều
cần thiết để cơ quan thi hành án dân sự
có cơ sở vững chắc khi yêu cầu sự phối
hợp, hỗ trợ từ phía các cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan. Hiện nay mới chỉ có
quy định tại khoản 2 Điều 20 Nghị định
62 quy định về trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản
đã bị phong toả trong trường hợp không
nhận quyết định phong toả tài khoản, tài
sản ở nơi gửi giữ và quy định này là chưa
đủ để có cơ sở giải quyết các trường hợp
khác. Chính vì lý do này, tác giả đề xuất
bỏ phần “ cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực
hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc
tạm giữ tài sản, giấy tờ,” do đó, sửa đổi
khoản 1 Điều 68 thành: “Chấp hành viên
đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền
tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi
hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác
đang quản lý, sử dụng.” Và bổ sung khoản
4 Điều 66 Luật THADS như sau:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có
trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu
cầu của Chấp hành viên trong việc áp dụng
các biện pháp bảo đảm thi hành án. Trường
hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu
của Chấp hành viên trong việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm thi hành án phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường nếu
có thiệt hại xảy ra.”
Tóm lại, xuất phát từ yêu cầu đổi mới,
phát triển đất nước, cải cách tổng thể nền
tư pháp và hội nhập quốc tế sâu rộng,
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật thi hành án dân sự
nói riêng là cần thiết và phù hợp. Việc cơ
quan thi hành án thực hiện các biện pháp
bảo đảm thi hành án là một trong những
biện pháp đảm bảo hiệu lực thi hành của
bản án, quyết định của Toà án, khôi phục
lại quyền, lợi ích hợp pháp cho đương
sự, đồng thời cũng là thể hiện sự nghiêm
minh của pháp luật. Do đó, cần phải hoàn
thiện hơn nữa các quy định của pháp luật
về thi hành án dân sự nói chung, quy định
về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự nói riêng nhằm tạo điều kiện cho Chấp
hành viên có căn cứ pháp lý cụ thể, rõ
ràng để ra các quyết định chính xác, hợp
tình, hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác thi hành án dân sự, bảo đảm cho
một Nhà nước pháp quyền, và đáp ứng
được yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Duy Bằng (2014), Bàn về những khó khăn
khi thực thi biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự,
Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề: Thực hiện
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 /2014, tr.
96 - 105.
2. Chính phủ, Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thi hành án dân sự.
3. Đặng Ngọc Dư (2016), Một số vấn đề về
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Kiểm
sát số 19/2016, tr.21-25.
4. Hoàng Thị Thanh Hoa (2019), Một số vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
án, Dân chủ và Pháp luật số 5/2019, tr. 48-52.
5. Lê Quang Tiến (2013), Thực tiễn áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án trên địa bàn
thành phố Hà Nội, Dân chủ và Pháp luật. Số
4/2013, tr. 52-54.
6. Hà Minh Thảo (2015), Công tác thi hành án dân
sự ở Lạng Sơn - Thực trạng và giải pháp, Nghề
Luật số 06/2015, tr.60-63.
7. Quốc Hội, Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
8. Quốc Hội, Luật Thi hành án dân sự năm 2008
sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_phap_luat_ve_bien_phap_bao_dam_trong_thi.pdf