Giá trị chứng minh của chứng cứ, sự
thật của vụ án có được xác định hay không
phụ thuộc rất lớn vào quá trình đánh giá
chứng cứ của những người tiến hành tố
tụng53. CQĐT đánh giá chứng cứ nhằm xác
định việc sử dụng chứng cứ đã thu thập
được trong hệ thống các chứng cứ để chứng
minh một vấn đề, một tình tiết của vụ án
mua bán người. Các chứng cứ đã thu thập
được trong vụ án mua bán người được đánh
giá nhằm xác định tính đầy đủ của chứng
cứ, nghĩa là các chứng cứ đã thu thập trong
vụ án mua bán người đã đầy đủ chưa, có
cần thu thập thêm chứng cứ gì để chứng
minh hành vi và đối tượng mua bán người
cũng như các tình tiết khác không. Đánh giá
chứng cứ cũng nhằm xác định giá trị chứng
minh của chứng cứ. Điều này sẽ ảnh hưởng
đến các quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và khả năng
tiếp tục sử dụng chứng cứ trong các hoạt
động tiếp theo. Thực tế cho thấy, để đánh giá
được chứng cứ chính xác, khách quan, toàn
diện, phải phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
năng lực của người tiến hành tố tụng, dựa
vào khả năng nhận thức đúng về bản chất
của vụ việc mua bán người, bản chất của
chứng cứ trong vụ việc đó để vận dụng linh
hoạt các biện pháp đánh giá, sử dụng chứng
cứ vào quá trình chứng minh sự thật khách
quan của vụ án mua bán người.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động chứng minh trong điều tra các vụ án mua bán người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
73Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA...
CÁC VỤ ÁN MUA BÁN NGƯỜI
TRẦN VĂN TUÂN*
Mua bán người là một vấn nạn toàn cầu hiện nay, tội phạm mua bán người không
chỉ xâm phạm đến quyền con người mà nó còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh
thần, sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Tội phạm này thường được thực hiện bởi nhiều
đối tượng, có sự câu kết với nhau, đôi khi có cả những đường dây buôn bán người xuyên
quốc gia. Vì vậy, hoạt động chứng minh trong điều tra các vụ án mua bán người luôn là
vấn đề phức tạp, là sự tổng hợp, đan xen của các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ để có thể đi đến kết quả cuối cùng là tìm ra bản chất của vụ việc.
Từ khóa: Mua bán người, chứng cứ, chứng minh.
Ngày nhận bài: 07/7/2020; Ngày biên tập xong: 10/7/2020; Ngày duyệt đăng: 12/7/2020
Human trafficking - a current global problem not only violates human rights
but also seriously affects the mental, health and life of victims. This crime is often
committed by many traffickers with tightly connection, even by transnational
trafficking routes. Therefore, attestation activities in investigating human trafficking
cases are always a complex matter. It is a combination of gathering, checking and
evaluating evidence to find out the truth of the human trafficking cases.
Keywords: Human trafficking, evidence, attestation.
1. Mở đầu
Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam,
nạn mua bán người xảy ra ở nhiều tỉnh
thành trong cả nước với những quy mô,
hình thức, tính chất khác nhau. Nhận thức
được tầm quan trọng của công tác phòng,
chống tội phạm mua bán người, Việt Nam
đã ký kết, tham gia nhiều điều ước quốc tế
cũng như khu vực liên quan đến phòng,
chống tội phạm mua bán người, đồng thời
tập trung nguồn lực đấu tranh đối với loại
tội phạm này. Trong quá trình giải quyết
vụ án mua bán người, để ra được các quyết
định hoặc bản án đúng đắn, khách quan,
phù hợp với quy định của pháp luật, về
nguyên tắc, đòi hỏi các chủ thể có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải làm sáng tỏ
bản chất của vụ án bằng hoạt động chứng
minh làm rõ các vấn đề liên quan đến vụ
án mua bán người như: Sự kiện phạm tội,
người thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội, nhân thân người phạm
tội... Trong quá trình chứng minh trong các
vụ án mua bán người, chứng cứ luôn được
coi là phương tiện để chứng minh.1 “Có thể
nói, toàn bộ hoạt động của những người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng và những người có liên quan
khác trong tất cả các giai đoạn tố tụng đều
hướng vào việc thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ nhằm chứng minh những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án hình sự”21.
Vì vậy, hoạt động chứng minh trong điều tra
các vụ án mua bán người bao gồm các hoạt
động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
nhằm tái hiện lại một cách khách quan, toàn
diện, đầy đủ toàn bộ nội dung vụ án đã xảy
ra từ thời điểm các đối tượng tìm kiếm, tiếp
cận nạn nhân để tạo điều kiện thuận lợi cho
thực hiện hành vi phạm tội.
* Thạc sĩ, Khoa Tội phạm học và Điều tra tội phạm,
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
1 Xem bài viết của GS. TS. Đỗ Ngọc Quang trong
cuốn sách chuyên khảo “Những nội dung mới
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” do PGS.TS
Nguyễn Hòa Bình chủ biên, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, trang 205.
74 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA...
2. Nội dung hoạt động chứng minh
trong điều tra các vụ án mua bán người
Chứng minh là “làm cho thấy rõ là có
thật, là đúng, bằng sự việc hoặc lí lẽ”12. Quá
trình chứng minh là quá trình nhận thức
các sự kiện, các tình tiết, diễn biến của vụ
án. Kết thúc việc chứng minh ở giai đoạn
này thì nối liền sau đó là hoạt động chứng
minh ở giai đoạn tiếp theo của hoạt động
tố tụng cho đến khi kết thúc toàn bộ quá
trình chứng minh. Với tính chất phức tạp
của tội phạm mua bán người, đòi hỏi quá
trình chứng minh phải được thực hiện một
cách chặt chẽ, linh hoạt và sáng tạo, đảm
bảo cho hoạt động của Cơ quan điều tra
(CQĐT) được kịp thời, đầy đủ, chính xác,
khách quan, nhanh chóng tìm ra sự thật của
vụ án nhằm phát hiện, xử lý đúng người,
đúng tội, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Thực tế cho thấy, các đối tượng thường
có sự nghiên cứu, chuẩn bị trước khi thực hiện
hành vi mua bán người hoặc đây là những
đối tượng có kinh nghiệm, có nhiều mối
quan hệ với các đối tượng khác nên chúng
thường hoạt động theo một đường dây khép
kín, móc nối chặt chẽ với nhau theo vai trò:
Người mua, người bán, người môi giới, dẫn
dắt, hình thành các đường dây tội phạm
xuyên tỉnh, xuyên quốc gia. Các đối tượng
này sử dụng các phương thức, thủ đoạn tinh
vi, xảo quyệt, thông qua các mối quan hệ
quen biết để tạo sự tin tưởng của nạn nhân
và người nhà nạn nhân. Nhiều đối tượng sử
dụng các trang mạng xã hội để tiếp cận con
mồi, hạn chế việc tiếp xúc trực tiếp để tránh
bị người ngoài phát hiện. Thêm vào đó, các
đối tượng thường mã hóa các cuộc trao đổi
của các thành viên trong tổ chức nhằm tránh
để lọt thông tin ra ngoài. Với tính chất phức
tạp của tội phạm như vậy, đòi hỏi quá trình
chứng minh phải được thực hiện một cách
chặt chẽ, linh hoạt và sáng tạo.
Để làm được điều đó, trước tiên cần xác
định rõ những vấn đề cần chứng minh trong
các vụ án mua bán người, bao gồm: Có hành
2 Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt,
NXB Đà Nẵng, tr. 192
vi phạm tội mua bán người hay không, được
xác định qua các yếu tố cấu thành tội phạm
của tội mua bán người; thời gian, địa điểm
và những tình tiết khác của hành vi phạm
tội dựa trên các mốc gian chứng minh phản
ánh có hành vi tiếp cận, rủ rê lôi kéo, tuyển
mộ, vận chuyển, bóc lột; thời điểm nạn nhân
được giải cứu hoặc trốn thoát, địa điểm xảy
ra các sự kiện phạm tội; xác định các yếu tố
về chủ thể thực hiện hành vi phạm tội như
tuổi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự,
quốc tịch, động cơ, mục đích phạm tội; các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự chung và các tình tiết tăng nặng định
khung của tội mua bán người; tính chất,
mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
được thể hiện bằng số lượng người trở thành
nạn nhân của tội phạm, mức độ tổn thương
cơ thể, tinh thần của các nạn nhân, các thiệt
hại về vật chất và các tác động tiêu cực đến
xã hội do hành vi phạm tội gây ra; xác định
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, cần làm
rõ nạn nhân và người nhà có sự đồng thuận
hay không, nạn nhân và đối tượng có mối
quan hệ như thế nào, nạn nhân và đối tượng
có nhận thức được tính chất nghiêm trọng
của hành vi mua bán người không; xác định
các tình tiết khác liên quan đến loại trừ trách
nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt như tuổi của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên, năng lực chịu trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, vai trò của
các đối tượng trong vụ án có đồng phạm, vị
trí vai trò của đối tượng trong đường dây
mua bán người
Trong quá trình chứng minh, việc
đầu tiên CQĐT phải thực hiện là thu thập
chứng cứ, tạo cơ sở cho quá trình tái hiện
lại những tình tiết, sự kiện đã xảy ra trong
quá khứ phản ánh hoạt động tội phạm như
một tất yếu khách quan, có tính quy luật và
các sự kiện đó có mối liên hệ với nhau trong
một tổng thể phản ánh chân lý khách quan
của vụ án. Thực tiễn cho thấy, chứng cứ
trong các vụ án mua bán người ở Việt Nam
chủ yếu được thu thập từ lời khai của bị hại
và nhân chứng, chứng cứ vật chất có thể
thu được nhưng còn rất hạn chế. Việc lấy
75Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TRẦN VĂN TUÂN
lời khai bị hại là một trong những căn cứ để
xác định có tội phạm mua bán người xảy ra
hay không. Quá trình lấy lời khai bị hại cần
làm rõ nội dung sự việc phạm tội xảy ra,
mối quan hệ giữa nạn nhân và đối tượng,
mối quan hệ giữa đối tượng trong nước và
ở nước ngoài, thu thập thông tin lai lịch và
đặc điểm nhận dạng về đối tượng phạm
tội, tên gọi của đối tượng khi tiếp xúc với
nạn nhân, những thói quen của đối tượng
trong quá trình tiếp xúc, những địa điểm
đối tượng đã đưa nạn nhân đến. Bên cạnh
đó, cần thu thập các thông tin chi tiết hơn về
thủ đoạn phạm tội của các đối tượng, quá
trình di chuyển đến nơi bị bán, quá trình bị
bóc lột tình dục, lao động Nếu nạn nhân
viết thư về thì có thể đề nghị gia đình cho
mượn, phô tô lá thư, nạn nhân gọi điện về
thì đề nghị gia đình cung cấp thông tin cuộc
gọi, nội dung cuộc gọi làm cơ sở xác minh
và đấu tranh với các đối tượng.
Khi đã bắt được đối tượng, sau hoạt
động khởi tố bị can là hoạt động hỏi cung
bị can. Đây là một biện pháp điều tra quan
trọng mà theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự, tất cả các vụ án hình sự đều phải
thực hiện nhằm tiếp tục thu thập, củng cố
chứng cứ chứng minh về vụ phạm tội và
người thực hiện hành vi phạm tội. Việc hỏi
cung bị can nhằm thu thập thông tin làm rõ
phương thức, thủ đoạn phạm tội, phương
thức hoạt động của tổ chức, đường dây
tội phạm mua bán người; động cơ, mục
đích phạm tội, các phương tiện hỗ trợ để
các đối tượng sử dụng trong quá trình tiếp
cận, tuyển mộ, vận chuyển, cưỡng bức,
ép buộc nạn nhân. Ngoài ra, cần làm rõ
nguyên nhân tại sao các bị can lại đi vào
con đường phạm tội này để có các biện
pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Trong điều tra các vụ án mua bán
người, việc tiến hành các biện pháp bắt,
khám xét, khám nghiệm hiện trường, trưng
cầu giám định, nhận dạng là rất cần thiết
và quan trọng. Khám nghiệm hiện trường
được tiến hành khi đã xác định được hiện
trường cụ thể nơi đối tượng bị bắt khi vượt
biên, nơi đối tượng giam giữ nạn nhân
trong quá trình vận chuyển, bóc lột hoặc
nơi nạn nhân bị giết, nơi xác nạn nhân bị
chôn giấu... Hoạt động khám nghiệm hiện
trường được tiến hành để phát hiện, thu
thập tài liệu, chứng cứ phục vụ cho công
tác điều tra. Khám xét được tiến hành nhằm
thu giữ những hình ảnh, tài liệu, công cụ
hoặc tài sản sử dụng cho hành vi phạm tội
như điện thoại di động, kiểm tra nhật kí
cuộc gọi, tin nhắn của bị can, thu giữ máy
tính bảng, máy tính để bàn, laptop, các thiết
bị lưu trữ dữ liệu như máy ảnh, máy quay
phim, USB, thẻ nhớ, các bộ nhớ online như
icloud, google drive chứa những nội
dung liên quan đến hành vi phạm tội. Phát
hiện và thu giữ các công cụ, phương tiện sử
dụng vào việc mua bán người, các giấy tờ
tài liệu có liên quan, các tài liệu tuyển mộ
(các quảng cáo, hợp đồng lao động), tài liệu
thể hiện việc chuyển giao, tiếp nhận người
(hộ chiếu, chứng minh thư, giấy tờ đi lại và
băng ghi hình camera an ninh tại những nơi
như đại sứ quán, cảng của các nước). Tài
liệu thể hiện việc bóc lột (mặt bằng, máy
móc, phương tiện lao động, phương tiện
vận chuyển, tài liệu được sử dụng để bóc
lột); các tài liệu giao dịch tài chính Trong
nhiều trường hợp, phải trưng cầu giám
định nhằm xác định tình trạng tâm thần,
tuổi của bị can, bị hại, giám định tài liệu
trong các trường hợp nghi vấn tài liệu giả.
Dưới góc độ nghiên cứu về phương
thức, thủ đoạn phạm tội mua bán người,
có thể thấy rằng, mỗi phương thức, thủ
đoạn phạm tội có thể để lại những thông
tin, dấu vết có giá trị nhất định. Trong
phạm vi nhất định, việc nghiên cứu thủ
đoạn phạm tội của các đối tượng để phát
hiện ra những thông tin, dấu vết còn lưu
lại là một việc làm cần thiết, giúp cho quá
trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng
cứ chứng minh tội phạm được thuận lợi,
chính xác và toàn diện hơn.
Các thủ đoạn của tội phạm mua bán
người hay thực hiện ở Việt Nam thường
là các đối tượng lợi dụng mối quan hệ
quen biết từ trước hoặc tìm cách tiếp cận
76 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG ĐIỀU TRA...
nạn nhân để làm quen, thông qua người
khác giới thiệu để làm quen, sau đó tạo
dựng sự tin tưởng từ phía nạn nhân và
gia đình nạn nhân. Trong trường hợp này,
có thể thu thập thông tin từ những người
biết việc như gia đình nạn nhân, những
người có mối quan hệ quen biết với đối
tượng. Những người này có thể cung cấp
các thông tin như sự việc xảy ra khi nào
và như thế nào, tại sao người thân của họ
bị lừa gạt, bắt cóc... đi bán, tại sao lại biết
được việc đó, ngoài nạn nhân là người
thân của họ ra thì còn ai bị bán nữa không,
đối tượng trong vụ án mua bán người là ai,
có mấy đối tượng tham gia, mối quan hệ
giữa họ với đối tượng và với nạn nhân, đặc
điểm nhận dạng, tên tuổi, địa chỉ nếu họ
biết, ngoài họ ra còn ai biết sự việc không...
Trong thời đại công nghệ như hiện
nay, có nhiều trường hợp các đối tượng
lợi dụng mạng xã hội để thực hiện hành
vi phạm tội. Ở Việt Nam, mạng xã hội
Facebook thường được sử dụng để thiết
lập lý lịch giả nhằm tiếp cận con mồi là các
cô gái mới lớn. Các đối tượng có thể thiết
lập mối quan hệ tình cảm, tìm kiếm tình
yêu, hứa hẹn công việc có thu nhập cao,
kì nghỉ lãng mạn để lừa các cô gái, sau
đó ép họ bán dâm hoặc bán họ cho các đối
tượng khác để kinh doanh tình dục. Các
đối tượng cũng có thể liên lạc với nhau và
với nạn nhân qua mạng xã hội Zalo, qua
nhắn tin SMS, gọi điện trực tiếp. Những
hoạt động này có thể lưu lại nội dung các
cuộc nói chuyện qua hệ thống Messenger
của Facebook, qua Zalo, tin nhắn SMS,
thông tin số điện thoại, thời gian cuộc gọi
đến gọi đi trong điện thoại di động. Để thu
thập thông tin trên có thể trực tiếp kiểm
tra tài khoản mạng xã hội, kiểm tra điện
thoại di động hoặc đề nghị nhà mạng cung
cấp thông tin. Tuy nhiên, cũng có nhiều
trường hợp các đối tượng sử dụng sim rác,
lập tài khoản không xác định được, hoặc
sau khi thực hiện hành vi xong đã vứt sim,
vứt điện thoại, khóa tài khoản, hoặc thời
gian xảy ra vụ việc đã rất lâu nên đơn vị
cung cấp dịch vụ mạng không thể cung
cấp thông tin được Những vấn đề trên
ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thu
thập chứng cứ đấu tranh với tội phạm.
Một hình thức tiếp cận, lừa gạt các nạn
nhân là hoạt động quảng cáo việc làm, hứa
hẹn công việc có thu nhập cao, đánh đúng
vào tâm lý của nhiều người muốn thay
đổi cuộc đời, tìm kiếm một cuộc sống mới.
Các đối tượng vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp ở
các quốc gia mà các nạn nhân muốn đến,
khi lừa được nạn nhân đến nơi thì các đối
tượng bên đó dùng các thủ đoạn bóc lột sức
lao động của nạn nhân, không trả tiền công
hoặc trả với giá rất rẻ để số tiền đó chỉ đủ
hoặc gần đủ chi tiêu cho nhu cầu sinh hoạt
tối thiểu khiến nạn nhân mãi lệ thuộc vào
chủ sử dụng lao động. Những hoạt động
trên có thể để lại thông tin trên các trang
web của công ty, trên các trang quảng cáo,
trên tờ rơi quảng cáo, các lần trao đổi qua
điện thoại, tin nhắn về tính chất công việc,
hợp đồng lao động, biên lai thu tiền (học
phí, các loại phí, lệ phí, vé máy bay, tiền
ăn nghỉ). Đây cũng là các giấy tờ có giá
trị chứng minh nhất định. Ngoài ra, trong
nhiều trường hợp, các đối tượng lợi dụng
chính sách nhập cư đặc biệt ở khu vực biên
giới, sơ hở trong kiểm soát biên giới để mua
bán người với mục đích bóc lột tình dục,
cưỡng bức lao động và hôn nhân bất hợp
pháp. Bằng cách hợp pháp hóa các giấy tờ
để qua được biên giới, sử dụng các giấy tờ
giả, hoặc đi theo đường tiểu ngạch vì dọc
biên giới Việt Nam có nhiều đường mòn
lối mở rất thuận tiện cho việc di chuyển
sang nước bạn. Quá trình chuyển giao diễn
ra rất nhanh, hầu hết các nạn nhân không
biết ý định của đối tượng mua bán người
ở giai đoạn này, phải đến khi nạn nhân
đến địa điểm cuối cùng thì mới biết. Việc
thanh toán giữa các đối tượng có thể bằng
tiền mặt hoặc chuyển khoản nhưng không
để nạn nhân biết. Việc thu thập thông tin
tài liệu có thể theo hướng mà nạn nhân và
đối tượng di chuyển như khu vực bến xe,
nhà ga, thông tin từ những người lái xe ôm,
xe taxi, người chủ nhà nghỉ, phòng trọ, xác
định hướng di chuyển của nạn nhân và đối
77Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TRẦN VĂN TUÂN
tượng, khi bắt được đối tượng thì khám
xét, thu giữ các giấy tờ tài liệu, đề nghị nạn
nhân đưa ra các giấy tờ, có thể có giấy tờ
hợp pháp hoặc giấy tờ giả...
Như vậy, có thể thấy, kết quả hoạt
động thu thập chứng cứ có ảnh hưởng đến
kết quả hoạt động điều tra và ảnh hưởng
đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án
mua bán người. Số lượng, chất lượng các
chứng cứ mà CQĐT thu thập được sẽ tạo
điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho
CQĐT và các cơ quan tiến hành tố tụng
trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo trong
quá trình chứng minh vụ án.
Sau khi đã thu thập chứng cứ, luôn có
hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Đây
là các bước tiếp theo của thu thập nhưng
cũng có thể tạo tiền đề cho hoạt động thu
thập các chứng cứ tiếp theo; đồng thời, quá
trình chứng minh trong vụ án mua bán
người luôn có sự đan xen lẫn nhau giữa thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Mỗi
chứng cứ đều phải được kiểm tra, đánh giá
để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên
quan đến vụ án. Việc xác định những chứng
cứ thu thập được phải đảm bảo đủ để giải
quyết vụ án hình sự”13. Kiểm tra, đánh giá
chứng cứ trong các vụ án mua bán người
là hoạt động tư duy, đối chiếu, so sánh các
chứng cứ đã thu thập được; “là hoạt động
xem xét chứng cứ thu thập được có bảo đảm
tính xác thực, tính hợp pháp và tính liên
quan hay không, các chứng cứ đó đã đủ tin
cậy chưa, đủ để giải quyết đúng đắn vụ án
chưa”24. Nếu chứng cứ đã đảm bảo đầy đủ
các thuộc tính của chứng cứ, đồng thời có sự
phù hợp với các chứng cứ khác thì có thể sử
dụng để chứng minh hành vi phạm tội.
Giá trị chứng minh của chứng cứ, sự
thật của vụ án có được xác định hay không
phụ thuộc rất lớn vào quá trình đánh giá
chứng cứ của những người tiến hành tố
3 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Khoản 1 Điều 108
4 Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), (2018), Bình luận
khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, NXB Lao
động, Hà Nội, tr. 203.
tụng53. CQĐT đánh giá chứng cứ nhằm xác
định việc sử dụng chứng cứ đã thu thập
được trong hệ thống các chứng cứ để chứng
minh một vấn đề, một tình tiết của vụ án
mua bán người. Các chứng cứ đã thu thập
được trong vụ án mua bán người được đánh
giá nhằm xác định tính đầy đủ của chứng
cứ, nghĩa là các chứng cứ đã thu thập trong
vụ án mua bán người đã đầy đủ chưa, có
cần thu thập thêm chứng cứ gì để chứng
minh hành vi và đối tượng mua bán người
cũng như các tình tiết khác không. Đánh giá
chứng cứ cũng nhằm xác định giá trị chứng
minh của chứng cứ. Điều này sẽ ảnh hưởng
đến các quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và khả năng
tiếp tục sử dụng chứng cứ trong các hoạt
động tiếp theo. Thực tế cho thấy, để đánh giá
được chứng cứ chính xác, khách quan, toàn
diện, phải phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
năng lực của người tiến hành tố tụng, dựa
vào khả năng nhận thức đúng về bản chất
của vụ việc mua bán người, bản chất của
chứng cứ trong vụ việc đó để vận dụng linh
hoạt các biện pháp đánh giá, sử dụng chứng
cứ vào quá trình chứng minh sự thật khách
quan của vụ án mua bán người.
Có thể nói, hoạt động thu thập chứng
cứ và kiểm tra, đánh giá chứng cứ nằm
trong một thể thống nhất của quá trình
chứng minh vụ án mua bán người. Các
hoạt động này bổ trợ lẫn nhau, trong đó,
thu thập chứng cứ tạo tiền đề cho việc đánh
giá chứng cứ; ngược lại, đánh giá chứng cứ
sẽ tạo điều kiện củng cố và thu thập đầy
đủ các chứng cứ của vụ án. Vì vậy, cả ba
hoạt động này trong quá trình chứng minh
vụ án mua bán người đều phải thực hiện
một cách đầy đủ, nghiêm túc, với tinh thần
trách nhiệm cao nhằm đưa ra kết luận điều
tra có căn cứ, đúng quy định của pháp luật
và đủ sức thuyết phục, tạo thuận lợi cho
các giai đoạn tố tụng tiếp theo./.
5 Vương Văn Bép (2013), Luận án tiến sĩ: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, tr. 109
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoat_dong_chung_minh_trong_dieu_tra_cac_vu_an_mua_ban_nguoi.pdf