Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU1 I. KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ I1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế 3 1 Toàn cầu hoá3 2 Hội nhập quốc tế3 3 Thực chất về toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế4 4 Bảo đảm được độc lập tự chủ trong hội nhập là có tính nguyên tắc và xuất phát5 từ yêu cầu của thực tiễn I2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam5 1.Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những cơ hội5 2.Những cơ hội của Việt Nam khi ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO 6 3. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức8 4. Những thách thức của Việt Nam khi ra nhập WTO 8 II. NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1. Các quan điểm về hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh9 2.Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong quá trình hội nhâp kinh tế quốc tế 12 3. Những giải pháp cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh14 3.1. Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước 14 3.2. Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế 15 3.3. Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh 16 4. Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người lao động 17 5. Tăng cường cải cách hành chính 18 KẾT LUẬN 20 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO21

doc21 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang phát triển các nước thường phải không chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này.  Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới. Thứ ba, Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm.  Thứ tư, Việt Nam sẽ có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.  Thứ năm, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới ... của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng ...  Sáu là, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm ...  Trên cùng của Biểu mẫu Dưới cùng của Biểu mẫu 2-1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức. - Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Nguồn tài chính được phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới . Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn và tất yếu rủi ro sẽ lớn hơn. - Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là các nước đang phát triển phải giảm dần thuế quan và bỏ hàng rào phi thuế quan, nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá dịch vụ nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. - Quá trình toàn cầu hoá phát triển đã làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu… Các nước càng yếu kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với các định chế quốc tế, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu… thì càng chịu tác động nặng nề hơn. - Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Trong quá trình hội nhập một số quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng mở rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển thì một số nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại, thu hút vốn đầu tư tất yếu sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau. - Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá là xu hướng hình thành thế độc quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế. - Quá trình toàn cầu hoá phát triển không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, các tổ chức khủng bố… Chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt động phá hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự hội nhập của đất nước vào quá trình toàn cầu hoá. Ngoài ra còn có những mặt tiêu cực khác nữa như sự chênh lệch về trình độ giữa nước giàu và nước nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các nền văn học…nghiêm Quá trình toàn cầuhoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho các nước những cơ hội thuận lợi lớn đồng thời cũng đứng trước những khó khăn thách thức trọng. Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp thì tác động của quá trình này sẽ bị hạn chế và ngược lại. 2-2 Những thách thức của Việt Nam khi ra nhập WTO Bên cạnh những cơ hội mà Việt Nam có được khi ra nhập WTO, Việt Nam đồng thời cũng phải đương đầu với các thách thức sau khi gia nhập tổ chức này. Bởi lẽ, so với thế giới, Việt Nam còn là một trong những nước nghèo với mức GDP đạt 372 USD / người / năm, hệ thống kinh tế chính sách-xã hội đang trong hoàn thiện quá trình, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý ... có sự chênh lệch lớn so với các nước phát triển.  Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải thực thi đầy đủ các cam kết của mình, đặc biệt là các cam kết trong một số lĩnh vực như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các Biện pháp đảm bảo thương mại công bằng, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tế, kiểm dịch động thực vật và hàng rào kỹ thuật thương mại ..., nên việc thực thi sẽ rất khó khăn. Điều này không chỉ yêu cầu Việt Nam phải thông qua các luật lệ, quy định phù hợp với WTO và nền kinh tế thị trường, mà còn đổi hỏi tình hình thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu của WTO. Cụ thể, Việt Nam phải nâng cao đáng kể năng lực cho các cơ quan có liên quan cũng như thay đổi cơ bản về quản lý và tổ chức, đầu tư đáng kể cho nguồn nhân lực, hợp lý hóa công tác tổ chức thương mại và phân bổ ngân sách. Nếu không, sẽ phát sinh hai vấn đề: Thứ nhất, Việt Nam không thể thực hiện các nghĩa vụ WTO của mình và thứ hai là Việt Nam không thể tận dụng được hết các cơ hội khi gia nhập WTO, từ đó sẽ dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng, có thể gây tổn hại cho nền kinh tế. II. NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1. Các quan điểm về hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh Để hội nhập nền kinh tế quốc gia vào khu vực và thế giới thì việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam là thách thức vô cìng lớn đối với chúng ta. Nó đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần lưu tâm giải quyết để tạo ra những bước đột phá, phát huy tối đa nội lực, đảm bảo tính định hướng XHCN của nền kinh tế trên con đường hội nhập. Sau đây là sáu quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế xác định cho Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá. Một là, chủ động vạch ra chiến lược phát triển tổng thể vượt đuổi phù hợp với những mục tiêu cụ thể trong từng thời kì nhất định Như chúng ta đã biết, các nền kinh tế công nghiệp mới (Nies) Đông á nhờ xác định đựơc chiến lược vượt đuổi đầy táo bạo mà họ đã đạt được những kết quả vượt trội so với nhiều nước trong khu vực, vươn lên trở thành các “con rồng” với những chỉ tiêu kinh tế tăng liên tục trong nhiều năm, tạo nên những bước đi thần tốc trong qua trình hphát triển kinh tế đất nước. Trong từng giai đoạn cụ thể Nies đã xác định đựơc chiến lược đi tắt, đón đầu phù hợp nên đã có những thành công lớn trong phá triển nền kinh tế. Chẳng hạn, ở thời kì đầu khi còn thiếu vốn, kỹ thuật kém...họ đã tiến hành công nghiệp goá thay thế nhập khẩu, phát triển một số ngành công nghiệp, giải quyếnt những vấn đề xã hội bức xúc...và ở chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu, với mục tiêu khai thác lợi thế bên trong kà chủ yếu như lao động dồi dào, giá rẻ... nên họ chủ yếu tập trung vào công nghiệp nhẹ, dùng nhiều lao động ...đã đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể, tạo lực cho sự phát triển công nghiệp nặng. Để theo kịp xu thế phát triển thì họ lại tiến hành công nghiệp hoá hướng tới công nghệ cao và đã thu được những kết qủa đáng khả quan. Nhìn chung, chỉ có những nước xác định được những chiến lước táo bạo, với những mục tiêu phát triển đầy tham vọng mới có thể tạo ra được những bước phát triển thần kì, mà không phải nước nào cũng làm được với những chiến lược thông thường cũng mang lại thành công như vậy. Vì vậy trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam cần phải căn cứ vào điều kiện cụ thể để xác định chiến lược phát triển có lựa chọn, có trọng điểm. Đôí với Việt Nam hiện nay thì chiến lược tự do hoá thương mại, tự do hoá thị trường là con đường phù hợp hơn cả. Có như vậy, Việt Nam mới tiếp cận được những kỹ thuật công nghệ hiện đại của các nước, mở rộng thị trường giao lưu, tạo ra cầu nối thông thương với các nước trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm. Tuy vậy, Việt Nam cần lựa chon con đường riêng cho mình, để phấn đấu phát triển kinh tế xã hội, xác định mục tiêu thiết lập được một nền kinh tế cạnh tranh công bằng và hiệu quả. Hai là, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải dựa trên quan điểm khuyến khích và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Chúng ta biết rằng, cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường, không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân thủ những quy luật khách quan riêng có của mình, trong đó quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực hay như A.Smith gọi là “bàn tay vô hinh” thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Nếu lợi nhuận thúc đẩy các cá nhân tiến hành sản xuấ kinh doanh một cách có hiệu quả nhất thì cạnh tranh lại bắt buộc và thôi thúc họ phải điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy, cạnh tranh là yếu tố cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế. Cạnh tranh là động lực kinh tế của sản xuất hàng hóa, bởi lẽ nó là con đường để thực hiện lợi ích của các chủ thể trong kinh doanh. Động lực này có tác dụng hai mặt, một mặt thúc đẩy kinh tế phát triển, mặt khác hạn chế có khi đi đến sự phá vỡ sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh chính là môi trường tồn tại và phát triển kinh tế thị trường, không có cạnh tranh sẽ không có tính năng động và sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Song xã hội dần sẽ chỉ chấp nhận hành vi cạnh tranh lành mạnh bằng các phương thức sản xuất và chu chuyển hành hoá một cách khoa học, hiệu quả chứ không thừa nhận các hành vi cạnh tranh bằng cách dựa vào các thủ đoạn lừa đảo không trong sáng. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, thực hiện kinh tế mở, gắn nền kinh tế Việt Nam với khu vực và thế giới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VIII của Đảng đã xác định: “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”. Từ quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng, thì điều kiện cần và đủ để khuyến khích và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh là phải xây dựng hệ thống pháp luật nghiêm minh, luật lệ đưa ra phải có tính khả thi. Cần có sự điều tiết của Nhà nước để tạo điều kiện, môi trường cho cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. Cần có những quy định cụ thể về thủ tục khiếu kiện và thẩm quyền xử lý của một tổ chức tài phán trong phạm vi cả nước đối với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhằm giữ nghiêm kỷ cương phép nước, có như vậy mới tạo sự dung hợp giữa cạnh tranh và công bằng xã hội. Ba là, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của đất nước như: con người, truyền thống văn hoá dân tộc, sự ổn định chính trị- xã hội, vị trí địa lý chính trị và kinh tế, tài nguyên thiên nhiên... Việt Nam là nước được thiên nhiên ban tặng nhiều tài nguyên thiên nhiên rất thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế, cộng với nguồn nhân lực dồi dào với hơn 80 triệu dân và hơn 40 triệu lao động, cơ cấu dân số trẻ, cần cù lao động, giá nhân công rẻ. Hơn nữa từ sau đổi mới thì tình hình đất nước có sự ổn định về chính trị và kinh tế tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm bỏ vốn kinh doanh, mở rộng thị trường và mối quan hệ với các nước trên thế giới. Chính nhờ những lợi thế này mà sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế được nâng cao, những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ Việt Nam đã có mặt trên thị trường khu vực và quốc tế, đã có sức cạnh tranh về giá cả. Vì vậy, cần nhận thức rõ vị trí quan trọng của những lợi thế mà mình đang óc để có những giải pháp hữu hiệu giữ gìn và khai thác có hiệu quả. Đồng thời, cần nhận thức được thực chất của những lợi thế so sánh đó là phần lớn do thiên nhiên ban tặng nên nó không có độ bền vững lâu dài nếu chúng ta không có chiến lược phát triển quy hoạch, phát triên có kế hoạch.Chính vì vậy, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh vốn có thì cần phải có sự phát triển mới, tạo ra bươc đột phá thu hẹp khoảng cách, đuổi kịp các nước trong khu vực, vươn lên sánh vai với các nước trên thế giới. Đồng thời, đánh giá đúng tầm quan trọng của các nguồn lực để có biện pháp khai thác hợp lý có hiệu quả, muốn vậy nền kinh tế phat có đủ sức mạnh đáp ứng được mọi sự biếnđổi của thị trường bằng chính nội lực của mình là chủ yếu. Tóm lại phát huy nhứng lợi thế so sánh của đất nước là tiền đề quan trọng và cần thiết để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Vấn để quan tâm là cần nhận thức và đánh giá đúng mức các lợi thế so sánh. Trong các nguồn lực thì nguồn nhân lực được đào tạo có ý nghĩa lớn hơn cả, đào tạo con người là động lực trực tiếp của sự phát triển nền kinh tế. Cần không ngừng kết hợp sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, không ngừng tái tạo, bồi dưỡng tao ra các nguồn có lợi thế cho đất nước. Bốn là, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, định hướng XHCN trong sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta là một tất yếu khách quan, tức nhà nước ở đây có vai trò điều tiết nền kinh tế, bảo đảm ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất cho xã hội; bảo đảm công bằng xã hội trên cơ sở nền đại công nghiệp hiện đại; tạo ra bước chuyển mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế. Định hướng XHCN là sản phẩm tất yếu của quá trình tác động của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức của những người cộng sản đối với sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội loài người. Vì vậy, nhận thức rõ mặt phù hợp giữa kinh tế thị trường với định hướng XHCN. Bởi vì kinh tế thị trường là sản phẩm chung của nền kinh tế thế giới, phản ánh các nấc thang tiến hoá trong một giai đoạn cụ thể của nền kinh tế thế giới. Nó không phải là sản phẩm của một phương thức sản xuất mà sẽ tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Và kinh tế thị trường là sản phẩm của sự tác động biện chứng giữa quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, kinh tế thị trường và định hướng XHCN không thể đối lập nhau trong sự phát triển. Nhận thức được những mặt tích cực của kinh tế thị trường, để từ đó kế thừa chọn lọc, tiếp thu những nhân tố kích thích sự phát triển, đặc biệt là sự vận dụng mặt tích cực của các quy luật: giá trị, cung cầu, cạnh tranh...làm lợi cho nền kinh tế. Đồng thời, giữa KTTT và định hướng XHCN có những mặt đối lập, xuất phát từ bản chất của chúng, đó là về xu hướng vận động và mục tiêu phát triển của chúng. Cần nhận thức rõ mặt tiêu cực của KTTT để có chiến lược đề phòng, hạn chế những tác động xấu cho nền kinh tế. Trong điều kiện Việt Nam để đảm bảo tính định hướng XHCN thì cần tăng cường lực lượng kinh tế nhà nước; kinh tế nhà nước phải đủ sức mạnh, vươn lên đóng vai trò chủ đạo, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Và tiến hành đổi mới, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Năm là, nâng cao sức cạnh tranh phải quán triệt quan điểm đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng vẫn còn những mặt yếu kém chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển như: khả năng về vốn có hạn, nhu cầu việc làm rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế xã hội chưa thật ổn định vững chắc. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần phải tiếp tục kiên trì và mở rộng kinh tế đối ngoại là nhu cầu bức bách đối với chúng ta. Đại hội IX cũng đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá đa dạng hoá các quan hệ kinh tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Để quán triệt được quan điểm trên, chúng ta cần phải mở rộng thị trường xuất khẩu, đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu phải được đặc biệt chú trọng, đây là ngành mang lai nguồn thu ngoại tệ lớn, tạo nguồn vốn để tiến hành CNH-HĐH đất nước. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là xu hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh, giảm mạnh việc xuất khẩu hàng thô. Tăng khối lượng các mặt hàng đặc sản có giá trị. Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại có quan hệ gắn bó, tác động qua lại, bổ sung, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Do đó, để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam cần quán triệt quan điểm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Sáu là quán triệt quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội. Nền kinh tế muốn tăng trưởng và phát triển bền vững phải đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội cao. Nó được coi là tiêu chuẩn hàng đầu ở bất cứ ngành, lĩnh vực kinh tế nào trong nền kinh tế. Đặc biệt trong guồng máy của sự phát triển thì hai khía cạnh cần đựơc xem xét đánh giá đúng mức là: hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả kinh doanh thể hiện kết quả kinh doanh thông qua chỉ tiêu lãi hay lỗ, được xác định cả định tính lẫn định lượng. Còn hiệu quả kinh tế xã hội là kết quả mang lại cho đời sống xã hội, đối với một dịch vụ kinh doanh hoặc hoạt động của một doanh nghiệp hoặc đối với một hoạt động kinh tế đối ngoại nhất định. Nó thể hiện mức độ đóng góp vào thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước; chủ yếu được xác định về mặt định tính khó xác định về mặt định lượng. Do vậy, chúng ta cần nhận thức rõ tầm quan trọng của hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội; chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại bổ sung lẫn nhau trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cần có hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội, hướng dần khuyến khích các doanh nghiêpj chú trọng đến hiệu quả kinh tế trong kinh doanh, đây là điểm mấu chốt, quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp; có như vậy mới nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đổng thời, nhà nước phải hướng dẫn mọi hoạt động kinh tế thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh theo định hướng XHCN. 2.Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong quá trình hội nhâp kinh tế quốc tế     Hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Việc nhập khẩu các sản phẩm trung gian và thu hút đầu tư mà trong nước không thể cung cấp với giá tương ứng, việc chuyển giao công nghệ và các ý tưởng từ những nước phát triển hơn, và việc tiếp cận thị trường vốn và hàng hóa quốc tế có thể giúp chúng ta giải quyết một số hạn chế cố hữu để tăng trưởng và phát triển nhanh hơn. Nhưng đó là những lợi ích tiềm năng chỉ có thể phát huy đầy đủ tác dụng khi trong nước chúng ta có nội lực vững mạnh với những chính sách và thể chế bổ trợ. Kinh nghiệm của những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là phải kết hợp tốt giữa việc mở cửa tự do hóa với việc duy trì mức tiết kiệm - đầu tư cao, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhà nước tốt.     Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đã đề ra chín nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:     1. Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.     2. Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông... là những lĩnh vực quan trọng mà ta còn yếu kém.        3. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.     Tiến trình điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh. Gắn quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa IX về tiếp tục, sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.     Trong quá trình hội nhập cần quan tâm tranh thủ những tiến bộ mới của khoa học, công nghệ; không nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.     Đi đôi với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp, cần ra sức cải thiện môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc gia thông qua việc khẩn trương đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng, với thông lệ quốc tế, phát triển mạnh kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên môn.     4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản...; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.     5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.     Cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực, cần có chính sách thu hút, bảo vệ và sử dụng nhân tài; bố trí, sử dụng cán bộ đúng với ngành nghề được đào tạo và với sở trường năng lực từng người.     6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại . Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.     Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu.     7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập.     8. Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước.     9. Kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế. ủy ban gồm hai bộ phận: một bộ phận chuyên trách, một bộ phận kiêm nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của các Bộ, Ban, ngành hữu quan. 3. Những giải pháp cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh 3.1. Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước     Đổi mới bên trong và hội nhập là hai quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đổi mới bên trong tạo tiền đề và điều kiện thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Ngược lại, hội nhập một mặt đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh đổi mới, cải cách bên trong, mặt khác cũng tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình đổi mới đó. Để hội nhập đạt được kết quả tích cực, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới, cải cách thị trường theo những nội dung chủ yếu sau:     Thứ nhất, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ. Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước cả ở thành thị và nông thôn; mở rộng thêm thị trường mới ở nước ngoài; xác định thời hạn bảo hộ hợp lý và có điều kiện với một số sản phẩm quan trọng, tích cực chuẩn bị để hội nhập thị trường quốc tế; xóa bỏ độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Mở rộng thị trường lao động trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động; hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại và học nghề mới. Sớm tổ chức thị trường khoa học - công nghệ và bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ. Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là vốn dài hạn và trung hạn; vận hành thị trường chứng khoán an toàn và hiệu quả; hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ; tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Tổ chức, phát triển thị trường bất động sản; Nhà nước giao quyền sử dụng đất dài hạn cho người sản xuất, kinh doanh và cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường theo quy định của pháp luật.     Thứ hai, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ những vướng mắc cản trở sự phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế cần được đổi mới sâu rộng, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; định hướng phát triển kinh tế - xã hội; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô; điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.     Thứ ba, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cơ chế thị trường kết hợp với cơ chế kế hoạch, quy hoạch; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác thống kê; ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong công tác dự báo; kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Chi ngân sách nhà nước cần bảo đảm tính minh bạch, công bằng; gắn chi ngân sách với tốc độ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Nhà nước đầu tư vốn phát triển từ ngân sách nhà nước căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội thông qua các công ty đầu tư; chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang có chế cho vay theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư. Hệ thống thuế tiếp tục được cải cách phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế; từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt đầu tư trong nước và nước ngoài; hiện đại hóa công tác quản lý thuế. Cải tổ các ngân hàng thương mại quốc doanh thành những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có sức cạnh tranh; xóa bỏ sự can thiệp hành chính đối với các hoạt động cho vay của các ngân hàng này; mở rộng để tiến tới xóa bỏ quy định khung lãi suất, tự do hóa lãi suất đi đôi với việc hình thành thị trường tiền tệ hoạt động theo cung cầu; thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự do hóa tỷ giá hối đoái; nâng cao năng lực giám sát của Ngân hàng Nhà nước.     3.2. Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế     Về lâu dài, đầu tư và tích tụ vốn có ý nghĩa quyết định đối với đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với một nước có trình độ phát triển thấp, đầu tư tư nhân còn yếu và cơ cấu sản xuất chưa phát triển đa dạng như Việt Nam, theo kinh nghiệm quốc tế, mức đầu tư trong nước phải cao hơn mức tích lũy nội bộ 25% GDP của ta hiện nay. Mở cửa hội nhập có tác động thúc đẩy đầu tư, nhưng một mình nó không quyết định được mức đầu tư và tích tụ vốn. Do đó, cần phải bổ trợ cho định hướng hội nhập bằng một chiến lược đầu tư đồng bộ trong nước nhằm làm tăng hiệu suất đầu tư cho các doanh nghiệp, khơi dậy và phát huy ý thức tự chủ kinh doanh của họ. Các chính sách khuyến khích đầu tư cần ưu tiên cho việc xóa bỏ các biện pháp, chính sách có tác động làm tăng giá các tư liệu sản xuất, trong đó có các biện pháp hạn chế thương mại; tăng các biện pháp trợ cấp cho đầu tư sản xuất được áp dụng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử; đơn giản hóa chế độ khuyến khích đầu tư theo hướng làm rõ các mục tiêu, công khai hóa và giảm bớt thủ tục hành chính; chú ý hơn đến đầu tư sản xuất các ngành hàng phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; đa dạng hóa cơ cấu nền kinh tế; đầu tư nhà nước vào cơ sở hạ tầng, thủy lợi, cảng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất có tác dụng khuyến khích đầu tư tư nhân phát triển; kết hợp tốt giữa các biện pháp tăng cường xuất khẩu với thay thế nhập khẩu ở một số lĩnh vực nhất định.     Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cần phải dựa trên việc phát huy các thế mạnh, các lợi thế so sánh quốc tế của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước thì mới phát huy được hiệu quả và hỗ trợ cho tiến trình hội nhập. Việc xây dựng chương trình chuyển dịch cơ cấu đòi hỏi phải xác định được về cơ bản cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong 10-20 năm tới (bao gồm cả cơ cấu ngành, hàng và cơ cấu vùng), xác định được những ngành mũi nhọn, những ngành cần ưu tiên phát triển trong một thời gian nào đó, những ngành ta nên chuyên môn hóa... để làm cơ sở xây dựng các lộ trình mở cửa và các chính sách bảo hộ cụ thể theo phương châm có chọn lọc, hợp lý và có thời hạn. Ngược lại, sự chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động... với nước ngoài cũng sẽ tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Xây dựng chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải gắn với việc thành lập cơ chế rà soát và điều chỉnh các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn, các hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2010 và năm 2020 cho phù hợp hơn với các lợi thế so sánh tĩnh và động của ta nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam để cuối cùng xác định rõ các ngành, hàng, lĩnh vực nào sẽ mở, mặt hàng, lĩnh vực nào cần được bảo hộ và lịch trình của quá trình mở cửa đối với từng lĩnh vực, từng mặt hàng đó. Trước mắt, chính sách đầu tư và phát triển kinh tế cần phải khai thác mọi nguồn lực hiện có (lợi thế so sánh tĩnh), đặc biệt lao động dôi dư để đẩy mạnh xuất khâut và tạo thêm công ăn việc làm là một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị - xã hội. Về trung và dài hạn, sự chuyển dịch cơ cấu cần thuận chiều với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế thế giới, bám sát với tín hiệu của thị trường, phù hợp với nhu cầu không ngừng biến đổi của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Theo đó, chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nước phải làm cho tỷ trọng hàng thô hoặc sơ chế không ngừng giảm tương đối, sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo tăng mạnh, dịch vụ và sản phẩm của các ngành có công nghệ cao, hàm lượng chất xám nhiều chiếm vị trí ngày một tăng. Hơn nữa, biện pháp để thực hiện sự chuyển dịch này là phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng thiết bị vật tư nội địa chứ không thể trông chờ vào sự bảo hộ quá mức. 3.3. Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh     Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều này thể hiện ở các mặt sau: 1/ Chúng ta không thể hội nhập thực sự nếu cứ duy trì mãi cơ chế quản lý hành chính, bao cấp đối với các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, vì như vậy là vi phạm "luật chơi chung" quy định là không phân biệt đối xử, nhất là đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đối xử công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, và các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh; 2/ Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu không được tự chủ hạch toán kinh doanh và kinh doanh không có hiệu quả, bởi vì hiện nay trong số 5.429 doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi nhưng chỉ có 40% là có hiệu quả nếu tính thêm các yếu tố như thời gian kéo dài, lượng lỗ lãi, tỷ lệ khấu hao; 3/ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng khó có điều kiện để vươn lên dù làm ăn có hiệu quả vì bị phân biệt đối xử, đặc biệt trong vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vay tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh...     Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách toàn diện các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này, góp phần thực hiện chủ trương kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời tạo thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới. Theo đó, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo các hướng sau đây:     Thứ nhất, về số lượng doanh nghiệp, xây dựng lịch trình hằng năm giảm bớt số lượng doanh nghiệp, lĩnh vực và ngành/nghề hoạt động của các DNNN, trước mắt phấn đấu chỉ còn các doanh nghiệp công ích, các tổng công ty và các doanh nghiệp độc lập có ý nghĩa quan trọng. Các DNNN chỉ nên tập trung hoạt động trong các lĩnh vực, ngành/ nghề then chốt mà Nhà nước cần nắm hoặc tư nhân không có khả năng làm, như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một số ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và công nghiệp công nghệ cao.     Thứ hai, về hình thức sắp xếp, thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu ở các DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả; mở rộng việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực hiện việc bán, khoán, cho thuê các DNNN loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản các DNNN hoạt động không có hiệu quả.     Thứ ba , xúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính và bảo đảm sản xuất kinh doanh bình thường; nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các khoản vay ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung, dài hạn; nghiên cứu lại thời hạn cho vay trung, dài hạn phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án.     Thứ tư, xây dựng hệ thống chính sách để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước; từng bước tạo khung pháp lý bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tiến tới xây dựng một luật chung cho các loại hình doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như khi quyết định đầu tư, quyết định phương án kinh doanh, tự chủ về tài chính, tự quyết về nhân sự và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.     Thứ năm, về đầu tư cho DNNN, thẩm định, kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm ngặt việc thành lập mới các DNNN; thực hiện đầu tư cho DNNN thông qua công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và thông qua thị trường vốn; giảm dần sự ưu đãi, bao cấp và bảo hộ đối với các DNNN, đồng thời tạo điều kiện khuyến khích và bảo đảm cho khu vực tư nhân phát triển trong sự cạnh tranh lành mạnh và được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp quốc doanh;     Thứ sáu , bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là giám đốc; thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn quyền lợi, nghĩa vụ của giám đốc với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.     4. Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người lao động     Hội nhập là mở cửa tham gia vào quá trình toàn cầu hóa - cũng có nghĩa là quá trình cạnh tranh và phân công lao động quốc tế. Việc phá sản hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô sử dụng lao động của một bộ phận doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực, ngành nào đó kéo theo sự mất việc của một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp đó là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, bên cạnh việc có thể một hoặc một số ngành, nghề bị mất hoặc teo đi, sẽ có những ngành, nghề mới ra đời hoặc được tập trung phát triển hơn, thu hút lao động làm việc nhiều hơn trong các doanh nghiệp thuộc khu vực ngành, nghề này. Như vậy, trong xã hội ở những thời điểm nhất định có thể sẽ có tình trạng một bộ phận người lao động mất việc và phải tìm việc làm mới. Nhà nước cần chủ động có chính sách và biện pháp thích hợp giải quyết vấn đề này, tránh để nó trở thành một vấn đề có thể gây bùng nổ xã hội bằng việc hỗ trợ cho sự hình thành mạng lưới an sinh xã hội nhằm giải quyết các nhu cầu của những người không có khả năng tự lo cho mình và có các chương trình đầu tư xã hội để giúp mọi người được đào tạo những kỹ năng cần phải có trong một nền kinh tế hiện đại. Nhà nước cần sử dụng vai trò điều tiết phân phối lại thu nhập xã hội để hỗ trợ những người bị thất nghiệp (Qũy bảo hiểm xã hội, Qũy hỗ trợ thất nghiệp...) và có chính sách tái đào tạo nghề nghiệp giúp người lao động bị mất việc có thể chuyển sang nghề khác.     Cần bổ sung điều chỉnh và chi tiết hóa các quy định của Luật Lao động về các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm về hưu, bệnh tật, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, áp dụng cho các khu vực thành thị và các doanh nghiệp. Luật chỉ quy định những nguyên tắc chung, còn các biện pháp tổ chức thực hiện giao cho chính quyền các cấp xử lý. Về nguyên tắc, mỗi chế độ có một qũy riêng. Nguồn qũy gồm hai khoản do người sử dụng lao động đóng được chia thành hai tài khoản riêng gồm hai khoản trên và tài khoản chung chỉ do doanh nghiệp đóng góp để chi dùng chung trong những trường hợp đặc biệt. Chỉ khi nào mất cân đối thu - chi do các nguyên nhân bất khả kháng thì Nhà nước mới hỗ trợ từ ngân sách, còn bình thường thì doanh nghiệp và người lao động phải bảo đảm. Với cách làm này, Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động đều thấy rõ các khoản tiền của từng loại chủ thể, cơ bản khắc phục được tình trạng sử dụng sai mục đích, lẫn lộn giữa qũy của chế độ này sang qũy của chế độ khác, hoặc bị thất thoát. Vì mỗi cá nhân đều có tài khoản nên ngân hàng và bưu điện chịu trách nhiệm chi trả các khoản bảo hiểm xã hội, không cần đến một hệ thống chi trả đông người. Người lao động biết được mình có bao nhiêu tiền trong các tài khoản bảo hiểm xã hội, số tiền đó trước sau họ cũng được hưởng toàn bộ (nhất là tài khoản hưu trí) nên tự họ có sự điều chỉnh sử dụng thế nào cho có hiệu quả, do đó tránh được tình trạng đóng ít hưởng nhiều hoặc đóng nhiều mà không hưởng. Đồng thời, người lao động sẽ tích cực đóng góp hơn do họ biết là tiền trong tài khoản cá nhân thực chất là tiền tích cóp và còn được hưởng phần qũy chung. 5. Tăng cường cải cách hành chính     Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã phân tích sâu sắc nội dung vấn đề cải cách hành chính. Mặc dù công cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng vẫn còn một số tồn tại chủ yếu sau:     1. Thể chế hành chính vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của phát triển kinh tế, xây dựng nhà nước, mở cửa hội nhập và phục vụ nhân dân, thể hiện ở thể chế pháp luật không đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, trật tự kỷ cương bị vi phạm nghiêm trọng; cải cách thủ tục hành chính chưa được tiến hành thường xuyên, chậm tổng kết việc thực hiện "một cửa, một dấu", chậm công bố những văn bản pháp luật hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp; số vụ khiếu nại, tố cáo hành chính vẫn còn tồn đọng nhiều; những phiền hà, sách nhiễu trong thực thi công vụ chưa được khắc phục triệt để;     2. Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng lớp trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Đặc biệt, sự phân cấp thẩm quyền trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương chưa cụ thể, thiếu nhất quán, dẫn đến tranh chấp thẩm quyền, đùn đẩy trách nhiệm và thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các cấp;     3. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập. Đội ngũ đông nhưng không mạnh, không đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu; trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ quản lý kinh tế thị trường. Một bộ phận cán bộ thoái hóa, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, cơ hội trong thực thi công vụ. Chính sách đối với cán bộ, công chức, nhất là về tiền lương, còn nhiều bất hợp lý. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa bảo đảm, chậm đổi mới.     Những tồn tại trên trong cải cách hành chính đã làm tăng các chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, gây ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia. Để hỗ trợ cho quá trình hội nhập mang lại hiệu quả thiết thực, một trong những yêu cầu quan trọng cấp thiết hiện nay đối với nước ta là tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng: đẩy mạnh cải cách hành chính đồng bộ với đổi mới kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị và mở cửa hội nhập nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội và nhân dân tốt hơn. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số việc chính sau:     1. Thực hiện triệt để việc tách chức năng quản lý hành chính nhà nước (hành chính công quyền) với hoạt động sản xuất kinh doanh và sự nghiệp;     2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng và phát triển sản xuất, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo khung pháp lý phù hợp với luật lệ quốc tế, bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hiện thực, khách quan, quy trình xây dựng thể chế, pháp luật cần được đổi mới, tạo cơ chế phản biện, thẩm định hợp lý, nâng cao năng lực, thu hút đội ngũ cán bộ, chuyên gia, kể cả chuyên gia tư vấn nước ngoài vào xây dựng thể chế;     3. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cần được cải cách trên cơ sở phân công, phân cấp rõ ràng cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm; tinh giản, kiện toàn tổ chức theo mô hình quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực bao quát trong phạm vi cả nước đối với tất cả các thành phần kinh tế; cải tiến phương thức hoạt động, sự chỉ đạo của các cơ quan nhà nước để nâng cao chất lượng, hiệu quả và đáp ứng những biến động của cơ chế thị trường và những thách thức của quá trình hội nhập;     4. Xây dựng và hoàn chỉnh thể chế, hệ thống văn bản tiêu chuẩn nghiệp vụ, làm cơ sở pháp lý và khoa học cho việc xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức theo tinh thần của chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới. Công tác cán bộ, công chức cần được đổi mới từ khâu quy hoạch, thi tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý, đến xây dựng các chế độ chính sách. Chính sách tiền lương cần được cải cách theo hướng: trả tương xứng với nhiệm vụ, gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội; trả đúng là thực hiện đầu tư phát triển.     5. Cải cách tài chính công trên cơ sở phân cấp mới theo luật định, nguyên tắc công khai, minh bạch trong thu chi. KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế có rất nhiều mặt thuận lợi, nhưng cũng đề ra cho chúng ta nhiều thách thức.Để đứng vững trên đấu trường quốc tế,chúng ta phải có những đối sách phù hợp và thiết thực nhất. Việt Nam là một nước đang phát triển,mọi mặt đều còn non trẻ và yếu kém, cần phải từng bước tiến lên,tiến lên một cách vững vàng,đừng vì phấn đấu những mục tiêu trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài.Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của WTO,và nhiều tổ chức quốc tế khác,điều này đem đến cho Việt Nam nhiều lợi ích,nhưng cũng không ít thách thức được đề ra, đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách phù hợp nhất. Trên đây là những nhận định, phân tích và đánh giác của em về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam,mong rằng sẽ giúp ích được phần nào. Bài viết còn nhiều thiếu sót,mong thầy cô đưa ra ý kiến đóng góp. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiên Đại hội Đảng VII, VIII,IX. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Giáo trình kinh tế chín trị. Nhà xuất bản Quốc gia – 2002. Kiều Anh: Lợi thế cạnh tranh của những quốc gia. Tạp chí: Phát triển kinh tế- tháng 4/2002. Nguyễn Bá: Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam. Tạp chí: Kinh tế &Dự báo- số 7/2003. Chiến lược cạnh tranh thị trường quốc tế. Viện quản trị kinh tế Trung ương- 1995. Nguyễn Thanh Hồng Đức: Nhãn hiệu mạnh- lợi thế cạnh tranh của Doanh nghiệp ở thế kỷ XXI. Tạp chí: Nghiên cứu kinh tế- tháng 2/2003 Nguyễn Mạnh Hùng: Giảm chi phí để cạnh tranh. Tạp chí: Kinh tế & Dự báo- số 9/2002 TS. Trần Đức Hạnh: Vấn đề còna người trong bàI toán cạnh tranh. Tạp chí: Phát triển kinh tế- tháng 4/2002 ThS. Phan Ngọc Thảo: Giảm chi phí để nâng cao hiệu quả để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. TS.. Vũ Anh tuấn: Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Tạp chí: Phát triển kinh tế- tháng 12/2002 TS. Phạm Đăng Tuất: Bàn về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Tạp chí: Phát triển kinh tế. ThS. Nguyễn Hoàng Xanh: Nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế thế thế giới. Tạp chí: Phát triển kinh tế- tháng 4/2002 Đậu Ngọc Xuân:Về hội nhập kinh tế quốc tế. Tạp chí nghiên cứu kinh tế- tháng 8/2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doch7897i nh7853p kinh t7871 qu7889c t7871 v v7845n 2737873 nng.doc
Tài liệu liên quan