4.5. Nâng cao năng lực cán bộ hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của
toàn dân, trong đó doanh nhân, doanh
nghiệp là lực lượng đi đầu. Vấn đề đặt ra là
chúng ta cần nỗ lực hoàn thiện, thực hiện
quyết liệt, hiệu quả và thực chất các cơ chế,
chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt
Nam tranh thủ tốt cơ hội, lợi ích của hội
nhập quốc tế. Việc xây dựng năng lực cho
đội ngũ cán bộ hội nhập theo hướng chuyên
nghiệp, bản lĩnh, có trình độ chuyên môn,
kỹ năng thời đại số trở nên rất cấp bách và
cần thiết. Mọi sự hợp tác, hỗ trợ của các
bạn bè quốc tế trong lĩnh vực nâng cao
năng lực đều được hoan nghênh.
4.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phân
tích, dự báo
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đang ngày càng gia tăng, những
biến động lớn trên thế giới cả về kinh tế,
chính trị sau khủng hoảng kinh tế tài chính
thế giới năm 2008 đã và đang tác động lớn
đến các quốc gia, khu vực, Việt Nam cần
đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu,
phân tích, dự báo chiến lược xu hướng thế
giới, cục diện và tác động của tình hình thế
giới đối với Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề
xuất việc điều chỉnh, bổ sung những nội
dung cần thiết để thực hiện thắng lợi đường
lối độc lập, tự chủ của Đảng, không ngừng
nâng cao vị thế và sức mạnh quốc gia, đưa
đất nước ta phát triển nhanh, bền vững
trong thời gian tới.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 465 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh cục diện kinh tế thế giới mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong bối cảnh cục diện kinh tế thế giới mới
Kim Ngọc1, Nguyễn Thị Phương Thanh2
1 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: kimngoc_vapec@yahoo.com
2 Đài Truyền hình Việt Nam.
Email: phuongthanh.vtv@gmail.com
Nhận ngày 28 tháng 3 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 5 tháng 5 năm 2019.
Tóm tắt: Hiện nay, cục diện kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến theo hướng phức tạp và khó dự
đoán hơn. Sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ thương mại, sự gia tăng căng thẳng thương mại giữa
Mỹ và Trung Quốc; quá trình Brexit để nước Anh rời Liên minh Châu Âu (EU) đang tạo ra sự
bất định chính sách ngày càng tăng, đe dọa nghiêm trọng tới tiến trình tự do hóa thương mại và hội
nhập kinh tế toàn cầu. Những sự kiện, diễn biến trên đang có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế,
chính trị thế giới và động thái chính sách của các nước, trong đó có Việt Nam. Do đó, đòi hỏi
Chính phủ Việt Nam cần phải sớm có những phân tích, dự báo và động thái chính sách để giảm
thiểu những tác động tiêu cực và chủ động có những giải pháp phù hợp trong giai đoạn hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay.
Từ khóa: Cục diện kinh tế thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam.
Phân loại ngành: Kinh tế học
Abstract: The world economy is currently undergoing many changes in the direction of getting
more complicated and unpredictable. The rise of trade protectionism, the increase in trade tensions
between the US and China, the Brexit, i.e. the process of the UK leaving the European Union
(EU)... have been creating increasing policy uncertainty, seriously threatening the process of trade
liberalisation and global economic integration. The events and developments are exerting great
impacts on the world economic and political situation and the policy moves of countries, including
Vietnam. Therefore, the Government of Vietnam needs to make analyses and forecasts and policy
moves soon to minimise the negative impacts, and proactively take appropriate measures in the
current period of broad and profound international economic integration.
Keywords: International economic situation, international economic integration, Vietnam.
Subject classification: Economics
Kim Ngọc, Nguyễn Thị Phương Thanh
23
1. Mở đầu
Cục diện kinh tế thế giới hiện nay đang làm
thay đổi nền tảng của kinh tế thế giới. Một
số quốc gia trước kia vốn đi đầu trong việc
ủng hộ tự do hóa thương mại nay lại trở
thành yếu tố ảnh hưởng tới sự ổn định của
hệ thống thương mại đa phương nói riêng
và của cả quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế trên toàn thế giới nói
chung. Đáng lưu ý là xung đột thương mại
giữa Mỹ với một số đối tác, đặc biệt với
Trung Quốc vẫn tiếp tục có những diễn biến
khó lường. Những sự kiện, diễn biến trên
đang có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh
tế, chính trị thế giới và động thái chính sách
của các nước, trong đó có Việt Nam. Việt
Nam bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế
sâu rộng và toàn diện, đặt ra những yêu cầu
hoàn toàn mới đối với các cơ quan, địa
phương và doanh nghiệp. Do đó, vấn đề cần
thiết là nhận thức đầy đủ hơn những điểm
mới của hội nhập kinh tế quốc tế, xác định
các giải pháp để tham gia, đóng góp đối với
tiến trình này, nhằm nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế và hạn chế thách thức,
thiết thực phục vụ đổi mới đồng bộ và toàn
diện, phát triển bền vững. Bài viết này phân
tích những thành tựu, hạn chế trong hội
nhập kinh tế quốc của Việt Nam trong bối
cảnh cục diện kinh tế thế giới mới; nêu giải
pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế.
2. Thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đã đạt được một số
thành tựu nhất định, đóng góp chung vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2018
ước đạt 475 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt
239 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2017.
Hàng hóa Việt Nam đã tiếp tục khai thác
các thị trường truyền thống và mở rộng tìm
kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới.
Đặc biệt, xuất khẩu sang thị trường các
nước có hiệp định thương mại tự do (FTA)
với Việt Nam đều có tốc độ tăng cao so với
năm 2017. Tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các thị
trường đã ký kết FTA đạt khoảng 40%, tăng
mạnh so với con số khoảng 35% các năm
trước. Điều đó cho thấy, doanh nghiệp Việt
Nam đang ngày càng chú trọng tới việc
khai thác các cơ hội từ hội nhập và thực thi
các FTA [12].
Sau hơn 30 năm thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), hiện cả nước có
khoảng 334 tỷ USD vốn đăng ký với hơn
26.600 dự án còn hiệu lực. Theo đó, khu
vực FDI đã ngày càng phát triển, trở thành
một trong những khu vực năng động nhất
của nền kinh tế. FDI đã đóng góp lớn trong
việc gia tăng năng lực sản xuất và xuất
khẩu của Việt Nam. Đến nay, khu vực FDI
chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước. Khu vực FDI đã góp phần tăng thu
ngân sách, tạo việc làm cho người dân, ổn
định tình hình xã hội. Riêng năm 2018, Việt
Nam đã thu hút 1.918 dự án cấp phép mới,
với số vốn đăng ký đạt hơn 13,481 tỷ USD,
tăng 18,1% về số dự án và 0,2% về vốn
đăng ký so với năm 2017.
FDI có vai trò quan trọng, trở thành
“điểm sáng” của nền kinh tế Việt Nam. FDI
đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Hiện FDI đã tạo ra trên 50% giá trị
sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành
một số ngành công nghiệp chủ lực như viễn
thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông
tin... Đây là nền tảng quan trọng cho tăng
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
24
trưởng dài hạn cũng như thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù xu hướng bảo hộ thương mại nổi
lên ở nhiều nơi trên thế giới, kim ngạch vốn
đầu tư, du lịch từ các đối tác chủ chốt năm
sau vẫn tăng hơn năm trước. Các đối tác đã
cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam
trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Lượng
khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt mức
kỷ lục, hơn 13 triệu người năm 2018.
Ngày 12/11/2018, đánh dấu một bước
ngoặt lớn trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam khi Quốc hội đã
thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các
văn kiện có liên quan. Theo đó, CPTPP
chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ
ngày 14/1/2019. Tham gia Hiệp định này là
động lực giúp Việt Nam nâng cao nội lực,
đa dạng hóa thị trường để ứng phó với các
tác động của kinh tế thế giới đang diễn biến
phức tạp với chiều hướng bảo hộ thương
mại gia tăng của các nền kinh tế lớn. Tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam có
khả năng tăng thêm 1,32% tính đến năm
2035. Trong trường hợp đồng thời cắt giảm
thuế quan và tự do hóa dịch vụ, GDP có thể
tăng thêm 2,01%. Với mức độ cam kết của
các nước trong CPTPP, các mặt hàng xuất
khẩu có thế mạnh của Việt Nam như nông,
thủy sản, điện, điện tử đều được xóa bỏ
thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Tổng
giá trị xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng
thêm 4,04% và nhập khẩu tăng thêm 3,8%
vào năm 2035; tổng số việc làm tăng thêm
hàng năm từ 20.000 lao động đến 26.000
lao động [12]. Bên cạnh đó, CPTPP sẽ giúp
Việt Nam có cơ hội cơ cấu lại thị trường
xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn,
từ đó giúp nâng cao tính độc lập tự chủ của
nền kinh tế. Đồng thời, Việt Nam có điều
kiện tốt để thu hút FDI của 10 thành viên
còn lại. Thông qua thành viên của Hiệp
định là các nước có nền kinh tế phát triển
cao, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, Việt
Nam sẽ học tập, trao đổi kinh nghiệm để
hoàn thành hệ thống pháp luật nước ta,
cũng như việc quản lý, điều hành nền kinh
tế thị trường. Đánh giá về cơ hội “vàng” mà
CPTPP mang lại, nhiều chuyên gia cho
rằng, việc tham gia Hiệp định là cơ hội lớn
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
cũng như vị thế của Việt Nam trong khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, là cầu nối
quan trọng đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng
kinh tế quốc tế. CPTPP còn là động lực
giúp doanh nghiệp Việt Nam tập trung đổi
mới phương thức sản xuất, nâng cao năng
lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng
hóa dịch vụ để bắt kịp xu hướng phát triển
của thế giới.
Bất chấp những khó khăn từ rào cản
thương mại, sự gia tăng bảo hộ của các nước
hay căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chinh phục
“đỉnh cao” mới. Từ năm 2016 đến nay, tăng
trưởng kinh tế luôn đạt cao hơn mức bình
quân của giai đoạn 2011-2015, các chỉ số
kinh tế vĩ mô đều tích cực, nhất là đầu tư
nước ngoài và xuất nhập khẩu. Năm 2018,
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,08%,
mức cao nhất trong vòng 10 năm và có khả
năng tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao
trên 7% vào năm 2019.
Năm 2018 cũng là năm thứ 3 liên tiếp
lạm phát được kiểm soát dưới 4%. Dự trữ
ngoại hối nhà nước đạt kỷ lục trên 60 tỷ
USD. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp
tục được cải thiện thông qua việc cắt giảm,
đơn giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và
60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng
Kim Ngọc, Nguyễn Thị Phương Thanh
25
hóa xuất nhập khẩu. Nhờ kinh tế - xã hội
phát triển ổn định, quy mô nền kinh tế tăng
mạnh, năm 2018 ước đạt trên 5,5 triệu tỷ
đồng. GDP bình quân đầu người ước đạt
2.540USD, tăng 440USD so với năm 2015.
Đến nay đã có 71 nước công nhận Việt
Nam là nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã
ký kết và thực thi 12 FTA, kết thúc đàm
phán 01 FTA, và đang đàm phán 03 FTA
khác. Trong 12 FTA đã ký kết và thực thi
có 07 FTA ký kết với tư cách là thành viên
ASEAN (gồm AFTA, 06 FTA giữa
ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Hồng Kông
và New Zealand); 05 FTA ký kết với tư
cách là một bên độc lập với Chile, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á - Âu
(EAEU), và CPTPP; 01 FTA đã kết thúc
đàm phán là FTA với Liên minh Châu Âu,
và 03 FTA đang được đàm phán bao gồm:
Hiệp định Đối tác kinh tế Toàn diện khu
vực (RCEP), FTA với Israel và FTA với
Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA).
Hội nhập kinh tế tiếp tục tạo thêm nguồn
lực cho phát triển kinh tế nước ta. Đồng
thời, góp phần quan trọng nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế, đưa quan
hệ của Việt Nam với các nước, nhất là đối
tác ưu tiên, quan trọng đi vào chiều sâu, ổn
định, bền vững; quan hệ với các nước lớn
tiếp tục được củng cố và thúc đẩy hài hòa,
tranh thủ được các yếu tố tích cực, hạn
chế được những bất đồng để phục vụ nhiệm
vụ xây dựng và phát triển đất nước, nâng
cao vị thế của quốc gia. Đến nay, Việt Nam
đã thiết lập đối tác chiến lược với 16 quốc
gia, đối tác toàn diện với 14 quốc gia và
quan hệ chiến lược đặc biệt với Lào và
Campuchia. Các mối quan hệ đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện tiếp tục được thúc
đẩy phát triển, phát huy được các mặt tích
cực. Việt Nam đã đẩy mạnh và làm sâu sắc
hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối
tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự
phát triển, an ninh của đất nước. Cụ thể hóa
và đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào chiều
sâu, thực chất, tạo sự đan xen, gắn kết giữa
lợi ích của Việt Nam với các nước. Trong
30 quốc gia đối tác chiến lược, đối tác toàn
diện, có 8/10 thị trường xuất khẩu chính của
Việt Nam, chiếm 60,7% tổng giá trị xuất
khẩu; 9/10 thị trường nhập khẩu chính,
chiếm 74,7% tổng giá trị nhập khẩu; 76,7%
tổng lượng du khách và 74% tổng vốn FDI
vào Việt Nam [8]. Đẩy mạnh hội nhập quốc
tế trên mọi mặt, chuyển từ “tham dự” sang
chủ động “tham gia”, tích cực đóng góp,
xây dựng, định hình các thể chế khu vực và
toàn cầu tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế,
góp phần tích cực vào phát triển kinh tế.
Trong đó nổi bật là Việt Nam đã tham gia
xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh,
đoàn kết, hợp tác và tự cường. Đặc biệt,
Việt Nam đảm nhiệm tốt vai trò nước chủ
nhà trong tổ chức các Hội nghị quốc tế,
trong đó Việt Nam đã tổ chức thành công
Năm APEC Việt Nam 2017, đã tranh thủ
tốt vị trí nước chủ nhà, khẳng định được vai
trò và khả năng của Việt Nam trong việc xử
lý những vấn đề quốc tế và khu vực; Hội
nghị WEF ASEAN 2018 tại Việt Nam được
đánh giá là hội nghị khu vực thành công nhất
trong lịch sử 27 năm của Diễn đàn Kinh tế
Thế giới; Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều
lần thứ 2 cùng nhiều sáng kiến hợp tác cụ
thể tại các diễn đàn đa phương cho thấy rõ
vai trò và vị thế ngày càng tăng của Việt
Nam trong khu vực và thế giới [8].
3. Hạn chế của hội nhập kinh tế quốc tế
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế -
xã hội năm 2018 do Thủ tướng Nguyễn
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
26
Xuân Phúc trình bày trước Quốc hội chỉ rõ:
công tác hội nhập trong nước còn yếu, chưa
khai thác có hiệu quả các lợi ích của hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, nổi bật là
các yếu kém [13].
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế đã
góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ bản
của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế và chất
lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện
về căn bản. Tăng trưởng thời gian qua phần
nhiều dựa vào các yếu tố như tín dụng, lao
động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng kể của
việc gia tăng năng suất lao động hay hàm
lượng tri thức, công nghệ.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư chưa cao như
mong muốn, chậm đổi mới chính sách liên
quan đến thu hút FDI. Việc thu hút các dự
án FDI tăng về số lượng, nhưng chất lượng
chưa đảm bảo, công nghệ chưa tốt, đặc biệt
công nghệ trong những lĩnh vực Việt Nam
cần đổi mới mô hình tăng trưởng. Ngân
hàng Thế giới (WB) nhận xét: “Vốn FDI
gắn kết với kinh tế trong nước còn kém, kết
nối trong nước chủ yếu ở các lĩnh vực có
giá trị gia tăng thấp: hầu hết đầu vào (70-
80%) đều phải nhập khẩu” [11]. Nhận xét
đó, dù rất đáng lưu tâm, nhưng chưa cho
thấy sự bành trướng của khu vực FDI trong
nền kinh tế Việt Nam
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế,
doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam
vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các
nước trong khu vực. Các ngành kinh tế, các
doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả
năng vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực
và thế giới chưa nhiều, một số sản phẩm đã
bắt đầu gặp khó khăn trong cạnh tranh, tốc
độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu có xu
hướng giảm.
Thứ tư, việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy đã
có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn
còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đôi khi
lúng túng trong việc xác định hướng đi. Các
thị trường bất động sản, tài chính, lao động,
khoa học - công nghệ tuy đã hình thành và
phát triển nhưng vẫn cần có sự cải thiện.
Thứ năm, đã xuất hiện các điểm “cổ
chai” về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân
lực... gây cản trở cho quá trình phát triển.
Trong đó, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng
là các nội dung đặc biệt quan trọng, cần lưu
tâm để có thể vượt qua thách thức, nắm bắt
cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, một số địa phương lúng túng
trong việc triển khai công tác hội nhập kinh
tế quốc tế. Vẫn tồn tại khoảng cách khá xa
về năng lực và thiếu sự gắn kết, hỗ trợ giữa
khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp
trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Công tác thông tin truyền thông về hội
nhập, năng lực giải quyết tranh chấp thương
mại, đầu tư quốc tế còn hạn chế; chưa tận
dụng được hết các cơ hội do các hiệp định
FTA mang lại.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế
4.1. Tăng cường công tác tư tưởng, nâng
cao nhận thức
Ngày 5/11/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 06-
NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới. Nghị quyết chỉ rõ [14]:
Thứ nhất, tăng cường công tác tư tưởng,
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên
Kim Ngọc, Nguyễn Thị Phương Thanh
27
và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh
tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói
chung; nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận
của cả xã hội, đặc biệt là của doanh nghiệp,
doanh nhân đối với các thỏa thuận quốc tế,
đặc biệt là cơ hội, thách thức và những yêu
cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền
phù hợp và hiệu quả cho từng ngành hàng,
hiệp hội, doanh nghiệp và cộng đồng; chú
trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Chủ
động, kịp thời phát hiện, đấu tranh với các
luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch; bảo
vệ đường lối, chủ trương của Đảng về xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật
và nâng cao năng lực thực thi pháp luật.
Khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện
luật pháp trực tiếp liên quan đến hội nhập
kinh tế quốc tế, phù hợp với Hiến pháp,
tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy luật của
kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế; nội luật hóa theo lộ trình
phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về
thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và
chuyển giao công nghệ, lao động - công
đoàn bảo đảm tranh thủ được thời cơ,
thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách
thức từ việc tham gia và thực hiện các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới; nâng cao
nhận thức và năng lực pháp lý, đặc biệt là
luật pháp quốc tế, thương mại quốc tế,
trước hết là của cán bộ chủ chốt các ngành
và chính quyền các cấp, doanh nghiệp, cán
bộ làm công tác tố tụng, đội ngũ luật sư và
những người trực tiếp làm công tác hội
nhập kinh tế quốc tế; hoàn thiện cơ chế,
chính sách thúc đẩy phát triển doanh
nghiệp, đặc biệt là hoàn thiện chính sách hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
cùng với khuyến khích khởi nghiệp, sáng
tạo. Tăng cường công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động mua bán-sáp nhập doanh
nghiệp Việt Nam, trên cơ sở phát huy nội
lực, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền
kinh tế, phù hợp với các cam kết quốc tế;
nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ
đạo quốc gia về hội nhập quốc tế và các ban
chỉ đạo liên ngành về hội nhập kinh tế quốc
tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị,
quốc phòng - an ninh, hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục,
khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác
nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh
Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu
rộng đang tạo sức ép cạnh tranh ngày càng
gay gắt trên cả ba cấp độ quốc gia, doanh
nghiệp và sản phẩm. Vấn đề lớn đặt ra là
làm sao thực hiện hiệu quả các FTA thế hệ
mới để tăng cường được nội lực, nâng cao
được năng suất, sức cạnh tranh của nền kinh
tế, nuôi dưỡng và phát triển được nhiều
“gien Việt” trong nền kinh tế. Mặt khác,
chúng ta cần tiếp tục nỗ lực củng cố ổn định
kinh tế vĩ mô, có năng lực thích nghi và điều
chỉnh linh hoạt trước những biến động kinh
tế thế giới và khu vực. Việc đẩy mạnh đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng
suất và năng lực cạnh tranh là tiền đề và là
giải pháp quyết định để nâng cao nội lực
nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức
của hội nhập quốc tế. Trong đó [14]: (1)
Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
28
trung ưu tiên đổi mới, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh tế
vĩ mô vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; bảo
đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; giữ
vững an ninh kinh tế; (2) Tiếp tục thực hiện
ba đột phá chiến lược; hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội đồng bộ, hiện đại; chú trọng phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển và hội nhập của đất nước. Ưu tiên
phát triển và chuyển giao khoa học - công
nghệ, nhất là khoa học - công nghệ hiện đại,
coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền
kinh tế; (3) Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các
ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước
và từng vùng, địa phương, doanh nghiệp với
tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết
chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế
với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực trọng tâm
trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới. Tập trung
ưu tiên cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư
công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ
cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các
tổ chức tín dụng; đổi mới, cơ cấu lại khu vực
sự nghiệp công lập; cơ cấu lại nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ Đồng thời, đổi
mới phương thức thực hiện liên kết, phối
hợp trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện
có hiệu quả quá trình đô thị hóa; (4) Xây
dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ và
tạo mọi điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát
triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về
số lượng, chất lượng ở hầu hết các ngành và
lĩnh vực kinh tế để khu vực kinh tế này thực
sự trở thành một động lực quan trọng trong
phát triển kinh tế, một lực lượng nòng cốt
trong hội nhập kinh tế quốc tế; (5) Thực hiện
đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp
phát triển nguồn nhân lực. Tập trung vào
việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo; đẩy nhanh phổ cập ngoại ngữ,
trọng tâm là tiếng Anh trong giáo dục các
cấp. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo
với doanh nghiệp; tăng cường ứng dụng
khoa học - công nghệ trong sản xuất kinh
doanh; (6) Giám sát thường xuyên, tăng
cường công tác dự báo về tăng trưởng xuất
khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, năng suất
lao động, xuất khẩu lao động, xác định cơ
cấu trong mỗi ngành kinh tế và toàn bộ nền
kinh tế để có cơ sở đánh giá hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế và kịp thời điều chỉnh
chính sách, biện pháp.
4.3. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế
Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn
dân tộc. Để giữ vững độc lập, tự chủ trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, tăng cường đa
dạng hóa và mở rộng quan hệ đối ngoại với
nhiều đối tác, thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế với các lộ trình linh hoạt theo nhiều
phương, nhiều tuyến, nhiều tầng là cách
thức để tạo ra một dải lựa chọn, khiến cho
Việt Nam không bị lệ thuộc vào bên ngoài.
Tăng cường sức mạnh quốc gia là yếu tố
then chốt để giảm sự “tùy thuộc bất đối
xứng” không có lợi cho Việt Nam. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia chính là sự kết
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
sức mạnh của nội lực kết hợp với sức mạnh
của ngoại lực, sức mạnh tổng hợp của kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Khi giải
quyết các vấn đề toàn cầu, cần phải tăng
cường sức mạnh mềm3 của đất nước để các
Kim Ngọc, Nguyễn Thị Phương Thanh
29
chính sách quốc gia có được sự ủng hộ và
giúp đỡ cao của cộng đồng quốc tế.
Chiến lược thu hút FDI trong giai đoạn
mới cần hạn chế được tối đa các tiềm ẩn bất
lợi đối với độc lập kinh tế, bảo đảm an ninh
trật tự xã hội, quốc phòng của đất nước từ
góc độ kinh tế, địa - chính trị. Theo WB,
Việt Nam đã thu hút “thành công” vốn FDI
ở mức rất cao. Tỷ lệ vốn FDI trên GDP ở
mức 6,1%, cao hơn rất nhiều so với 0,4%
của Thái Lan, 1,2% của Trung Quốc, 2%
của Ấn Độ, và 2,6% của Philippines. Tuy
vậy, khi đất đai, tài nguyên, nguồn lực có
hạn mà khu vực FDI nở rộ sẽ chiếm mất cơ
hội, không gian của các khu vực kinh tế
khác. Nhiều chuyên gia từng rất lo lắng, vì
sao khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt
Nam không thể lớn lên nổi. Trong hơn 20
năm nay, khu vực này chỉ chiếm khoảng 8-
9% GDP của Việt Nam. Liệu có phải do họ
bị chèn ép, bị phân biệt đối xử, bị hạn chế
các cơ hội tiếp cận đất đai khi địa phương
nào cũng “trải thảm đỏ” mời gọi vốn FDI?
Tại Hội nghị tổng kết 30 năm đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu
tư tổ chức tại Hà Nội ngày 4/10/2018, Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo các
bộ, ngành hoàn thiện khung pháp luật liên
quan đến đầu tư, trong đó có thực hiện chủ
trương hợp tác đầu tư nước ngoài có ưu
tiên, chọn lọc gắn với mục tiêu nâng tầm
trình độ nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế
tự chủ.
Xây dựng nền kinh tế tự chủ là điều rất
cần thiết và sống còn. Sự phát triển, hưng
thịnh của một quốc gia phải là do doanh
nghiệp dân tộc đảm nhiệm, thay vì phụ
thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài.
Vì thế, tại Hội nghị, Thủ tướng yêu cầu
các bộ, ngành, chính quyền địa phương
khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong
nước liên doanh, liên kết, góp vốn, mua cổ
phần, phần vốn góp của doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài trong các dự án sử dụng
công nghệ cao, công nghệ mới, công
nghiệp hỗ trợ... Từ tư duy thụ động, bị nhà
đầu tư nước ngoài vào “mua”, nay chuyển
sang các doanh nghiệp trong nước có thể
chủ động “mua” lại các doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam để tiếp thu thị
trường, kênh phân phối, làm chủ công
nghệ, quản lý và phát triển các sản phẩm
quốc gia.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
điều kiện cơ bản để Việt Nam thực hiện
mục tiêu xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
4.4. Đổi mới sáng tạo công nghệ
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ
4.0 hiện nay, Việt Nam cần thúc đẩy mạnh
mẽ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
định vị đất nước ở vị trí cao hơn trong
chuỗi giá trị toàn cầu và thu hẹp khoảng
cách phát triển với các nước. Đây chính là
những nhân tố thuận lợi để Việt Nam tiếp
tục đẩy mạnh cải cách, đổi mới mô hình
tăng trưởng, hoàn thành Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 2016-2020 nhằm tạo nền
tảng vững chắc cho hội nhập và phát triển
nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn sau
2020. Điều quan trọng đối với Việt Nam
hiện nay là tìm kiếm động lực mới cho phát
triển gắn với cuộc Cách mạng công nghệ
4.0 và lợi thế của đất nước như công nghệ
thông tin, nông nghiệp công nghệ cao, đô
thị thông minh, các ngành dịch vụ được
phát triển từ cuộc Cách mạng công nghệ 4.0
(thương mại điện tử, chuỗi cung ứng và vận
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
30
tải thông minh, công nghệ tài chính), y
tế, du lịch chất lượng cao. Phát triển những
lĩnh vực này không chỉ tạo nhiều việc làm
mới, mà còn tạo nhu cầu và thị trường cho
đổi mới, sáng tạo công nghệ [9]. Phát biểu
tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ 2 do
Ban Kinh tế Trung ương tổ chức tại Hà
Nội, tháng 1/2018, Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc cho rằng: tăng trưởng và phát
triển là một cuộc đua marathon đường
trường chứ không phải là một cuộc chạy
đua nước rút. Trong thời gian tới, Việt Nam
cần kiên trì theo đuổi mô hình tăng trưởng
mới dựa trên nền tảng là năng suất và đổi
mới sáng tạo. Với những nước đang trong
giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hóa
như Việt Nam thì giải pháp nhanh chóng và
hiệu quả nhất để tăng nhanh năng suất lao
động là thu hút vốn FDI vào các hoạt động
dịch vụ, sản xuất công nghiệp và nông
nghiệp có giá trị cao hơn. Đồng thời, kết
nối những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nước với các tập đoàn đa quốc gia thông
qua trao đổi thông tin, cải tiến kỹ năng và
chuyển giao công nghệ. Chúng ta cần có
những chiến lược mới, định hướng mới
trong việc thu hút FDI để khu vực này đóng
vai trò quan trọng hơn trong việc chuyển
giao, nắm bắt công nghệ, tăng năng suất lao
động cho nền kinh tế, nhằm góp phần đạt
mục tiêu tăng năng suất lao động bình quân
5,5%/năm; có 30-35% doanh nghiệp có
hoạt động đổi mới sáng tạo giai đoạn 2016-
2020 [6].
4.5. Nâng cao năng lực cán bộ hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của
toàn dân, trong đó doanh nhân, doanh
nghiệp là lực lượng đi đầu. Vấn đề đặt ra là
chúng ta cần nỗ lực hoàn thiện, thực hiện
quyết liệt, hiệu quả và thực chất các cơ chế,
chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt
Nam tranh thủ tốt cơ hội, lợi ích của hội
nhập quốc tế. Việc xây dựng năng lực cho
đội ngũ cán bộ hội nhập theo hướng chuyên
nghiệp, bản lĩnh, có trình độ chuyên môn,
kỹ năng thời đại số trở nên rất cấp bách và
cần thiết. Mọi sự hợp tác, hỗ trợ của các
bạn bè quốc tế trong lĩnh vực nâng cao
năng lực đều được hoan nghênh.
4.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phân
tích, dự báo
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đang ngày càng gia tăng, những
biến động lớn trên thế giới cả về kinh tế,
chính trị sau khủng hoảng kinh tế tài chính
thế giới năm 2008 đã và đang tác động lớn
đến các quốc gia, khu vực, Việt Nam cần
đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu,
phân tích, dự báo chiến lược xu hướng thế
giới, cục diện và tác động của tình hình thế
giới đối với Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề
xuất việc điều chỉnh, bổ sung những nội
dung cần thiết để thực hiện thắng lợi đường
lối độc lập, tự chủ của Đảng, không ngừng
nâng cao vị thế và sức mạnh quốc gia, đưa
đất nước ta phát triển nhanh, bền vững
trong thời gian tới.
5. Kết luận
Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng, do đó, những biến động trong cục
diện kinh tế và chính trị thế giới hiện nay sẽ
có tác động lớn và ngay lập tức đối với tiến
trình hội nhập của đất nước. Để nâng cao
hơn nữa hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế,
vấn đề đặt ra là, Việt Nam cần thực hiện
Kim Ngọc, Nguyễn Thị Phương Thanh
31
đồng bộ các giải pháp trên, đặc biệt đẩy
mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao năng suất và năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Đây chính là tiền đề và là giải
pháp quyết định để nâng cao nội lực nhằm
tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của
hội nhập kinh tế quốc tế.
Chú thích
3 Sức mạnh mềm (Soft Power) là một khái niệm do
giáo sư người Mỹ Joseph Samuel Nye, Jr. ở Đại học
Harvard đưa ra lần đầu tiên năm 1990. Thuật ngữ
này hiện được các nhà phân tích và chính trị gia sử
dụng rộng rãi trên khắp thế giới. Theo giáo sư
Joseph Nye, sức mạnh mềm là dùng khả năng giành
được những thứ mình muốn thông qua việc gây ảnh
hưởng để khiến người khác làm theo những gì mình
muốn. Ngược lại với sức mạnh mềm lực mềm, là
sức mạnh cứng, theo đó quyền lực được thực hiện
chủ yếu bằng cách đe dọa (như sa thải, kỷ luật) và
mua chuộc (như tăng lương, thăng cấp), còn quyền
lực mềm thì đạt được những gì mình muốn bằng
cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác,
làm thay đổi cách suy nghĩ của người khác, và qua
đó khiến người khác mong muốn chính điều mà
mình mong muốn. Đó là quyền lực mềm, thực hiện
thông qua sự hấp dẫn và thuyết phục. Đối với một
quốc gia, quyền lực mềm được tạo dựng trên 3 yếu
tố: văn hóa quốc gia, giá trị quốc gia và chính sách
của quốc gia đó.
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Đỗ Sơn Hải (2014), “Hội nhập quốc tế của
Việt Nam: Từ lý thuyết đến thực tiễn”, Tạp chí
Cộng sản, số 855.
[3] Võ Đại Lược (2018), “Việt Nam trong cục
diện kinh tế thế giới”, Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 4.
[4] Phạm Bình Minh (2014), “Xây dựng quan hệ
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, nguồn sức
mạnh mềm của Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản,
số 855.
[5] Kim Ngọc (2015), “Quan hệ giữa độc lập, tự
chủ và hội nhâp kinh tế quốc tế trong đổi mới”,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8.
[6] Kim Ngọc (2018), “Rào cản tăng năng suất lao
động Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 9.
[7] Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2003), Một
số xu hướng phát triển hiện nay của nền kinh
tế thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[8] Đoàn Trần (2019), “Bước chuyển biến lớn về
hội nhập. Chuyển từ tham dự sang chủ động
tham gia”, Thời báo kinh tế Việt Nam, số
94+95, ngày 19-20.
[9]
trong-tinh-trang-binh-thuong-moi-82830.html
[10]
nhap-kinh-te-quoc-te-76145.html)
[11]
m/khi-thu-tuong-yeu-cau-xay-dung-nen-kinh-
te-tu-chu-482451.html)
[12] https://vov.vn/kinh-te/viet-nam-tiep-tuc-day-
manh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-846949.vov
[13] https://www.thesaigontimes.vn/155198/Viet-
Nam-da-va-dang-tham-gia-16-FTA.html
[14] https://dantri.com.vn/chinh-tri/toan-van-nghi-
quyet-trung-uong-ve-hoi-nhap-kinh-te-quoc-
te-hieu-qua-20161106200645365.htm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoi_nhap_kinh_te_quoc_te_cua_viet_nam_trong_boi_canh_cuc_die.pdf