Mặt khác, Luật TTHC năm 2015
không bao hàm quy định về hậu quả pháp lý
riêng biệt khi người bị kiện vi phạm nghĩa
vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ. Khoản 1 Điều
83 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Nếu
đương sự không nộp hoặc nộp không đầy
đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà
không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ
vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao
nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại
khoản 2 Điều 84 của Luật này để giải quyết
vụ án”. Đây là lý do chính dẫn đến tình trạng,
“một số vụ án, người bị kiện cung cấp chứng
cứ không đúng thời hạn, không đầy đủ, có
những trường hợp Tòa án phải nhiều lần làm
văn bản đôn đốc, thậm chí không hợp tác
trong việc cung cấp chứng cứ và cũng không
trả lời Tòa án, dẫn đến kéo dài thời gian giải
quyết, người khởi kiện không tiếp cận được
chứng cứ theo quy định”16.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, pháp
luật TTHC cần quy định: chứng minh tính
hợp pháp của quyết định, hành vi bị kiện là
nghĩa vụ của người bị kiện; đồng thời quy
định, trường hợp người bị kiện không cung
cấp hoặc cung cấp không đầy đủ trong thời
hạn do pháp luật quy định mà không có lý
do chính đáng bản sao các văn bản, tài liệu
mà căn cứ vào đó để ra quyết định bị kiện
hoặc có hành vi bị kiện thì Toà án phải kết
luận việc ra quyết định hoặc thực hiện hành
vi này là trái pháp luật (do không có đủ căn
cứ để chứng minh các quyết định, hành vi
này là hợp pháp).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định về trách nhiệm công vụ của người bị kiện trong tố tụng hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM CÔNG VỤ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Tóm tắt:
Ở nước ta, từ ngày 01/07/1996 1, tố tụng hành chính được xác lập
đã tạo ra một phương thức giải quyết tranh chấp hành chính mới
với nhiều ưu việt. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp mang
tính dân chủ, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền nói
chung và xây dựng nền hành chính phục vụ nói riêng. Tuy nhiên,
tính ưu việt của phương thức giải quyết tranh chấp này chưa thực
sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này là do quy định của pháp luật tố tụng
hành chính hiện hành về trách nhiệm công vụ của người bị kiện
trong tố tụng hành chính chưa đầy đủ, hợp lý.
1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996.
Nguyễn Mạnh Hùng*
* TS. GV. Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
In Vietnam, since July 1, 1996, the administrative proceedings
have provided a new method of resolving administrative disputes
with several advantages. This is a method resolving disputes in
a democratic manner, in accordance with the requirements of
the rule of law in general and establishment of a public service
administration in particular. However, the superiority of this
method has not really promoted its effectiveness in practice. One
of the reasons for this situation is that the provisions of the current
administrative law on public liability of the petitioned people in
administrative proceedings are incomplete and inreasonable.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: công vụ, trách nhiệm công
vụ, người bị kiện, tố tụng hành chính
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 23/01/2019
Biên tập : 19/02/2019
Duyệt bài : 27/02/2019
Article Infomation:
Keywords: public duties, liability
of public duties, the sued person,
administrative proceedings
Article History:
Received : 23 Jan. 2019
Edited : 19 Feb. 2019
Approved : 27 Feb. 2019
1. Quan niệm về trách nhiệm công vụ của
người bị kiện trong tố tụng hành chính
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ
“trách nhiệm” có thể được hiểu theo hai
nghĩa: tích cực và tiêu cực. Theo nghĩa tích
cực, “trách nhiệm” được hiểu là bổn phận,
vai trò của các tổ chức, cá nhân trong các
quan hệ pháp luật hoặc “được hiểu là nghĩa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 6(382) T3/2019
vụ (nói đến những điều pháp luật yêu cầu
phải làm trong hiện tại và tương lai)”2. Theo
nghĩa tiêu cực, “trách nhiệm” được hiểu là
hậu quả pháp lý bất lợi mà tổ chức, cá nhân
vi phạm pháp luật phải gánh chịu thông qua
việc nhà nước hạn chế về quyền, lợi ích mà
lẽ ra họ đang hoặc sẽ được hưởng bằng cách
áp dụng các chế tài theo quy định của pháp
luật. Tuy vậy, việc vi phạm trách nhiệm
(theo nghĩa tích cực) luôn làm phát sinh
nguy cơ phải gánh chịu trách nhiệm (theo
nghĩa tiêu cực). Điều này là cần thiết để bảo
đảm hiệu lực của pháp luật cũng như tính
hiện thực của các nghĩa vụ pháp lý. Bài viết
này luận giải “trách nhiệm công vụ” cả theo
nghĩa tích cực và nghĩa tiêu cực.
Ở nước ta, thuật ngữ “công vụ” được
sử dụng phổ biến, nhưng chưa được pháp
luật định nghĩa một cách hoàn chỉnh và đầy
đủ. Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm
2008 quy định: “Hoạt động công vụ của cán
bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy
định của Luật này và các quy định khác có
liên quan”. Theo đó, có thể hiểu việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công
chức theo quy định của pháp luật là công
vụ. Bên cạnh đó, căn cứ vào quy định tại
Điều 2 và Điều 3 Luật này, Bách khoa toàn
thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: “Công
vụ là hoạt động do cán bộ, công chức nhân
danh Nhà nước thực hiện theo quy định của
pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm
phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội”3.
Đây có thể được hiểu là định nghĩa về công
vụ theo nghĩa hẹp, vì không chỉ cán bộ, công
chức mới được nhân danh Nhà nước thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
pháp luật. Do đó, có quan điểm cho rằng,
“Công vụ là công việc hay hoạt động nhà
nước do cán bộ, công chức, những người
2 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011,
tr. 216.
3 Xem: https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_v%E1%BB%A5 (truy cập ngày 21/01/2019).
4 Xem: Phạm Hồng Thái (chủ biên): Hợp đồng hành chính trong quản lý nhà nước, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2016, tr. 64.
khác được giao quyền thực hiện, luôn gắn
với quyền lực nhà nước. Khi thực hiện công
vụ, người thực hiện công vụ nhân danh, đại
diện cho quyền lực nhà nước thực hiện, công
vụ được bảo đảm, bảo vệ bởi Nhà nước bằng
các biện pháp pháp lý, tổ chức và tài chính,
cưỡng chế”4.
Từ các quan điểm nêu trên, có thể
hiểu: Trách nhiệm công vụ là tổng thể các
nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức, cá nhân
được thực hiện theo quy định của pháp luật
trên cơ sở nhân danh Nhà nước và hậu quả
pháp lý bất lợi mà họ phải gánh chịu nếu vi
phạm các nhiệm vụ, quyền hạn này.
Hiện nay, trong lĩnh vực tố tụng hành
chính (TTHC), vấn đề trách nhiệm công
vụ của người bị kiện chưa được quan tâm
nghiên cứu và quy định đầy đủ, hợp lý. Một
trong những nguyên nhân chủ yếu là do ảnh
hưởng của quan điểm đồng nhất về quyền,
nghĩa vụ giữa người khởi kiện và người bị
kiện (các đương sự) để bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các
đương sự trong TTHC.
Xét trong mối tương quan với phương
thức giải quyết khiếu nại hành chính, việc
quy định và bảo đảm thực hiện nguyên tắc
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTHC
giữa người khởi kiện và người bị kiện được
xác định là ưu điểm vượt trội của phương
thức TTHC. Tuy vậy, do người khởi kiện và
người bị kiện có nhiều điểm khác biệt về lý
do, cách thức, mục đích, tư cách và các điều
kiện bảo đảm việc tham gia TTHC, nên các
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của
họ không thể hoàn toàn như nhau, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, về lý do và cách thức tham
gia TTHC
Theo quy định tại các khoản 8 và 9
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 6(382) T3/2019
Điều 3 Luật TTHC năm 2015, có thể hiểu:
Người khởi kiện trong TTHC là cơ quan, tổ
chức, cá nhân5 khởi kiện vụ án hành chính
đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử
tri6; Người bị kiện trong TTHC là tổ chức, cá
nhân có quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị khởi kiện.
Về lý luận, người bị kiện trong TTHC
luôn là chủ thể quản lý hành chính nhà nước
(tổ chức, cá nhân được nhân danh Nhà nước,
sử dụng quyền hành pháp) đơn phương ban
hành quyết định hành chính, thực hiện hành
vi hành chính bị kiện trong quá trình thực thi
công vụ. Đây là nguyên nhân phát sinh yêu
cầu khởi kiện của đối tượng quản lý hành
chính nhà nước (tổ chức, cá nhân có quyền,
lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng bởi quyết
định hành chính, hành vi hành chính) theo
thủ tục TTHC.
Những quan niệm trên cho thấy, người
khởi kiện chủ động yêu cầu Toà án tiến hành
TTHC để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình và kiểm soát việc thực thi công vụ
của người bị kiện (ban hành quyết định hành
chính, thực hiện hành vi hành chính); còn
người bị kiện thì lại bị động trước yêu cầu
của người khởi kiện và Tòa án khi tham gia
vào TTHC vì lý do đã thực thi công vụ trong
quản lý hành chính nhà nước. Theo đó, việc
người bị kiện tham gia TTHC vẫn cần được
xác định là trách nhiệm công vụ của họ; việc
khởi kiện vụ án hành chính của người khởi
kiện và thụ lý vụ án hành chính của Tòa án
hiển nhiên không thể làm chấm dứt trách
nhiệm công vụ của người bị kiện.
Thứ hai, về mục đích tham gia TTHC
Theo quy định tại Điều 5 Luật TTHC
5 Sau đây gọi chung là tổ chức, cá nhân.
6 Sau đây gọi chung là quyết định hành chính, hành vi hành chính.
7 Xem: Nguyễn Mạnh Hùng, Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở
Việt Nam (Sách chuyên khảo; tái bản có chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 15, 39.
8 Xem: Các khoản 6, 7, 11 Điều 55; khoản 1 Điều 63; khoản 1 Điều 64 và Điều 138 Luật TTHC năm 2015.
năm 2015, mục đích chủ yếu của người khởi
kiện khi tham gia TTHC là bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình trong quản lý hành
chính nhà nước. Bên cạnh đó, từ tính chất
công vụ của quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị kiện cho thấy mục đích chủ
yếu của người bị kiện khi tham gia TTHC lại
là bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, tính
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị kiện. Theo đó, khởi kiện vụ án
hành chính được hiểu là quyền tự vệ và tự
định đoạt của đối tượng quản lý hành chính
nhà nước, được thực hiện tùy thuộc vào ý
chí, nhận thức chủ quan của cá nhân trực
tiếp thực hiện quyền khởi kiện7; ngược lại,
việc tham gia TTHC của người bị kiện được
xác định là trách nhiệm công vụ và không
phụ thuộc vào ý chí hoặc mong muốn chủ
quan của cá nhân được phân công trực tiếp
tham gia tố tụng.
Thứ ba, về tư cách tham gia TTHC
Người bị kiện trong TTHC là một bên
đương sự, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
với các đương sự khác theo quy định của
pháp luật TTHC. Do đó, trong quá trình
TTHC, các đương sự đều có quyền đối thoại
với nhau và yêu cầu Toà án tổ chức việc đối
thoại này; các đương sự đều có quyền yêu
cầu các đương sự khác cung cấp tài liệu,
chứng cứ; thoả thuận với nhau để lựa chọn
người giám định và người phiên dịch; v.v..8
Mặc dù trong TTHC, người bị kiện
bình đẳng về ý chí với các đương sự khác
nhưng cũng phải thấy rằng, việc tham gia
vào TTHC với tư cách là người bị kiện
không làm “vô hiệu” khả năng sử dụng
quyền lực nhà nước của các chủ thể quản
lý hành chính nhà nước. Do đó, với tư cách
là một bên đương sự trong TTHC, người bị
kiện có trách nhiệm tôn trọng việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các đương sự khác;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 6(382) T3/2019
không được sử dụng thẩm quyền quản lý
hành chính nhà nước của mình để ngăn cản
các đương sự khác thực hiện quyền, nghĩa
vụ của họ hoặc gây khó khăn cho Toà án
trong quá trình TTHC. Tuy vậy, khi tham
gia TTHC, người bị kiện vẫn được và buộc
phải nhân danh Nhà nước; vì quyền, lợi ích
của Nhà nước. Nói cách khác, việc tham gia
TTHC của người bị kiện không chỉ là do
công vụ mà còn là vì công vụ.
Thứ tư, về điều kiện bảo đảm việc
tham gia TTHC
Người bị kiện được Nhà nước bảo
đảm về thời gian vật chất, kinh phí, phương
tiện làm việc9 và thậm chí là đội ngũ chuyên
môn tham vấn cho việc tham gia TTHC10.
Ngược lại, người khởi kiện phải tự mình tạo
lập các điều kiện này.
Những lập luận, phân tích trên cho
thấy, việc người bị kiện tham gia TTHC
không chỉ đơn thuần là việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ TTHC như các đương sự
khác, mà cần xác định đây là trách nhiệm
công vụ của người bị kiện. Tuy địa vị pháp
lý của người bị kiện được biểu hiện trong
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của họ với tư
cách là đương sự, nhưng trách nhiệm công
vụ của người bị kiện trong TTHC chỉ giới
hạn trong phạm vi các vấn đề liên quan đến
xử sự có tính bắt buộc và hậu quả pháp lý
bất lợi. Do đó, có thể hiểu: trách nhiệm công
vụ của người bị kiện trong TTHC là tổng thể
các nghĩa vụ của người bị kiện được thực
hiện theo quy định của pháp luật TTHC trên
cơ sở nhân danh Nhà nước và hậu quả pháp
lý bất lợi mà họ phải gánh chịu nếu vi phạm
các nghĩa vụ này. Theo đó, việc tham gia
TTHC của người bị kiện cần có những yêu
cầu và hậu quả pháp lý khác biệt so với các
đương sự khác nói chung và người khởi kiện
nói riêng.
9 Về cơ bản, đây là các điều kiện bảo đảm thi hành công vụ được quy định tại Chương VII của Luật Cán bộ, công chức
năm 2008.
10 Xem: Báo cáo Kết quả giám sát “Việc chấp hành pháp luật về TTHC trong giải quyết các vụ án hành chính, thi hành
các bản án, quyết định hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND, UBND”, số
1516/BC-UBTP14, ngày 26/09/2018 của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tr. 4, 16.
2. Trách nhiệm công vụ của người bị kiện
trong tố tụng hành chính theo quy định
của pháp luật hiện hành và giải pháp
hoàn thiện
Hiện nay, vấn đề trách nhiệm công vụ
của người bị kiện trong TTHC chưa được
quan tâm nghiên cứu và quy định đầy đủ.
Tuy nhiên, pháp luật TTHC hiện hành đã
có một số nội dung thể hiện quan niệm việc
tham gia TTHC là trách nhiệm công vụ của
người bị kiện, cụ thể như sau.
Thứ nhất, khoản 3, 4, 5 Điều 59 Luật
TTHC năm 2015 quy định: “3. Trường hợp
người bị kiện là người có thẩm quyền trong
cơ quan, tổ chức mà cơ quan, tổ chức đó
hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể thì
người tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của người
đó tham gia tố tụng.
Trường hợp người bị kiện là người có
thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức mà chức
danh đó không còn thì người đứng đầu cơ
quan, tổ chức đó thực hiện quyền, nghĩa vụ
của người bị kiện.
4. Trường hợp người bị kiện là cơ quan,
tổ chức bị hợp nhất, sáp nhập, chia, tách thì
cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của
cơ quan, tổ chức cũ thực hiện quyền, nghĩa vụ
tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
Trường hợp người bị kiện là cơ quan,
tổ chức đã giải thể mà không có người kế
thừa quyền, nghĩa vụ thì cơ quan, tổ chức
cấp trên thực hiện quyền, nghĩa vụ của
người bị kiện.
5. Trường hợp sáp nhập, chia, tách,
giải thể, điều chỉnh địa giới hành chính
trong một đơn vị hành chính mà đối tượng
của quyết định hành chính có sự thay đổi thì
cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ra quyết định
hành chính có trách nhiệm tham gia tố tụng
với tư cách là người bị kiện tại Tòa án nơi cơ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 6(382) T3/2019
quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành
chính bị kiện. Cơ quan tiếp nhận đối tượng
của quyết định hành chính bị kiện phải tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan”.
Có thể nhận thấy rằng, đây là các
trường hợp người bị kiện không phải là tổ
chức, cá nhân trực tiếp ra quyết định hành
chính, thực hiện hành vi hành chính bị kiện.
Việc họ tham gia TTHC với tư cách là người
bị kiện được pháp luật TTHC quy định trên
cơ sở sự kế thừa trách nhiệm công vụ của
nền hành chính quốc gia. Điều này không
chỉ cần thiết để bảo đảm tính thống nhất,
liên tục, thông suốt11 trong hoạt động công
vụ của nền hành chính quốc gia mà còn
cần thiết để bảo đảm vai trò kiểm soát của
TTHC đối với hoạt động công vụ của nền
hành chính quốc gia và tính hiện thực của
quyền khởi kiện vụ án hành chính.
Thứ hai, khoản 3 Điều 60 Luật TTHC
năm 2015 quy định: “Trường hợp người bị
kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu
cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được
ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện.
Người được ủy quyền phải tham gia vào quá
trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện
theo quy định của Luật này”. Quy định này
đã làm hạn chế hơn sự tự chủ của người bị
kiện so với các đương sự khác trong việc
uỷ quyền tham gia TTHC cho người khác.
Tuy nhiên, quy định này là cần thiết để tăng
cường trách nhiệm công vụ trong TTHC của
người bị kiện nói riêng và nền hành chính
quốc gia nói chung, đồng thời khắc phục tình
trạng: “người bị kiện uỷ quyền cho người
khác tham gia tố tụng nhưng người được uỷ
quyền không được quyền quyết định đối với
đối tượng bị khởi kiện”12 dẫn đến việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của người bị kiện
11 Xem: Khoản 4 Điều 3 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
12 Xem: Tờ trình số 04/TTr-TANDTC ngày 10/04/2015 của Tòa án nhân dân tối cao về Dự án Luật TTHC (sửa đổi), tr. 2.
13 Xem: Báo cáo số 1516/BC-UBTP14, tlđd, tr. 5.
14 Xem: Khoản 3 Điều 3 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
trong TTHC không nhanh chóng, chủ động
và đầy đủ. Theo đó, làm giảm hiệu quả kiểm
soát của TTHC đối với hoạt động công vụ
của nền hành chính quốc gia.
Theo quy định tại các khoản 15, 16
Điều 55 Luật TTHC năm 2015, người bị
kiện nói riêng, đương sự nói chung có quyền,
nghĩa vụ: tham gia phiên tòa, phiên họp và
phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
Tuy vậy, thực tế trong 03 năm (2015, 2016
và 2017) cho thấy, tình trạng người bị kiện
không tham gia đối thoại, không tham gia
phiên tòa trong TTHC có xu hướng ngày
càng tăng qua các năm. Tỷ lệ Chủ tịch Ủy
ban nhân dân (UBND) và người đại diện
không tham gia đối thoại, không tham gia
phiên tòa trong năm 2015 là 12%; năm 2016
là 23,78%; năm 2017 là 33,27%. Trong đó,
ở một số địa phương, Chủ tịch UBND và
người đại diện thường xuyên không tham
gia phiên tòa, phiên đối thoại, như: ở Hải
Phòng: không tham gia 61/61 vụ; ở Điện
Biên: không tham gia 13/14 vụ; ở thành phố
Hồ Chí Minh: không tham gia 260/260 phiên
đối thoại tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh; ở Hà Nội: Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội xét xử 189 vụ án nhưng chưa có
vụ án nào Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND
thành phố Hà Nội tham gia tố tụng. Lý do
không tham gia tố tụng được UBND các địa
phương nêu đều do “bận công tác”13.
Để khắc phục tình trạng trên, để tăng
cường trách nhiệm của người bị kiện trong
TTHC, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh
bạch và có sự kiểm tra, giám sát14 trong thi
hành công vụ của người bị kiện, pháp luật
TTHC cần quy định nhất quán, rõ ràng việc
tham gia các phiên toà, phiên họp là nghĩa
vụ của người bị kiện; đồng thời không cho
phép người bị kiện được miễn trừ nghĩa vụ
này vì bất cứ lý do gì. Hơn nữa, những quy
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 6(382) T3/2019
định này còn cần thiết để góp phần bảo đảm
tính hiện thực của quy định tại khoản 2 Điều
8 Hiến pháp năm 2013: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn
trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân”.
Thứ ba, khoản 2 Điều 78 Luật TTHC
năm 2015 quy định: “Người bị kiện có
nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải
quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn
bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết
định hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc có
hành vi hành chính”. Quy định này là cần
thiết để chứng minh tính hợp pháp của quyết
định, hành vi bị kiện. Bên cạnh đó, khoản
3 Điều 57 Luật TTHC năm 2015 cũng quy
định quyền, nghĩa vụ của người bị kiện là
“chứng minh tính đúng đắn, hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính
bị khởi kiện”. Như vậy, điểm hạn chế của
pháp luật hiện hành là không quy định rõ
ràng về nghĩa vụ chứng minh tính đúng đắn,
hợp pháp của quyết định, hành vi bị khởi
kiện của người bị kiện mặc dù nghĩa vụ này
cần được hiểu là trách nhiệm công vụ đương
nhiên của họ được xác lập ngay trước khi
ban hành quyết định, thực hiện hành vi này
trong quản lý hành chính nhà nước. Minh
chứng cho vấn đề này, có thể đơn cử quy
định có tính nguyên tắc trong xử phạt vi
phạm hành chính: “người có thẩm quyền xử
phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm
hành chính”15.
Mặt khác, Luật TTHC năm 2015
không bao hàm quy định về hậu quả pháp lý
riêng biệt khi người bị kiện vi phạm nghĩa
vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ. Khoản 1 Điều
83 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Nếu
đương sự không nộp hoặc nộp không đầy
15 Xem: Điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
16 Xem: Báo cáo số 1516/BC-UBTP14, tlđd, tr. 5, 6; Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao Tổng kết công tác năm 2014
và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2015 của các Tòa án, tr. 25.
đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà
không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ
vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao
nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại
khoản 2 Điều 84 của Luật này để giải quyết
vụ án”. Đây là lý do chính dẫn đến tình trạng,
“một số vụ án, người bị kiện cung cấp chứng
cứ không đúng thời hạn, không đầy đủ, có
những trường hợp Tòa án phải nhiều lần làm
văn bản đôn đốc, thậm chí không hợp tác
trong việc cung cấp chứng cứ và cũng không
trả lời Tòa án, dẫn đến kéo dài thời gian giải
quyết, người khởi kiện không tiếp cận được
chứng cứ theo quy định”16.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, pháp
luật TTHC cần quy định: chứng minh tính
hợp pháp của quyết định, hành vi bị kiện là
nghĩa vụ của người bị kiện; đồng thời quy
định, trường hợp người bị kiện không cung
cấp hoặc cung cấp không đầy đủ trong thời
hạn do pháp luật quy định mà không có lý
do chính đáng bản sao các văn bản, tài liệu
mà căn cứ vào đó để ra quyết định bị kiện
hoặc có hành vi bị kiện thì Toà án phải kết
luận việc ra quyết định hoặc thực hiện hành
vi này là trái pháp luật (do không có đủ căn
cứ để chứng minh các quyết định, hành vi
này là hợp pháp).
Thứ tư, theo quy định của khoản 4 Điều
57 Luật TTHC năm 2015, “sửa đổi hoặc hủy
bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật
buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu
nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh,
danh sách cử tri bị khởi kiện; dừng, khắc
phục hành vi hành chính bị khởi kiện” là
quyền, nghĩa vụ của người bị kiện. Mặc dù
quy định này nhằm bảo đảm tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của nền hành chính quốc
gia, nhưng lại chưa có sự phân định cần thiết
giữa quyền và nghĩa vụ của người bị kiện.
Vì vậy, trên thực tế, quy định này chưa thực
sự phát huy được hiệu quả và cũng chưa đáp
(Xem tiếp trang 23)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 6(382) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_ve_trach_nhiem_cong_vu_cua_nguoi_bi_kien.pdf