Hoàn thiện quy định về lấy ý kiến người dân trong quá trình lập quy hoạch xây dựng đô thị

Một số đề xuất kiến nghị Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động lấy ý kiến người dân về quy hoạch xây dựng đô thị, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau đây: Một là, cần phải quy định rõ về phạm vi được lấy ý kiến trong quy hoạch xây dựng đô thị. Trong đó, cần có quy định rõ về khu vực ngoài quy hoạch được lấy ý kiến là khu vực nào, cách tâm hoặc biên của khu vực quy hoạch bao nhiêu và tiêu chí xác định trong từng trường hợp cụ thể là như thế nào. Đồng thời, cần quy định quy trình và các hình thức lấy ý kiến người dân để phù hợp với đặc điểm của từng vùng miền, từng địa phương, nhưng vẫn đảm bảo khung quy định thống nhất chung. Hai là, cần giải thích rõ cụm từ “cá nhân”, “cộng đồng dân cư” được lấy ý kiến trong quy hoạch xây dựng đô thị bao gồm những ai, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ sót đối tượng cần lấy ý kiến, đảm bảo quyền và lợi ích của người dân một cách cao nhất. Ba là, cần có quy định cụ thể về tỷ lệ ý kiến đồng thuận bắt buộc để nhiệm vụ và đồ án quy hoạch được thông qua. Việc quy định một con số cụ thể để thông qua đồ án quy hoạch xây dựng đô thị sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự nghiêm túc của cơ quan lập quy hoạch. Bên cạnh đó, người được lấy ý kiến cũng nhận thức được vai trò, tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong việc tìm hiểu và góp ý cho các vấn đề kinh tế - xã hội nói chung, trong việc lập quy hoạch xây dựng đô thị nói riêng

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định về lấy ý kiến người dân trong quá trình lập quy hoạch xây dựng đô thị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ LẤY Ý KIẾN NGƯỜI DÂN TRONG QUÁ TRÌNH LẬP QUY HOẠCH XÂY DỰNG ĐÔ THỊ Tóm tắt: Lấy ý kiến của người dân là một trong những giai đoạn của quá trình lập quy hoạch đô thị. Pháp luật về quy hoạch đã bao hàm những quy định cụ thể về quy trình này. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện pháp luật cho thấy, còn có một số vấn đề cần được hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền của người dân trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch xây dựng đô thị. Trần Vang Phủ* Nguyễn Võ Linh Giang** * GV. Khoa Luật - Đại học Cần Thơ ** GV. Khoa Luật - Đại học Cần Thơ Abstract Public consultation is one of the steps in the process of the urban planning. The law on planning already consists the specific provisions for this process. However, the enforcement of the law reveals a number of issues that need to be reviewed for further improvements in order to ensure the rights of people in the process of development and implemention of the urban planning. Thông tin bài viết: Từ khóa: lấy ý kiến, tiếp cận thông tin, quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng Lịch sử bài viết: Nhận bài : 27/02/2018 Biên tập : 02/06/2018 Duyệt bài : 16/06/2018 Article Infomation: Keywords: consultatation, information access, urban planning, construction planning Article History: Received : 27 Feb. 2018 Edited : 02 Jun 2018 Approved : 16 Jun 2018 1. Tổng quan về quyền tiếp cận thông tin 1.1 Khái niệm thông tin trong quy hoạch xây dựng đô thị “Thông tin” là một khái niệm cơ bản của khoa học cũng là khái niệm trung tâm của xã hội trong thời đại chúng ta. Mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người đều dựa 1 Đoàn Phan Tân, “Khái niệm thông tin và các thuộc tính làm nên giá trị của thông tin”, Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, số 3/2001, CacThuocTinhLamNenGTriCuaTT_BaiBao_.pdf [truy cập ngày 10/8/2017]. trên một hình thức giao lưu thông tin nào đó. Mọi tri thức đều bắt nguồn bằng một thông tin về những điều đã diễn ra, về những cái người ta đã biết, đã nói đã làm1. Theo Từ điển tiếng Việt, “thông tin” là sự truyền đạt tin tức cho nhau về một vấn THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 51Số 14(390) T7/2019 đề, sự việc, hiện tượng nào đó2. Theo quy định của pháp luật, “thông tin” là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan Nhà nước tạo ra3. Dựa vào hai khái niệm trên ta có thể hiểu “Thông tin” là sự truyền đạt, thông báo tin tức từ một cơ quan, tổ chức, cá nhân đến một cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một vấn đề, sự việc, hiện tượng nào đó. Trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng đô thị, chủ thể thông báo tin tức là cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đối tượng được nhận thông báo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quy hoạch. Như vậy, ta có thể hiểu “Thông tin quy hoạch xây dựng đô thị” là sự thông báo tin tức từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về các vấn đề trong quy hoạch xây dựng đô thị. 1.2 Quyền tiếp cận thông tin (TCTT) của người dân trong quy hoạch xây dựng đô thị Quyền TCTT là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948. Điều 19 của Tuyên ngôn này quy định: “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia” và tại Khoản 2 Điều 19 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Mọi 2 Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2016, trang 1206. 3 Khoản 1 Điều 2 Luật TCTT năm 2016. 4 Khoản 2 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. 5 Hoàng Minh Sơn, Bảo đảm quyền TCTT theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, trao-doi/201602/bao-dam-quyen-tiep-can-thong-tin-theo-tinh-than-cua-hien-phap-nam-2013-299953/ [truy cập ngày 12/08/2017]. 6 Điều 69 Hiến pháp năm 1992. 7 Điều 25 Hiến pháp năm 2013. 8 Khoản 1 Điều 55 Luật QHĐT năm 2009 người có quyền tự do ngôn luận”. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ4. Hai văn kiện này là nền tảng cho việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người về dân sự, chính trị, mà quyền TCTT được coi là quyền cơ bản nhất trong nhóm các quyền dân sự, chính trị đó, và rất nhiều công ước quốc tế sau này tiếp tục ghi nhận5. Ở Việt Nam, quyền được thông tin được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1992 tại Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình”6. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền TCTT được quy định theo hướng chủ động hơn. Điều 25 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, TCTT, hội họp, lập hội, biểu tình”7. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã thông qua Luật TCTT năm 2016. Sự ra đời của Luật TCTT năm 2016 đã giúp cho quyền TCTT của công dân được đảm bảo thực hiện một cách tốt hơn. Trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng đô thị, việc đảm bảo quyền TCTT của người dân cũng được quan tâm đến. Cụ thể, khoản 1 Điều 55 Luật Quy hoạch đô thị (QHĐT) năm 2009 quy định: “Cơ quan quản lý QHĐT các cấp có trách nhiệm cung cấp thông tin về QHĐT đã được phê duyệt cho các tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu”8. Việc cung cấp thông tin về quy hoạch xây dựng THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 52 Số 14(390) T7/2019 được thực hiện dưới các hình thức sau: “giải thích trực tiếp, qua phương tiện thông tin đại chúng và cấp chứng chỉ quy hoạch”9. 2. Quy định pháp luật về lấy ý kiến người dân trong quá trình lập quy hoạch xây dựng đô thị 2.1 Đối tượng được lấy ý kiến Hiện nay, các đối tượng được lấy ý kiến trong quá trình lập quy hoạch đã được quy định cụ thể theo từng nhóm. Theo quy định của Luật QHĐT năm 2009, “Cơ quan tổ chức lập QHĐT, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng tổ chức lập quy hoạch chi tiết khu vực được giao đầu tư có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án QHĐT”10, đồng thời, “Cơ quan, chủ đầu tư tổ chức lập quy hoạch xây dựng có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng”11. Quy định trên cho thấy, đối tượng được lấy ý kiến trong quá trình lập quy hoạch xây dựng đô thị là: Cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan tại khu vực lập quy hoạch. Có thể chia các đối tượng được lấy ý kiến thành các nhóm sau: Nhóm thứ nhất, cơ quan, tổ chức. Nhóm này thường bao gồm những cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội có chức năng, nhiệm vụ liên quan đến hoạt động quy hoạch xây dựng đô thị. Nhóm thứ hai, cá nhân có liên quan. Cho đến thời điểm hiện tại, nội hàm từ “cá nhân” vẫn chưa được làm rõ là sẽ lấy ý kiến của ai. Cá nhân là các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực quy hoạch đang cần lấy ý kiến, hay cá nhân là tất cả các cá nhân không giới hạn đang cư trú tại khu vực có 9 Khoản 2 Điều 55 Luật QHĐT năm 2009 10 Khoản 1 Điều 20 Luật QHĐT năm 2009 11 Khoản 1 Điều 16 Luật Xây dựng năm 2014 12 Trần Vang Phủ, Những điểm nổi bật trong Dự thảo Luật Quy hoạch và các kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16/2017, trang 36. 13 Khoản 3 Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 quy hoạch hay không đều có quyền đóng góp cho đồ án của quy hoạch12. Nhóm thứ ba, cộng đồng dân cư có liên quan: Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ13. Tuy nhiên, định nghĩa trên trong Luật Đất đai năm 2013 rất khó để xác định một cộng đồng dân cư trên thực tế là như thế nào. Trong nhiều trường hợp, định nghĩa về cộng đồng dân cư trong Luật Đất đai năm 2013 chỉ có thể áp dụng để xác định cộng đồng dân cư ở các dân tộc thiểu số. Đối tượng được lấy ý kiến quy định trong Luật Quy hoạch năm 2017 được mở rộng và đa dạng hơn so với Luật QHĐT năm 2009 và Luật Xây dựng năm 2014. Theo đó, khoản 1 Điều 20 Luật Quy hoạch năm 2017 quy định: “Cơ quan lập quy hoạch có trách nhiệm lấy ý kiến các Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp của địa phương có liên quan và cơ quan, tổ chức, cộng đồng, cá nhân khác có liên quan về quy hoạch. Đối với quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thì cơ quan lập quy hoạch còn phải lấy ý kiến của UBND các tỉnh liền kề”. Như vậy, ngoài các đối tượng được lấy ý kiến được nêu ở trên, Luật bổ sung các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp có liên quan; đối với quy hoạch vùng hoặc quy hoạch tỉnh còn phải lấy ý kiến của UBND các tỉnh liền kề. Nhìn chung, mỗi nhóm đối tượng đóng vai trò và có ý nghĩa nhất định trong quá trình lập quy hoạch xây dựng đô thị. Đóng góp của họ sẽ ảnh hưởng đến việc quyết định thực hiện những chiến lược, chính sách, các quy hoạch của đất nước, hay một vùng lãnh THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 53Số 14(390) T7/2019 thổ nhất định. Đồng thời, những nhóm đối tượng này cũng là chủ thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quy hoạch hay các dự án được đầu tư xây dựng, thế nên, những ý kiến đóng góp của họ sẽ thiết thực và đảm bảo tính khách quan đối với việc triển khai thực hiện quy hoạch, dự án công trình. 2.2 Chủ thể có trách nhiệm lấy ý kiến Trách nhiệm lấy ý kiến về quy hoạch xây dựng đô thị quy định tại Điều 20 Luật QHĐT năm 2009 như sau: Một là, cơ quan tổ chức lập QHĐT, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng tổ chức lập quy hoạch chi tiết khu vực được giao đầu tư có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án QHĐT. UBND có liên quan, tổ chức tư vấn lập quy hoạch có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức lập QHĐT, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng tổ chức lập quy hoạch chi tiết khu vực được giao đầu tư trong việc lấy ý kiến. Hai là, đối với nhiệm vụ và đồ án QHĐT thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng có trách nhiệm lấy ý kiến các bộ, cơ quan, tổ chức khác ở trung ương có liên quan; UBND có liên quan có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan tổ chức lập QHĐT, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng tổ chức lập quy hoạch chi tiết khu vực được giao đầu tư có trách nhiệm lấy ý kiến. Ba là, tổ chức tư vấn lập quy hoạch có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về đồ án QHĐT. Bốn là, các ý kiến đóng góp phải được tổng hợp đầy đủ, có giải trình, tiếp thu và báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét trước khi quyết định phê duyệt. Ngoài ra, theo quy định của Luật Xây dựng năm 2014 thì chủ thể có trách nhiệm lấy ý kiến được quy định như sau: Thứ nhất, cơ quan, chủ đầu tư tổ chức lập quy hoạch xây dựng có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng. UBND có liên quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức lập quy hoạch xây dựng, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng trong việc lấy ý kiến. Thứ hai, đối với nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì Bộ Xây dựng có trách nhiệm lấy ý kiến các bộ, cơ quan, tổ chức khác ở trung ương có liên quan; UBND cấp tỉnh có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan ở địa phương. Việc quy định trách nhiệm lấy ý kiến người dân trong quy hoạch xây dựng đô thị tùy thuộc vào quy mô, tính chất của quy hoạch mà được giao về cho cơ quan tổ chức lập quy hoạch, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng tổ chức lập quy hoạch chi tiết khu vực được giao đầu tư hay Bộ Xây dựng hoặc tổ chức tư vấn lập quy hoạch. Việc lấy ý kiến người dân sẽ giúp cho cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện đề án quy hoạch xây dựng đô thị, đáp ứng được mong muốn cũng như nhu cầu của người dân trong khu vực quy hoạch. So sánh đối tượng có trách nhiệm lấy ý kiến trong Luật QHĐT năm 2009 và Luật Xây dựng năm 2014 với Luật Quy hoạch năm 2017 có thể thấy, đối tượng có trách nhiệm lấy ý kiến trong Luật Quy hoạch năm 2017 được tập trung lại là “Cơ quan lập quy hoạch” chứ không còn phân cấp theo quy mô, tính chất như trước đây nữa. 2.3 Phạm vi lấy ý kiến Căn cứ vào quy định tại Điều 20 Luật QHĐT năm 2009 và Điều 16 Luật Xây dựng 2014, phạm vi lấy ý kiến là: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch”. Với nội dung quy định này, ta có thể chia phạm vi lấy ý kiến theo hai hướng sau: - Thứ nhất: Chỉ cần lấy ý kiến người dân trong khu vực quy hoạch vì chỉ những người này mới có liên quan và thuộc phạm vi lấy ý kiến. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 54 Số 14(390) T7/2019 - Thứ hai: Có thể hiểu phạm vi lấy ý kiến bao gồm người dân trong và ngoài khu vực quy hoạch nếu những người đó có liên quan đến quy hoạch. Nếu theo cách hiểu thứ hai thì quy định về phạm vi lấy ý kiến rộng hơn, bao quát hơn. Tuy nhiên, do quy định của luật chỉ mới dừng lại ở mức độ chung chung là “có liên quan”, nên rất khó để xác định được phạm vi lấy ý kiến người dân để đảm bảo một cách tốt nhất lợi ích của người dân. Nghị định 44/2015/NĐ-CP ngày 06/5/2015 của Chính phủ quy định về phạm vi lấy ý kiến của quy hoạch xây dựng vùng; quy hoạch khu chức năng đặc thù; quy hoạch xây dựng nông thôn, nhưng lại không bao hàm quy định về phạm vi lấy ý kiến quy hoạch xây dựng đô thị. Vì vậy, có thể thấy rằng đây là một vấn đề cần phải được nghiên cứu bổ sung trong các quy định của pháp luật trong thời gian tới. 2.4 Nội dung lấy ý kiến Theo quy định của Luật QHĐT năm 2009 và Luật Xây dựng năm 2014, nhiệm vụ quy hoạch là các yêu cầu về nội dung nghiên cứu và tổ chức thực hiện được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt làm cơ sở để lập đồ án QHĐT14. Đồ án QHĐT là tài liệu thể hiện nội dung của QHĐT, bao gồm các bản vẽ, mô hình, thuyết minh và quy định quản lý theo QHĐT15. 2.5 Thời gian, hình thức lấy ý kiến Thời gian lấy ý kiến Thời gian lấy ý kiến người dân về quy hoạch xây dựng đô thị là một giới hạn mà trong khoảng thời gian đó người dân được thực hiện quyền tham gia đóng góp ý kiến của mình. Khoản 4 Điều 21 Luật QHĐT năm 2009 quy định: “Thời gian lấy ý kiến 14 Khoản 5 Điều 3 Luật QHĐT năm 2009. 15 Khoản 6 Điều 3 Luật QHĐT năm 2009. Hiện nay, từng nội dung cụ thể của từng loại đồ án: đồ án quy hoạch chung thành phố trực thuộc trung ương; đồ án quy hoạch chung thành phố thuộc tỉnh, thị xã; đồ án quy hoạch chung thị trấn, đô thị loại V chưa công nhận là thị trấn, đồ án quy hoạch chung đô thị mới được quy định chi tiết tại Nghị định 37/2010/ NĐ-CP và Thông tư 10/2010/TT-BXD. 16 Khoản 4 Điều 16 Luật Xây dựng năm 2014 17 Điều 20 Luật QHĐT năm 2009 ít nhất là 15 ngày đối với cơ quan, 30 ngày đối với tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư”. So với Luật Xây dựng năm 2014 thì thời gian lấy ý kiến người dân trong Luật QHĐT năm 2009 có phần ngắn hơn, cụ thể trong Luật Xây dựng năm 2014 là: “20 ngày đối với cơ quan, 40 ngày đối với tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư”16. Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch năm 2017 lại không quy định về thời gian lấy ý kiến người dân. Thời gian lấy ý kiến người dân trong quy hoạch xây dựng đô thị còn tùy vào nhóm đối tượng được lấy ý kiến và hình thức lấy ý kiến được áp dụng mà ta sẽ cần một khoảng thời gian nhất định để đạt được hiệu quả tối đa nhất. Nhưng nhìn chung, quy định của pháp luật về thời gian lấy ý kiến người dân trong quy hoạch xây dựng đô thị đã hợp lý, vừa ràng buộc được trách nhiệm đối với chủ thể có thẩm quyền lấy ý kiến, vừa đảm bảo được quyền tham gia đóng góp ý kiến của người dân. Hình thức lấy ý kiến Để bảo đảm cho hoạt động lấy ý kiến người dân mang lại hiệu quả cao, thu hút được sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, cần lựa chọn và kết hợp các hình thức lấy ý kiến đa dạng, phù hợp với tình hình thực tế. Hoạt động lấy ý kiến người dân về quy hoạch xây dựng đô thị sử dụng ba hình thức lấy ý kiến, là: Phát phiếu điều tra, phỏng vấn, gửi hồ sơ, tài liệu hoặc tổ chức hội nghị, hội thảo, công khai trên phương tiện thông tin đại chúng17. Mỗi hình thức đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng và tùy vào đối tượng lấy ý kiến mà áp dụng hình thức phù hợp. Có thể nhận thấy những điểm khác biệt về hình thức lấy ý kiến trong Luật THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 55Số 14(390) T7/2019 QHĐT năm 2009 với Luật Quy hoạch năm 2017 qua bảng so sánh sau: Luật Quy hoạch năm 2017 đã thực hiện việc kết hợp nhiều hình thức lấy ý kiến người dân với nhau để đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi ích của người dân.18 Theo quy định của khoản 3 Điều 21 Luật QHĐT năm 2009, hình thức lấy ý kiến người dân bằng phương pháp công khai trên phương tiện thông tin đại chúng được áp dụng để lấy ý kiến cộng đồng dân cư có liên quan đối với đồ án và nhiệm vụ của quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chi tiết. 3.6 Cách thức xử lý thông tin Theo quy định của khoản 4 Điều 20 Luật QHĐT năm 2009, khoản 3 Điều 16 Luật Xây dựng năm 2014, ý kiến đóng góp của nhân dân sẽ được “tổng hợp đầy đủ, giải trình, tiếp thu và báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định”. Luật Quy hoạch năm 2017 cũng bao hàm quy định về ý kiến đóng góp của người dân: “Các ý kiến đóng góp phải được nghiên cứu, 18 Trần Vang Phủ, Những điểm nổi bật trong Dự thảo Luật Quy hoạch và các kiến nghị hoàn thiện, tlđd 19 Khoản 4 Điều 20 Luật Quy hoạch năm 2017. tiếp thu hoặc giải trình và báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét trước khi thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt quy hoạch”. Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch năm 2017 còn yêu cầu: “Cơ quan lập quy hoạch có trách nhiệm công bố, công khai các ý kiến đóng góp và việc tiếp thu, giải trình các ý kiến đóng góp”19. 3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện quyền TCTT trong quá trình lập quy hoạch xây dựng đô thị Thực tiễn thực hiện quyền TCTT trong quá trình lập quy hoạch xây dựng đô thị đặt ra một số vấn đề sau đây: Một là, pháp luật hiện hành chưa bao hàm quy định cụ thể về quy trình thực hiện công tác lấy ý kiến người dân về lập quy hoạch xây dựng đô thị. Điều này dẫn đến sự lúng túng của cơ quan, tổ chức trong công tác lấy ý kiến người dân. Hai là, quy định về hình thức lấy ý kiến người dân trong quy hoạch xây dựng đô thị chưa linh hoạt, chưa thực sự phù hợp với đặc điểm đời sống của từng địa phương. Nội dung Luật QHĐT năm 2009 Luật Quy hoạch năm 2017 Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan Gửi hồ sơ, tài liệu hoặc tổ chức hội nghị, hội thảo Gửi hồ sơ, tài liệu và đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan lập quy hoạch Cộng đồng dân cư có liên quan Phát phiếu điều tra, phỏng vấn Trưng bày công khai hoặc giới thiệu phương án quy hoạch trên phương tiện thông tin đại chúng Đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan lập quy hoạch, niêm yết, trưng bày tại nơi công cộng, phát phiếu điều tra phỏng vấn, tổ chức hội nghị, hội thảo (một vài ý kiến cho rằng, nên bỏ hình thức hội nghị, hội thảo đối với cộng đồng dân cư do sẽ không có nhiều “cộng đồng” có kiến thức và có thể hiểu được trọn vẹn các nội dung của đồ án quy hoạch, điều này sẽ làm cho cả việc lấy ý kiến và góp ý đều không đạt được mục đích và chất lượng như mong muốn)18. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 56 Số 14(390) T7/2019 Ví dụ, tại các địa phương ven biển, đa phần người dân ở đây thường theo tàu đi đánh bắt xa bờ dài ngày, vì vậy, khi áp dụng các hình thức lấy ý kiến như hiện nay sẽ khó có thể lấy được ý kiến của những ngư dân này, trong khi đa phần nhóm đối tượng này thường là chủ hộ gia đình. Ba là, quy định về tổng hợp, tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân còn chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế giải trình ý kiến đóng góp cho người dân. Đồng thời, chưa có quy định về tỷ lệ ý kiến đồng thuận bắt buộc để các đồ án quy hoạch được thông qua. Bên cạnh đó, việc lấy ý kiến người dân là nhằm mục đích tham khảo hay ý kiến của người dân hay giữ vai trò quyết định đồ án quy hoạch có được thông qua hay không hiện nay vẫn chưa được xác định rõ20. Bốn là, trong quy định của pháp luật, cụm từ “cá nhân có liên quan” và “cộng đồng dân cư” chưa được giải thích rõ. Điều này, gây khó khăn trong vấn đề xác định đối tượng được lấy ý kiến về quy hoạch xây dựng đô thị. Bên cạnh đó, do chưa quy định cụ thể về phạm vi lấy ý kiến dẫn đến tình trạng bỏ sót đối tượng cần được lấy ý kiến, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của cá nhân đó khi thực hiện quy hoạch xây dựng đô thị. Năm là, công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về quy hoạch xây dựng đô thị chưa được thực hiện một cách nghiêm túc. Việc lấy ý kiến trong cộng đồng dân cư về quy hoạch xây dựng đô thị được chính quyền cấp xã, trưởng thôn, trưởng ấp thực hiện bằng hình thức họp dân lấy ý kiến, tuy nhiên, trưởng thôn (ấp) lại không phải là người có chuyên môn về quy hoạch xây dựng đô thị thì khó có thể giải thích cụ thể được một số vấn đề phức tạp đòi hỏi về chuyên môn cho cộng đồng được rõ. Sáu là, trình độ dân trí một số khu vực, đặc biệt là khu vực nông thôn còn tương đối thấp, trong khi quy hoạch xây dựng đô thị 20 Trần Vang Phủ, Những điểm nổi bật trong Dự thảo Luật Quy hoạch và các kiến nghị hoàn thiện, tlđd. với nhiều nội dung còn phức tạp và mang tính chất chuyên môn cao, khó hiểu, nên người dân không hiểu rõ được hết vai trò và tầm quan trọng của việc quy hoạch xây dựng đô thị. Điều này dẫn đến tình trạng người dân cũng không quan tâm nhiều đến việc tham gia đóng góp ý kiến để hoàn thiện quy hoạch xây dựng đô thị. 4. Một số đề xuất kiến nghị Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động lấy ý kiến người dân về quy hoạch xây dựng đô thị, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau đây: Một là, cần phải quy định rõ về phạm vi được lấy ý kiến trong quy hoạch xây dựng đô thị. Trong đó, cần có quy định rõ về khu vực ngoài quy hoạch được lấy ý kiến là khu vực nào, cách tâm hoặc biên của khu vực quy hoạch bao nhiêu và tiêu chí xác định trong từng trường hợp cụ thể là như thế nào. Đồng thời, cần quy định quy trình và các hình thức lấy ý kiến người dân để phù hợp với đặc điểm của từng vùng miền, từng địa phương, nhưng vẫn đảm bảo khung quy định thống nhất chung. Hai là, cần giải thích rõ cụm từ “cá nhân”, “cộng đồng dân cư” được lấy ý kiến trong quy hoạch xây dựng đô thị bao gồm những ai, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ sót đối tượng cần lấy ý kiến, đảm bảo quyền và lợi ích của người dân một cách cao nhất. Ba là, cần có quy định cụ thể về tỷ lệ ý kiến đồng thuận bắt buộc để nhiệm vụ và đồ án quy hoạch được thông qua. Việc quy định một con số cụ thể để thông qua đồ án quy hoạch xây dựng đô thị sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự nghiêm túc của cơ quan lập quy hoạch. Bên cạnh đó, người được lấy ý kiến cũng nhận thức được vai trò, tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong việc tìm hiểu và góp ý cho các vấn đề kinh tế - xã hội nói chung, trong việc lập quy hoạch xây dựng đô thị nói riêng THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 57Số 14(390) T7/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_quy_dinh_ve_lay_y_kien_nguoi_dan_trong_qua_trinh.pdf
Tài liệu liên quan