Hàm ý
Dựa vào kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần có chính
sách phù hợp để phát triển kinh tế, đặc biệt là chú
trọng vào hoạt động đổi mới cơ chế, chính sách tạo
điều kiện khuyến khích cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển, tăng cường hoạt động đổi mới, nâng cao
năng lực cạnh tranh từ đó góp phần vào phát triển
kinh tế Việt Nam.
Cuối cùng, nghiên cứu này có hạn chế: thứ nhất, số
liệu về hoạt động đổi mới của Việt Nam còn hạn chế
do chỉ thu thập được trong giai đoạn 1988-2018; thứ
hai, một số biến kiểm soát đưa vào mô hình còn hạn
chế, nguyên nhân là do việc thu thập các dữ liệu về
các biến kiểm soát rất khó khăn. Do đó, tác giả đề
xuất hướng nghiên cứu tiếp theo là có thể thu thập
số liệu với thời gian dài hơn và đưa thêm một số biến
kiểm soát khác vào mô hình nghiên cứu.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động đổi mới trong nước và phát triển kinh tế tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
Công ty TNHH Hà Minh Phúc
Liên hệ
Nguyễn HoàngMinh, Công ty TNHH Hà
Minh Phúc
Email: minhnh19604@sdh.uel.edu.vn
Lịch sử
Ngày nhận: 25/06/2020
Ngày chấp nhận: 23/10/2020
Ngày đăng: 08/11/2020
DOI :10.32508/stdjelm.v4i4.629
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Hoạt động đổi mới trong nước và phát triển kinh tế tại Việt Nam
Nguyễn HoàngMinh*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Năm 1986, đánh dấu đường lối đổi mới, chuyển đổi cơ chế, chính sách về mọi mặt, trong đó có
kinh tế của Việt Nam. Kể từ đó kinh tế Việt Nam tăng trưởng vượt trội với sự đóng góp của khu vực
kinh tế tư nhân, điều này được giải thích thông qua lý thuyết của Schumpeter cho rằng hoạt động
đổi mới phát triển sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, và đổi mới được xem như là nguồn huyết mạch
chính cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Bài viết này nhằmmục đích tìm hiểu mối quan hệ
giữa hoạt động đổi mới trong nước và phát triển kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 1988-2018.
Số liệu trong nghiên cứu được thu thập từ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Ngân hàng thế
giới (World Bank). Nghiên cứu sử dụng mô hình vectơ tự hồi quy (VAR) để phân tích mối quan hệ
giữa hoạt động đổi mới trong nước và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động
đổi mới trong nước của Việt Nam còn hạn chế, và có mối quan hệ tác động hai chiều giữa hoạt
động đổi mới trong nước và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Dựa trên kết quả nghiên cứu, Việt Nam
cần có chính sách phù hợp để phát triển kinh tế, đặc biệt là chú trọng vào hoạt động đổi mới cơ
chế, chính sách tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân tăng cường hoạt động đổi mới để phát
triển từ đó góp phần vào phát triển kinh tế Việt Nam.
Từ khoá: Đổi mới, Phát triển, Kinh tế, Việt Nam
GIỚI THIỆU
Solow1, đã chỉ ra sự tồn tại của mối quan hệ lâu dài
giữa tăng trưởng kinh tế và hoạt động đổimới. Vai trò
của đổi mới đối với tăng trưởng và đổi mới thể hiện
quá trình đổi mới cốt lõi trong bất kỳ tổ chức nào, trừ
khi nó thay đổi những gì cung cấp cho thế giới và cách
nó tạo ra 2.
Một số nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh phát
triển kinh tế có tác động tích cực đến hoạt động đổi
mới của quốc gia, chẳng hạn như: Romer3, Pece
và cộng sự4, Galindo và Méndez 5, Akinwale6. Hay
một số nghiên cứu khác chứng minh đổi mới tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế như: Wong
và cộng sự7, Cameron8, Nadiri 9, Ulku10. Mối quan
hệ hai chiều giữa đổi mới và phát triển kinh tế được
chứng minh trong các nghiên cứu của Pradhan và
cộng sự11, Bilbao-Osorio và Rodríguez-Pose 12, Liu
và Xia 13, Zhou và Lou14. Từ các nghiên cứu trên, tác
giả nhận thấy cómối quan hệ hai chiều giữa hoạt động
đổi mới và phát triển kinh tế, tức là hoạt động đổimới
có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và ngược
lại hoạt động phát triển kinh tế phát triển có tác động
tích cực đến hoạt động đổi mới của quốc gia. Tại Việt
Nam, nghiên cứu của Nguyen15 cho thấy hoạt động
đổi mới, đo lường bằng số lượng đơn xin cấp bằng
sáng chế không bị tác động bởi phát triển kinh tế tại
Việt Nam trong giai đoạn 1990-2005, nghiên cứu sử
dụng phương pháp hồi quy tuyến tính cổ điển OLS
để ước lượng tác động của phát triển kinh tế đến hoạt
động đổi mới của Việt Nam, với cỡ mẫu rất nhỏ (16
quan sát) nên ước lượng có thể sẽ bị chệch rất lớn, từ
đó dẫn đến nhiều sai sót trong đánh giá tác động của
các biến quan sát.
Trước năm 1986, Việt Nam còn tồn tại cơ chế quản
lý kế hoạch hóa tập trung, làm kìm hãm sản xuất,
giảm năng suất, chất lượng, giảm hiệu quả kinh tế - xã
hội, sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội, và
trước những đòi hỏi của thực tiễn đó, Đảng ta đã đưa
ra quyết sách nhằm thay đổi tình hình thực tế, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện thu nhập của nhân
dân thông qua việc đổi mới tư duy kinh tế, tháo bỏ
các rào cản để giải phóng sức sản xuất xã hội 16. Năm
1986, đại hội lần thứ VI của Đảng đặt ra những mục
tiêu cụ thể là “sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; tạo
ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;
xây dựng và hoàn thiệnmột bước quanhệ sản xuấtmới;
tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu
cũng cố an ninh, quốc phòng” và nhấnmạnhnhiệmvụ:
“Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực
thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng
hái phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả kinh tế ”17, từ đó đánh dấu hoạt động
đổi mới của Việt Nam, mở ra con đường đổi mới cho
khu vực kinh tế phát triển. Thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam năm 1988 là 400,89 USD/người
đến năm 2018 là 1.964,47 USD/người, cùng với đó là
Trích dẫn bài báo này: Minh N H. Hoạt động đổi mới trong nước và phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(4):1069-1080.
1069
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
sự phát triển của hoạt động đổi mới trong nước với
số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế của cư dân trong
nước năm 1988 là 20 đơn đến năm 2018 là 646 đơn
(Hình 1). Việt Nam có điểm số đổi mới toàn cầu là
38,84 điểm, xếp hạng thứ 42 trên thế giới, đứng hạng
1 trong khu vực thu nhập thấp – trung bình toàn cầu
và xếp hạng thứ 9 trong khu vực Đông Nam Á, Đông
Á, Châu Đại Dương18. Tuy nhiên, số lượng đơn xin
cấp bằng sáng chế của các doanh nghiệp trong nước
còn hạn chế và thu nhập bình quân trên đầu người
của Việt Nam còn thấp (Bảng 1). Vì vậy mục đích
của nghiên cứu này là tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt
động đổi mới trong nước và phát triển kinh tế tại Việt
Nam trong giai đoạn 1988-2018, và nghiên cứu sẽ trả
lời câu hỏi: Có mối quan hệ hai chiều giữa hoạt động
đổimới trong nước và phát triển kinh tế củaViệt Nam
trong giai đoạn 1988-2018 hay không?. Nghiên cứu
này được thực hiện để trả lời câu hỏi trên.
Sau phần 1 giới thiệu, nghiên cứu được cấu trúc gồm
4 phần: (i) Phần 2 trình bày tổng quan lý thuyết về đổi
mới, phát triển kinh tế, mối quan hệ giữa đổi mới và
phát triển kinh tế, và các nghiên cứu thực nghiệm đã
được chứng minh làm cơ sở xây dựng các giả thuyết
nghiên cứu, (ii) Phần 3 trình bày phương pháp nghiên
cứu bao gồm dữ liệu nghiên cứu, mô hình nghiên cứu
và phương pháp phân tích, (iii) Phần 4 trình bày kết
quả nghiên cứu và thảo luận, và (iv) Phần 5 trình bày
kết luận.
TỔNGQUAN LÝ THUYẾT
Đổimới
Đổi mới được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa, điển
hình như: Therrien và cộng sự19 cho rằng đổi mới là
một quá trình phức tạp liên quan đến những thay đổi
trong sản xuất và quy trình liên quan đến công nghệ.
Calantone và cộng sự20 cho rằng đổi mới là thêm
những giá trịmới vào hoạt động sản xuất, kinh doanh,
phân phối và tiêu thụ sản phẩm/dịch vụ. Daman-
pour21 xem đổi mới như là một phương tiện để thay
đổi một tổ chức, hay là một phản ứng với những thay
đổi trong môi trường bên ngoài hoặc là một hành
động đi trước để tác động đến môi trường. Một trong
những định nghĩa về đổi mới được nhiều nhà nghiên
cứu sử dụng nhất là của OECD22 cho rằng “đổi mới
là đưa ra một cái mới hoặc cải thiện sản phẩm, tiến
trình, sử dụng công nghệ mới hoặc một phương pháp
đổi mới tổ chức trong hoạt động kinh doanh, tổ chức
lại nơi làm việc hoặc đổi mới tiếp thị”.
Đổi mới của quốc gia tập trung vào mô tả kết cấu của
tổ chức và mô hình hoạt động, đóng góp vào hành vi
đổi mới của quốc gia, các tác nhân đóng vai trò quyết
định trong ngành, các thể chế, sự đa dạng trong cách
tiếp cận của các quốc gia đối với đổi mới23. Số lượng
bằng sáng chế tập hợp thông tin chi tiết về các công
nghệ đổi mới được công khai và đánh giá cao về hoạt
động đổi mới, điều này mang lại cho nó những lợi
thế nổi bật như một chỉ số đo lường hoạt động đổi
mới24. Tuy nhiên, không phải tất cả các phát minh
đều được cấp bằng sáng chế và các phát minh được
cấp bằng sáng chế khác nhau rất nhiều về chất lượng
và mức độ sáng tạo25. Kleinknecht và cộng sự 26 cho
rằng chỉ số bằng sáng chế có thể bỏ lỡ nhiều phátminh
và sáng chế không được cấp bằng sáng chế do một số
loại hình công nghệ mới không được cấp bằng sáng
chế. Do đó, nếu sử dụng số lượng bằng sáng chế đo
lường hoạt động đổi mới là còn rất nhiều thiếu sót từ
đó một số nghiên cứu đã đề xuất đo lường hoạt động
đổi mới của quốc gia bằng số lượng đơn xin cấp bằng
sáng chế27–29. Trong nghiên cứu này, hoạt động đổi
mới được định nghĩa là những hoạt động đổi mới của
cư dân trong nước tạo ra từ quá trình chuyển đổi, cải
tiến bởi các yếu tố đầu vào khác nhau, tạo ra kết quả
đầu ra và được đo lường bằng số lượng đơn xin cấp
bằng sáng chế của cư dân trong nước của quốc gia.
Phát triển kinh tế
Solow1, tiến hành xây dựngmô hình tăng trưởng dựa
trên những ý tưởng đổi mới, mô hình tăng trưởng
Solow cho rằng các yếu tố quyết định đến tăng trưởng
bao gồm: vốn, lao động và công nghệ. Nafziger30 cho
rằng tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về số lượng
hoặc sự tăng lên về thu nhập bình quân đầu người của
một quốc gia. Latimer và Kulkarni31, cho rằng tăng
trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc
nội, tổng sản lượng quốc gia hoặc tổng sản phẩmquốc
nội tính trên bình quân đầu người trong một khoản
thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế được đo
lường bởi sự thay đổi tích cực trong GDP bình quân
đầu người32. Trong nghiên cứu này, phát triển kinh tế
được định nghĩa là sự tăng trưởng của tổng sản phẩm
quốc nội của quốc gia và được đo lường bằng tổng sản
phẩm quốc nội tính trên bình quân đầu người trong
một khoản thời gian nhất định.
Mối quan hệ giữa hoạt động đổi mới và phát
triển kinh tế
Đổi mới được xem như là một yếu tố quyết định
đến tăng trưởng kinh tế trong các nghiên cứu thực
nghiệm7. Romer3,33 sử dụng lý thuyết phát triển nội
sinh để chứng minh rằng công nghệ, phát triển vốn
con người, hoạt động nghiên cứu và phát triển đóng
vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế, và lý
thuyết phát triển nội sinh dùng để xem xét đóng góp
của hoạt động đổi mới có tác động đến phát triển
1070
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
kinh tế như thế nào của Cameron8. Nghiên cứu của
Nadiri9 cho thấy phát triển kinh tế bị tác động tích
cực bởi tỷ lệ phát triển đổi mới của quốc gia. Ulku10
đã chứng minh đổi mới có tác động tích cực đến phát
triển kinh tế của 30 quốc gia, bao gồm 20 quốc gia
trong khối OECD và 10 quốc gia không trong khối
OECD. Pece và cộng sự4, đã phát hiện ra mối quan
hệ tích cực giữa phát triển kinh tế và hoạt động đổi
mới của các quốc gia. Quốc gia có thu nhập cao hơn
sẽ khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển,
và khi quốc gia giàu thì họ sẽ yêu cầu các sản phẩm
phải khác biệt hơn, góp phần khuyến khích hoạt động
đổi mới của quốc gia3. Tăng trưởng kinh tế thúc đẩy
hoạt động đổi mới của quốc gia bởi vì khi quốc gia
có thu nhập cao thì sẽ có nhiều nguồn lực đầu tư vào
hoạt động đổi mới, và mối quan hệ tích cực giữa tăng
trưởng kinh tế và hoạt độngđổimới được chứngminh
trong lý thuyết của Schumpeter34.
Mối quan hệ hai chiều giữa hoạt động đổi mới và tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia được chứng minh
trong nghiên cứu của Pradhan và cộng sự 11. Mối
quan hệ tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và hoạt
động đổi mới của quốc gia đã được chứngminh trong
nghiên cứu của Galindo và Méndez 5. Nghiên cứu
của Bilbao-Osorio và Rodríguez-Pose 12, chứng minh
phát triển kinh tế có tác động tích cực đến hoạt động
đổi mới của quốc gia, ngược lại tốc độ tăng trưởng
của đổi mới lại có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế của quốc gia. Liu và Xia 13, Zhou và Lou14,
đã chứng minh phát triển kinh tế có tác động tích cực
đến hoạt động đổimới và ngược lại hoạt động đổimới
có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Trung
Quốc. Từ những tài liệu trên, tác giả nhận thấy cómối
quan hệ hai chiều giữa hoạt động đổimới và phát triển
kinh tế của quốc gia, bởi vì khi hoạt động đổimới phát
triển sẽ tạo ra nhiều hoạt động kinh tế khác, từ đó góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngược lại, khi quốc
gia có hoạt động kinh tế phát triển sẽ kích thích các
doanh nghiệp trong nước tăng cường hoạt động đổi
mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, để đáp ứng các
nhu cầu trong và ngoài nước tăng cao. Vì vậy, tác giả
đề xuất giả thuyết nghiên cứu chính trong nghiên cứu
này là:
H0: Có mối quan hệ tác động hai chiều giữa hoạt động
đổi mới trong nước và phát triển kinh tế của Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu trong nghiên cứu này được thu thập trong giai
đoạn 1988 – 2018. Lý do tác giả chọn từ năm 1988 để
thu thập số liệu là do số liệu trước năm 1988 không
có dữ liệu về hoạt động đổi mới nên tác giả chỉ lựa
chọn từ năm 1988 đến năm 2018 để thu thập dữ liệu.
Các dữ liệu được thu thập từ các nguồn cụ thể như
sau: (1) Số liệu về đơn xin cấp bằng sáng chế được thu
thập từ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới 35; (2) Số liệu về
thu nhập bình quân trên đầu người (tính theo giá cố
định năm 2010), tỷ lệ xuất khẩu trên GDP, tỷ lệ nhập
khẩu trên GDP, tỷ lệ dòng vốn FDI vào trong nước
trên GDP được thu thập từ Ngân hàng thế giới36.
Mô hình nghiên cứu và phương pháp phân
tích
Nghiên cứu này tập trung vào tìm hiểu mối quan hệ
giữa hoạt động đổi mới trong nước và phát triển kinh
tế tại Việt Nam trong giai đoạn 1988–2018, tác giả xây
dựng mô hình sau để kiểm tra giả thuyết được thiết
lập:
Lrpatt = b 0 + b 1Lgppt + b 2Ltot+ b 3Lfdit + mt
Trong đó:
Hoạt động đổi mới trong nước của Việt Nam tại năm
t (Lrpatt ) được đo lường bằng logarithm tự nhiên của
số đơn xin cấp bằng sáng chế của cư dân trong nước
chia cho 1.000 người tại năm t 12. Bằng sáng chế là
một tài liệu được cấp bởi một cơ quan chính phủ có
thẩm quyền, trao quyền loại trừ bất kỳ một tổ chức
khác khỏi việc sản xuất hoặc sử dụng thiết bị, bộ máy
hoặc quy trình mới trong một số năm nhất định 25.
Tee và cộng sự37 cho rằng số lượng đơn xin cấp bằng
sáng chế là số đơn để có được các quyền độc quyền
được thiết lập trong luật sáng chế cho một sáng chế,
một sản phẩmhaymột quy trình cung cấp các phương
tiệnmới để thực hiệnmột hoạt động nào đó hoặc đưa
ra một giải pháp công nghệ đổi mới.
Phát triển kinh tế củaViệtNam tại năm t (Lgppt ) được
đo lường bằng logarithm tự nhiên của thu nhập bình
quân trên đầu người, tính theo giá năm 201012,38.
Hai biến kiểm soát bao gồm: (1) Độ mở thương mại
củaViệtNam tại năm t (Ltot ) được đo lường bằng log-
arithm tự nhiên của tỷ lệ của tổng xuất khẩu và nhập
khẩu trênGDP38. Độmở thươngmại của nền kinh tế
đóng vai trò là thước đo tầmquan trọng của hoạt động
thương mại quốc tế đối với nền kinh tế của một quốc
gia và nền kinh tế của quốc gia có thể được hưởng lợi
từ sự cởi mở của hoạt động thương mại vì nó giúp sử
dụng nguồn lực hợp lý và khai thác nền kinh tế theo
quymô từ đó tác động đến các yếu tố sản xuất và công
nghệ39. (2) Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam tại năm t (Lfdit ) được đo lường bằng
logarithm tự nhiên của tỷ lệ dòng vốn đầu tư nước
ngoài vào trong nước trên GDP của Việt Nam tại năm
t40. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong
nước có thể mang lại lợi ích cho các hoạt động đổi
1071
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
mới của các doanh nghiệp trong nước thông qua các
hoạt động như: doanh nghiệp nước ngoài mang công
nghệ mới vào sản xuất, đưa lao động có trình độ cao
gia nhập vào thị trường lao động trong nước, và các
doanh nghiệp nước ngoài vào trong nước sẽ thúc đẩy
các doanh nghiệp trong nước tăng cường hoạt động
nghiên cứu phát triển để gia nhập vào chuỗi cung ứng,
góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới của quốc gia 41.
Đối với dữ liệu chuỗi thời gian thì mô hình vectơ tự
hồi quy (VAR) của Sims và Sargent đạt giải thưởng
Nobel Kinh tế năm 2011, được đánh giá là sử dụng
hiệu quả nhất đối với dữ liệu chuỗi thời gian và được
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế sử dụng42, mô hình
VAR được sử dụng trong nghiên cứu này vì VAR phù
hợp cho việc đánh giá tác động của các dữ liệu theo
chuỗi thời gian vàVAR cho phép kiểm định tính nhân
quả giữa các biến, vì vậy tác giả cũng sử dụngmô hình
vectơ tự hồi quy để tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt
động đổimới và phát triển kinh tế củaViệt Nam trong
giai đoạn 1988-2018.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Phân tích thống kêmô tả
Dựa trên số liệu thu thập được từ Tổ chức sở hữu
trí tuệ thế giới (WIPO), Ngân hàng thế giới (World
Bank), tác giả tiến hành mô tả các tiêu chí của Việt
Nam trong giai đoạn 1988 – 2018 bao gồm: số lượng
đơn xin cấp bằng sáng chế của cư dân trong nước
(RPAT), thu nhập bình quân trên đầu người (GPP),
độmở thươngmại (TO), dòng vốn FDI vào Việt Nam
(FDI).
Theo kết quả Bảng 1 ta thấy, số lượng đơn xin cấp
bằng sáng chế của cư dân trong nước tạo ra trung bình
trong giai đoạn 1988-2018 là 196,451 đơn, giá trị cao
nhất là 646 đơn (năm 2018) và thấp nhất là 20 đơn
(năm1988), từ đó cho thấy hoạt động đổimới củaViệt
Nam trong giai đoạn 1988-2018 là rất hạn chế, đặc
biệt là những năm đầu Việt Nammở cửa nền kinh tế.
Về thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam
trung bình trong giai đoạn 1988-2018 là 998,91 đô la
Mỹ, giá trị cao nhất là 1.964,476 đô la Mỹ (năm 2018)
và giá trị thấp nhất là 400,89 đô la Mỹ (năm 1988).
Rõ ràng ta thấy, có mối quan hệ giữa hoạt động đổi
mới trong nước và phát triển kinh tế theo thời gian
của Việt Nam trong giai đoạn 1988-2018. Về độ mở
thương mại của Việt Nam trung bình trong giai đoạn
1988-2018 là 122,33%, giá trị cao nhất là 208,3% (năm
2018) và giá trị thấp nhất là 18,95% (năm 1988). Về
dòng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước trênGDP
của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 1988-2018
là 5,573%, giá trị cao nhất là 11,939% và giá trị thấp
nhất là 0,03%. Rõ ràng cómối quan hệ giữa phát triển
kinh tế và hoạt độngđổimới trongnước, cụ thể là hoạt
động đổi mới và hoạt động kinh tế phát triển liên tục
(Hình 1).
Kiểm định tính dừng của các chuỗi số liệu
Tác giả sử dụng hai phương pháp kiểm định nghiệm
đơn vị phổ biến cho mẫu nhỏ là ADF (kiểm định
Dickey và Fuller mở rộng) và Phillips Person (PP) để
kiểm tra tính dừng của các chuỗi số liệu, kết quả kiểm
định tính dừng cho thấy: sai phân bậc 1 của các chuỗi
số liệu LRPAT, LGPP, LTO đều dừng tại mức ý nghĩa
1%, riêng chuỗi số liệu LFDI lại dừng tại mức ý nghĩa
1% vì vậy đủ điều kiện để tác giả sử dụng mô hình
VAR cho các chuỗi số liệu để tìm hiểu mối quan hệ
giữa hoạt động đổi mới trong nước, phát triển kinh
tế, độ mở thương mại và dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào trong nước trên GDP của Việt Nam
trong giai đoạn 1988-2018 ( Bảng 2).
Kiểm tra độ trễ phù hợp và độ trễ tối ưu
Để có được độ trễ tối ưu cho phương pháp ước lượng
VAR, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra năm chỉ tiêu
bao gồm: kiểm tra tỷ lệ khả năng được điều chỉnh
tuần tự (LR), tiêu chuẩn lỗi dự đoán cuối cùng (FPE),
tiêu chí thông tin Akaike (AIC), tiêu chuẩn thông tin
Schwarz (SIC) và tiêu chí thông tin Hannan-Quinn
(HQ). Kết quả kiểm định độ trễ phù hợp và độ trễ tối
ưu như sau: với chuỗi dữ liệu ban đầu đã đảm bảo
tính dừng thì độ trễ là 4 sẽ giúp cho các ước lượng đạt
kết quả LR, FPE, AIC, SIC và HQ đạt tối ưu (Bảng 3).
Kết quả kiểm định nhân quảGranger
Để tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt động đổi mới
trong nước (LRPAT), phát triển kinh tế (LGPP), độ
mở thương mại (LTO), dòng vốn đầu tư nước ngoài
vào trong nước của Việt Nam (LFDI) trong giai đoạn
1988-2018, tác giả sử dụng kiểm định nhân quả
Granger để đánh giá tác động của các biến số. Kết
quả cho thấy, phát triển kinh tế có tác động (nhân
quả) đến hoạt động đổimới trong nước ởmức ý nghĩa
10% và hoạt động đổi mới trong nước có tác động
(nhân quả) đến phát triển kinh tế ở mức ý nghĩa 1%,
vì vậy tác giả có đủ cơ sở để chấp nhận giả thuyết
H0, tức có nghĩa là có mối quan hệ tác động hai chiều
giữa hoạt động đổi mới trong nước và phát triển kinh
tế của Việt Nam, kết quả nghiên cứu này phù hợp
với nghiên cứu của Pradhan và cộng sự 11, Bilbao-
Osorio và Rodríguez-Pose12.Kết quả kiểm định nhân
quả Granger cụ thể như sau:
Phát triển kinh tế, độ mở thương mại, dòng vốn đầu
tư nước ngoài vào trong nước và sự kết hợp của chúng
1072
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
Bảng 1: Thống kê các biến
Tiêu chí Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất
RPAT 196,451 204,41 646 20
GPP 998,91 468,93 1.964,476 400,89
TO 122,33 45,94 208,3 18,95
FDI 5,573 2,616 11,939 0,03
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
Hình 1: Biểu diễn mối quan hệ giữa hoạt động đổi mới và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam trong giai
đoạn 1988-2018a
aNguồn: Tác giả tổng hợp.
1073
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
Bảng 2: Kiểm định tính dừng
Biến số Giá trị thống kê
ADF
Giá trị thống kê
PP
Biến số Giá trị thống kê
ADF
Giá trị thống kê PP
LRPAT -0,4217ns -0,4273ns D(LRPAT) -5,5508*** -5,487***
LGPP -1,5632ns -0,3789ns D(LGPP) -3,9127*** -2,7663*
LTO -0,9774 -4,4462*** D(LTO) -12,3982*** -32,2274***
LFDI -5,7965*** -5,7965*** - - -
ns : không có ý nghĩa; * : mức ý nghĩa 10%; *** : mức ý nghĩa 1%
Nguồn: Eviews 8.
Bảng 3: Kiểm định độ trễ phù hợp và độ trễ tối ưu
Lag LogL LR FPE AIC SC HQ
0 116,2395 NA 2,09e-09 -8,633808 -8,440254 -8,578071
1 142,6143 42,60552 9,60e-10 -9,431873 -8,464106 -9,153191
2 155,9470 17,43499 1,30e-09 -9,226691 -7,484711 -8,725064
3 184,1174 28,17038 6,73e-10 -10,16287 -7,646681 -9,438301
4 226,1531 29,10165* 1,71e-10* -12,16562* -8,875214* -11,21810*
Ghi chú: LR: sequential modified LR test statistic; FPE: Final prediction error; AIC: Akaike information criterion; SC: Schwarz information
criterion; HQ: Hannan-Quinn information criterion
Nguồn: Eviews 8.
đều thực sự là nguyên nhân gây ra biến động của hoạt
động đổi mới trong nước, do cómức ý nghĩa thống kê
lần lượt nhỏ hơn 10%, 5% và 1% (Bảng 4).
Hoạt động đổi mới trong nước, dòng vốn đầu tư nước
ngoài vào trong nước, độ mở thương mại và sự kết
hợp của chúng thực sự là nguyên nhân gây ra biến
động của phát triển kinh tế, do có mức ý nghĩa thống
kê lần lượt nhỏ hơn 1% và 10% (Bảng 4).
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển
kinh tế, hoạt động đổi mới trong nước không phải là
nguyên nhân gây ra sự biến động của độ mở thương
mại, do có mức ý nghĩa lớn hơn 10% (Bảng 4).
Độ mở thương mại, phát triển kinh tế, hoạt động đổi
mới trong nước không phải là nguyên nhân gây ra sự
biến động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
do có mức ý nghĩa lớn hơn 10% (Bảng 4).
Kết quả từhàmđồ thị phảnứng xung chukì 5
năm
Để đánh giá sự tác động của các biến số, tác giả sử
dụng phép thử hàm phản ứng đẩy sẽ giúp cho việc
đánh giá độ nhạy cảm của các yếu tố trong khoảng
thời gian 5 năm liên tiếp, kết quả hàm phản ứng sẽ
chỉ ra mối quan hệ phản ứng khi thay đổi hoạt động
đổi mới, phát triển kinh tế, độ mở thương mại, dòng
vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước sẽ thay đổi ra
sao và ngược lại.
Đối với hoạt động đổi mới trong nước:
+Khi có cú sốc đối với phát triển kinh tế thì hoạt động
đổi mới trong nước có phản ứng tăng sau khoảng 2
năm đầu, sau đó điều chỉnh giảm sâu đến cuối năm
thứ 3 và điều chỉnh tăng ở cuối chu kỳ (Hình 2).
+ Khi có cú sốc đối với độ mở thương mại thì hoạt
động đổi mới trong nước có phản ứng giảm sâu sau 1
năm đầu, sau đó điều chỉnh về vị trí cân bằng và tăng
trở lại vào cuối năm thứ 2, nhưng sau đó lại điều chỉnh
giảm dần đến cuối chu kì (Hình 2).
+ Khi có cú sốc đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam thì hoạt động đổi mới trong nước giảm
sâu sau 1 năm đầu, sau đó điều chỉnh tăng và đạt đỉnh
vào cuối năm thứ 3, nhưng sau đó lại điều chỉnh giảm
ở cuối chu kì (Hình 2).
Đối với phát triển kinh tế:
+ Khi có cú sốc đối với hoạt động đổi mới trong nước
thì phát triển kinh tế tăng và đạt đỉnh sau 1 năm,
nhưng sau đó lại giảm liên tục đến cuối năm thứ 3,
và điều chỉnh tăng về vị trí cân bằng ở cuối chu kì
(Hình 3).
+ Khi có cú sốc đối với độ mở thương mại thì phát
triển kinh tế giảm mạnh sau 2 năm, và sau đó điều
chỉnh tăng trở lại đến cuối chu kì (Hình 3).
+ Khi có cú sốc đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam thì phát triển kinh tế giảm sâu
sau 1 năm đầu, nhưng sau đó điều chỉnh tăng về vị trí
cân bằng ở cuối năm thứ 3 và biến độ giảm nhẹ xung
quanh vị trí cân bằng ở cuối chu kì (Hình 3).
1074
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
Bảng 4: Kiểm định nhân quả Granger
Giả thuyết không (Null Hypothesis) Giá trị thống kê Chi-square Xác xuất
D(LGPP) không có tác động nhân quả đến D(LRPAT)
D(LTO) không có tác động nhân quả đến D(LRPAT)
LFDI không có tác động nhân quả đến D(LRPAT)
8,4945
12,3094
23,9239
0,0751*
0,0152**
0,0000***
D(LRPAT) không có tác động nhân quả đến D(LGPP)
D(LTO) không có tác động nhân quả đến D(LGPP)
LFDI không có tác động nhân quả đến D(LGPP)
16,9016
9,03
15,2812
0,002***
0,0604*
0,0042***
D(LRPAT) không có tác động nhân quả đến D(LTO)
D(LGPP) không có tác động nhân quả đến D(LTO)
LFDI không có tác động nhân quả đến D(LTO)
2,0095
7,2741
4,4652
0,7340
0,1221
0,3467
D(LRPAT) không có tác động nhân quả đến LFDI
D(LGPP) không có tác động nhân quả đến LFDI
D(LTO) không có tác động nhân quả đến LFDI
1,415
3,1285
6,1552
0,8416
0,5366
0,1879
* : mức ý nghĩa 10% ** : mức ý nghĩa 5% *** : mức ý nghĩa 1%
Nguồn: Eviews 8.
Hình 2: Đồ thị phản ứng xung biến hoạt động đổi mới chu kì 5 năm
1075
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
Hình 3: Đồ thị phản ứng xung biến phát triển kinh tế chu kì 5 năma
aNguồn: Eviews 8.
Kết quả từ bảng phân rã phương sai
Phân rã phương sai phân tích biến nội sinh thành các
cú sốc thành phần đối với ước lượngVAR, vì vậy phân
rã phương sai cung cấp thông tin về tầm quan trọng
tương đối của mỗi đổi mới ngẫu nhiên trong việc ảnh
hưởng đến các biến trong mô hình ước lượng VAR.
Kết quả phân rã phương sai thể hiệnmột số điểm như
sau:
- Hoạt động đổi mới trong nước năm thứ nhất được
xác định hoàn toàn (100%) dựa trên hoạt động đổi
mới của những kỳ trước đó. Sang năm thứ hai, sự xuất
hiện của độ mở thương mại (35,149%), dòng vốn đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam (30,632%) đã giải thích
rất lớn hoạt động đổi mới trong nước, và sự tác động
rất nhỏ của phát triển kinh tế (1,923%). Đến năm thứ
năm, tỷ lệ giải thích biến động của hoạt động đổi mới
bởi độ mở thương mại, dòng vốn đầu tư nước ngoài
cũng có ít biến động, ngoại trừ sự gia tăng của phát
triển kinh tế giải thích được 12,385% biến động của
hoạt động đổi mới trong nước (Bảng 5).
- Phát triển kinh tế năm thứ nhất được giải thích phần
lớn (98,246%) dựa trên phát triển kinh tế của những
kỳ trước đó và một tỷ lệ rất nhỏ (1,753%) của hoạt
động đổi mới trong nước. Sang năm thứ hai, sự xuất
hiện của dòng vốn đầu tư nước ngoài (20,789%), độ
mở thươngmại (13,567%) giải thíchmột phần sự biến
động của phát triển kinh tế, và hoạt động đổi mới
trong nước giải thích được một phần nhỏ phát triển
kinh tế (5,553%). Đến năm thứ năm, độ mở thương
mại giải thích được 35,093% biến động của phát triển
kinh tế, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải
thích được 18,912% biến động của phát triển kinh
tế, nhưng hoạt động đổi mới chỉ mới giải thích được
11,041% biến động của phát triển kinh tế (Bảng 6).
KẾT LUẬN VÀHÀMÝ
Kết luận
Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã đánh dấu
bước đổi mới trong phát triển kinh tế của Việt Nam,
gópphần vào tăng trưởng kinh tế và cải thiện thunhập
cho người dân. Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có
được nhiều thành tựu nhất định, đặc biệt là các khu
vực kinh tế phát triển mạnh, góp phần vào phát triển
kinh tế. Do đó, nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mối
quan hệ giữa hoạt động đổi mới trong nước và phát
triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1988-
2018, với dữ liệu được thu thập từ Tổ chức sở hữu
trí tuệ thế giới (WIPO), Ngân hàng thế giới (World
Bank) và mô hình vectơ tự hồi quy (VAR) được sử
dụng để kiểm định giả thuyết. Kết quả nghiên cứu thể
hiện một số điểm như sau: Thứ nhất, hoạt động đổi
1076
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
Bảng 5: Phân rã phương sai hoạt động đổi mới
Năm D(LRPAT) D(LGPP) D(LTO) LFDI
1 100,0000 0,000000 0,000000 0,000000
2 32,29434 1,923044 35,14978 30,63284
3 30,47132 3,615176 37,18478 28,72872
4 27,47168 12,51634 33,64923 26,36274
5 26,35962 12,38534 35,18064 26,07440
Nguồn: Eviews 8.
Bảng 6: Phân rã phương sai phát triển kinh tế
Năm D(LRPAT) D(LGPP) D(LTO) LFDI
1 1,753200 98,24680 0,000000 0,000000
2 5,553469 60,09020 13,56704 20,78929
3 4,251011 38,15639 36,45296 21,13964
4 10,41785 35,49715 34,42033 19,66467
5 11,04103 34,95258 35,09370 18,91269
Nguồn: Eviews 8.
mới trong nước của Việt Nam trong giai đoạn 1988-
2018 rất thấp; Thứ hai, có mối quan hệ hai chiều giữa
phát triển kinh tế và hoạt động đổi mới trong nước,
điều này được giải thích dựa trên lý thuyết phát triển
kinh tế của Schumpeter34, cụ thể: (1) Phát triển kinh
tế, độ mở thương mại, dòng vốn đầu tư nước ngoài
vào trong nước và sự kết hợp của chúng đều thực sự
là nguyên nhân gây ra biến động của hoạt động đổi
mới trong nước, (2) Hoạt động đổi mới trong nước,
dòng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước, độ mở
thươngmại và sự kết hợp của chúng thực sự là nguyên
nhân gây ra biến động của phát triển kinh tế. Điều này
có thể được giải thích là do hoạt động đổi mới sẽ sản
sinh ra nhiều hoạt động kinh tế khác từ đó có thể làm
tăng phát triển kinh tế của Việt Nam.
Hàm ý
Dựa vào kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần có chính
sách phù hợp để phát triển kinh tế, đặc biệt là chú
trọng vào hoạt động đổi mới cơ chế, chính sách tạo
điều kiện khuyến khích cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển, tăng cường hoạt động đổi mới, nâng cao
năng lực cạnh tranh từ đó góp phần vào phát triển
kinh tế Việt Nam.
Cuối cùng, nghiên cứu này có hạn chế: thứ nhất, số
liệu về hoạt động đổi mới của Việt Nam còn hạn chế
do chỉ thu thập được trong giai đoạn 1988-2018; thứ
hai, một số biến kiểm soát đưa vào mô hình còn hạn
chế, nguyên nhân là do việc thu thập các dữ liệu về
các biến kiểm soát rất khó khăn. Do đó, tác giả đề
xuất hướng nghiên cứu tiếp theo là có thể thu thập
số liệu với thời gian dài hơn và đưa thêm một số biến
kiểm soát khác vào mô hình nghiên cứu.
DANHMỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AIC: Akaike information criterion
FPE: Final prediction error
FDI: Foreign Direct Investment
GDP: Gross Domestic Product
HQ: Hannan-Quinn information criterion
LR: sequential modified LR test statistic
SC: Schwarz information criterion
TO: Trade Openness
VAR: Vector Autoregression
WIPO: World Intellectual Property Organization
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột
lợi ích nào trong công bố bài báo.
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Toàn bộ nội dung bài viết chỉ do tác giả thực hiện.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Solow RM. A contribution to the theory of economic growth.
The Quarterly Journal of Economics. 1956;70(1):65–94. Avail-
able from: https://doi.org/10.2307/1884513.
2. Bessant J, Lamming R, Noke H, Phillips W. Man-
aging innovation beyond the steady state. Tech-
novation. 2005;25(12):1366–1376. Available from:
https://doi.org/10.1016/j.technovation.2005.04.007.
1077
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
3. Romer PM. The origins of endogenous growth. Journal of
Economic Perspectives. 1994;8(1):3–22. Available from: https:
//doi.org/10.1257/jep.8.1.3.
4. Pece AM, Simora OEO, Salisteanu F. Innovation and economic
growth: An empirical analysis for CEE countries. Procedia
Economics and Finance. 2015;26:461–467. Available from:
https://doi.org/10.1016/S2212-5671(15)00874-6.
5. Galindo MÁ, Méndez MT. Entrepreneurship, economic
growth, and innovation: Are feedback effects at work?
Journal of Business Research. 2014;67(5):825–829. Available
from: https://doi.org/10.1016/j.jbusres.2013.11.052.
6. Akinwale YO. An Empirical Analysis of Short Run and LongRun
Relationships between Energy Consumption, Technology In-
novation and Economic Growth in Saudi Arabia. International
Journal of Energy Economics and Policy. 2018;8(4):139–146.
7. Wong PK, Ho YP, Autio E. Entrepreneurship, Innovation, and
Economic growth: Evidence from GEM data. Small Business
Economics. 2005;24:335–350. Available from: https://doi.org/
10.1007/s11187-005-2000-1.
8. Cameron G. Innovation and growth: A survey of the empirical
evidence. Working Paper Nuffield College, Oxford University.
1998;.
9. Nadiri I. Innovations and technological spillovers.Working Pa-
per 423. National Bureau of Economic Research Cambridge,
MA. 1993;Available from: https://doi.org/10.3386/w4423.
10. Ulku H. R&D, innovation, and economic growth: An empir-
ical analysis. International Monetary Fund Working Papers;
2004;WP/04/185:2-35;Available from: https://doi.org/10.5089/
9781451859447.001.
11. Pradhan RP, ArvinMB, Hall JH, NairM. Innovation, financial de-
velopment andeconomicgrowth in Eurozone countries. Jour-
nal Applied Economics Letters. 2016;23(16):1141–1144. Avail-
able from: https://doi.org/10.1080/13504851.2016.1139668.
12. Bilbao-Osorio B, Rodríguez-Pose A. From R&D to innovation
and economic growth in the EU. A Journal of Urban and
Regional Policy. 2004;35(4):434–455. Available from: https:
//doi.org/10.1111/j.1468-2257.2004.00256.x.
13. Liu C, XiaG. Researchon thedynamic interrelationship among
R&D investment, technological innovation, and economic
growth in China. Sustainability. 2018;10. Available from:
https://doi.org/10.3390/su10114260.
14. Zhou G, Lou S. Higher education input, technological in-
novation, and economic growth in China. Sustainabil-
ity. 2018;p. 10. Available from: https://doi.org/10.3390/
su10082615.
15. Nguyen MP. Impact of the intellectual property system on
economic growth. In World Intellectual Property Organisa-
tion, Intellectual Property in Asian Countries: Studies on in-
frastructure and economic impact. 2010;p. 111–126. Avail-
able from: https://www.wipo.int/publications/en/details.jsp?
id=195&plang=EN.
16. Lan TTT. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy
kinh tế của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. 2019;Available from:
doi-moi-tu-duy-kinh-te-cua-dang-ve-xay-dung-nen-kinh-
te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-58999.htm.
17. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc VI. Hà Nội: Nhà xuất bản
Sự thật. 1987;.
18. Global Innovation Index. Creating healthy lives - the future
of medical innovation. 2019;Available from: https://www.
globalinnovationindex.org/Home.
19. Therrien P, Doloreux D, Chamberlin T. Innovation novelty and
(commercial) performance in the service sector: A Canadian
firm-level analysis. Technovation. 2011;31(12):655–665. Avail-
able from: https://doi.org/10.1016/j.technovation.2011.07.007.
20. Calantone RJ, Vickery SK, DrogeC. Busisness performance and
strategic new product development activities: An empirical
investigation. The journal of product innovation manage-
ment. 1995;12(3):214–223. Available from: https://doi.org/10.
1111/1540-5885.1230214.
21. Damanpour F. Organizational complexity and innovation: De-
veloping and testing multiple contingency models. Man-
agement Science. 1996;42(5):693–716. Available from: https:
//doi.org/10.1287/mnsc.42.5.693.
22. OECD. Oslo Manual: Proposed guidelines for collecting and
interpreting technological innovation data. Paris. 2005;.
23. Edquist C. Systems of Innovation: Technologies, Institutions,
and Organizations. London: Pinter Publishers. 1997;.
24. Smith K. Measuring Innovation. In Fagerberg J, Mowery DC,
Nelson RR, editors. The Oxford Handbook of Innovation. Ox-
ford University Press. 2004;.
25. Griliches Z. Patent statistics as economic indicators: A surver.
Journal of Economic Literature. 1990;28(4):1661–1707. Avail-
able from: https://doi.org/10.3386/w3301.
26. Kleinknecht A, Montfort KV, Brouwer E. The non-trivial choice
between innovation indicators. Economics of Innovation and
New Technology. 2002;11(2):109–121. Available from: https:
//doi.org/10.1080/10438590210899.
27. Ang JB. Financial reforms, patent protection, and knowledge
accumulation in India. World Development. 2010;38(8):1070–
1081. Available from: https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2009.
12.011.
28. Benner T, Broekel TM. Marethodological issues in measuring
innovation performance of spatial units. Working Papers on
Innovation and Space No.01.09. Philipps-University Marburg,
Department of Geography, Marburg. 2009;.
29. Kortum S. EnquilibriumR&D and the patent-R&D ratio: U.S ev-
idence. American Economic Review. 1993;83(2):450–457.
30. Nafziger EW. From Seers to Sen: The meaning of economic
development. WIDER Research Paper. 2006;2006:20. Avail-
able from: https://www.econstor.eu/bitstream/10419/63321/1/
510834566.pdf.
31. LatimerA, Kulkarni K. Populationandeconomicdevelopment:
A comparative analysis of Brazil and Mexico. Being a Paper
Presentation. 2008;.
32. Blume LE, Durlauf SN. New Palgrave Dictionary of Eco-
nomics Empirics of Social Interaction. London: Palgrave
MacMillan. 2008;Available from: https://doi.org/10.1057/b.
9780631218234.2009.X.
33. Romer PM. Endogenous technological change. Journal of
Political Economy. 1990;98(5):71–102. Available from: https:
//doi.org/10.1086/261725.
34. Schumpeter JA. The theory of economic development. New
York: Oxford University Press. 1934;.
35. WIPO. WIPO IP Statistics Data Center. 2020;Available from:
https://www3.wipo.int/ipstats/index.htm.
36. World Bank. World Development Indicators. 2020;Available
from: https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP.
MKTP.KD.ZG/1ff4a498/Popular-Indicators.
37. Tee LT, Low SW, Kew SR. Financial development and inno-
vation activity: Evidence from selected East Asian countries.
Prague Economic Papers. 2014;2(2):162–180. Available from:
https://doi.org/10.18267/j.pep.478.
38. Meierrieks D. Financial development and innovation: Is there
evidence of a Schumpeterian Finance-Innovation nexus? An-
nals of Economics and Finance. 2014;15(2):343–363.
39. Pan X, Uddin MdK, Han C, Pan X. Dynamics of financial de-
velopment, trade openness, technological innovation and
energy intensity: Evidence from Bangladesh. Energy.
2019;171(C):456–464. Available from: https://doi.org/10.1016/
j.energy.2018.12.200.
40. Bertschek I. Product and process innovation as a response to
increasing imports and foreign direct investment. Journal
of Industrial Economics. 1995;43(4):341–357. Available from:
https://doi.org/10.2307/2950548.
41. Cheung K.-Y, Lin P. Spillover effects of FDI on innovation in
China: Evidence from the provincial data. China Economic
Review. 2004;15(1):25–44. Available from: https://doi.org/10.
1016/S1043-951X(03)00027-0.
42. Boumans M, Sent E.-M. A nobel prize for empirical macroeco-
nomics: Assessing the contributions of Thomas Sargent and
Christopher Sims. Reviewof Political Economy. 2013;25(1):39–
1078
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1069-1080
56. Available from: https://doi.org/10.1080/09538259.2013. 737122.
1079
Science & Technology Development Journal – Economics - Law and Management, 4(4):1069-1080
Open Access Full Text Article Research Article
Ha Minh Phuc Limited Company
Correspondence
Nguyen HoangMinh, Ha Minh Phuc
Limited Company
Email: minhnh19604@sdh.uel.edu.vn
History
Received: 25/06/2020
Accepted: 23/10/2020
Published: 08/11/2020
DOI :10.32508/stdjelm.v4i4.629
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Domestic innovation activities and economic development in
Vietnam
Nguyen HoangMinh*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
In 1986, it marked the renovation path, changingmechanisms and policies in all aspects, including
Vietnam's economy. Since then, Vietnam's economy has grown rapidly with the contribution of
the private sector, which was explained through Schumpeter's theory, and innovation was consid-
ered as the blood source for the nation's existence and development. The paper aims to explore
the relationship between domestic innovation activities and economic development in Vietnam
during 1988-2018. Data in the study were collected from the World Intellectual Property Organiza-
tion (WIPO), the World Bank (World Bank). This study used the Vector Autoregression Model (VAR)
to analyze the relationship between domestic innovation activities and economic development.
The research results show that Vietnam's domestic innovation activity is still limited, and has a two-
way relationship between domestic innovation activities and economic development in Vietnam.
Based on the research results, Vietnam needs to have an appropriate policy for economic devel-
opment, especially focusing on renovating mechanisms and policies to create conditions for the
private sector to strengthen its innovation to develop thereby contributing to Vietnam's economic
development.
Key words: Innovation, Development, Economic, Vietnam
Cite this article : Minh N H. Domestic innovation activities and economic development in Vietnam.
Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(4):1069-1080 .
1080
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoat_dong_doi_moi_trong_nuoc_va_phat_trien_kinh_te_tai_viet.pdf