Kiến nghị, gợi ý cho Luật doanh
nghiệp năm 2014
- Kiến nghị về loại hợp đồng: Để
kiểm soát tốt các hợp đồng có giá trị lớn
nhằm giảm thiểu rủi ro phát sinh từ những
hợp đồng đó, Việt Nam nên tiếp cận theo
hướng của Anh, tức là điều chỉnh đối với
tất cả các loại hợp đồng, cứ đạt đến giá trị
nhất định thì sẽ coi là hợp đồng có giá trị
lớn và yêu cầu cần phải có sự chấp thuận
của chủ sở hữu công ty. Tất cả các điều luật
56, 75, 135, 149, 177 của Luật doanh nghiệp
năm 2014 cần phải được sửa đổi và tiếp cận
theo hướng điều chỉnh vấn đề hợp đồng có
giá trị lớn đối với tất cả các loại hợp đồng
từ mua bán tài sản đến hợp đồng vay, cho
vay, cho thuê Không nên giới hạn loại
hợp đồng vì suy cho cùng một hợp đồng
có giá trị lớn thì dù là hợp đồng mua bán,
cho thuê tài sản hay hợp đồng vay, cho vay,
hợp đồng bảo lãnh khi xảy ra rủi ro đều
gây thiệt hại cho công ty mà không phụ
thuộc vào loại hình hợp đồng.
- Kiến nghị về giá trị hợp đồng: Pháp
luật Anh đưa ra một cách xác định chung
cho hợp đồng có giá trị lớn đối với tất cả
các loại hình công ty trên cơ sở quy định
giá trị cụ thể của tài sản là đối tượng của
giao dịch trong hợp đồng. Đây cũng là
một cách tiếp cận rất hợp lý và có giá trị
thực thi cao trong thực tiễn hoạt động của
doanh nghiệp. Thiết nghĩ, Việt Nam nên
học hỏi, tiếp cận theo hướng quy định giá
trị cụ thể của hợp đồng hoặc giá trị tài sản
cụ thể của tài sản là đối tượng giao dịch
trong hợp đồng để kiểm soát đối với vấn
đề hợp đồng có giá trị lớn. Việc xác định
giá trị cụ thể là bao nhiêu phải dựa trên
các tính toán cụ thể thông qua việc khảo
sát giá trị của doanh nghiệp trên phạm vi
toàn quốc./.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp đồng có giá trị lớn theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, vương quốc Anh và một số gợi ý cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÊ CẢM
TRỊNH TIẾN VIỆT
NGUYỄN VĂN THỦY
VƯƠNG THỊ HÀ
NGUYỄN XUÂN PHONG
PHẠM XUÂN THẮNG
LÊ THỊ THU HẰNG
BÙI ĐỨC HẬU
PHẠM THỊ TRANG
Khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam
hiện hành và định hướng tiếp tục hoàn thiện trong
tương lai (Kỳ 2 và hết)
Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý trong pháp luật
hình sự Việt Nam trước thách thức Cách mạng
công nghiệp 4.0 (Kỳ 1)
Vấn đề miễn chấp hành hình phạt
Một số vướng mắc trong quyết định hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và giải pháp
hoàn thiện
Một số nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu
quả phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn Thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm, tỉnh Ninh Thuận
Quy định pháp luật về chức năng đại diện chủ sở
hữu toàn dân của Nhà nước đối với đất đai - Một
số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt vi
phạm hành chính trong quản lý ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện
Hợp đồng có giá trị lớn theo quy định của pháp
luật Hoa Kỳ, pháp luật của Vương quốc Anh và
một số gợi ý cho Việt Nam
MỤC LỤC Trang
Số 04 (31)
2019
3
9
20
30
36
41
50
58
61
LE CAM
TRINH TIEN VIET
NGUYEN VAN THUY
VUONG THI HA
NGUYEN XUAN PHONG
PHAM XUAN THANG
LE THI THU HANG
BUI DUC HAU
PHAM THI TRANG
Crime definition under Vietnamese criminal laws
currently and orientations to continously complete
in the future (Period 2 and end)
Continuing to innovate legal thinking in
Vietnamese criminal law before the challenge of
Industrial Revolution 4.0 (Period 1)
Some matters about penalty remisssion
Several obstacles insentence determination for
under 18-year-old person committing the crimes
and completing solutions
Some causes and solutions to improve the
prevention of property theft crime in Phan Rang-
Thap Cham city, Ninh Thuan province
Legal regulations on the State’s function in
representing the entire-people ownership for land
- Some obstacles and recommendations
Completing legal regulations on restricting
human rights and citizens rights according to the
Constitution in 2013
Some solutions to enhance efficiency of sanctioning
administrative violations in managing conditional
business lines
Great value contracts under the United States of
America and the United of Kingdom’s laws and
some suggestions for Vietnam
INDEX Page
No 04 (31)
2019
3
9
20
30
36
41
50
58
61
61Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
PHẠM THỊ TRANG
Trong số các hợp đồng mà công ty xác lập sẽ có những hợp đồng có giá trị lớn và cũng sẽ có những hợp
đồng có giá trị nhỏ. Đối với những hợp
đồng có giá trị lớn, việc nghiên cứu, tính
toán để ký kết và thực hiện những hợp
đồng ấy là rất quan trọng bởi chỉ cần một
rủi ro xảy ra với hợp đồng đó sẽ kéo theo
rất nhiều hệ luỵ mà trong một số trường
hợp, có thể dẫn đến cả sự đổ vỡ của công
ty. Cần phải có một cơ chế kiểm soát hết
sức chặt chẽ đối với những hợp đồng này.
Một hợp đồng nào sẽ được coi là một hợp
đồng có giá trị lớn đối với công ty? Tiêu
chí nào để quyết định đó là hợp đồng lớn
hay hợp đồng nhỏ đối với một công ty?...
là những câu hỏi cần phải được giải đáp
trước khi chúng ta tìm kiếm một cơ chế
kiểm soát đối với hợp đồng đó. Các công
ty trên thị trường tồn tại với nhiều quy mô
khác nhau, có công ty có hàng ngàn người
lao động với tổng số vốn hàng chục ngàn
tỷ đồng nhưng cũng có những công ty chỉ
có 2, 3 người lao động với quy mô vốn rất
nhỏ. Vì vậy, có thể một hợp đồng được coi
là lớn với công ty này nhưng có thể lại là
rất nhỏ so với một công ty khác. Thử lấy
một ví dụ đơn giản: với hợp đồng có giá trị
là 1 tỷ đồng, nếu hợp đồng đó được ký bởi
1 công ty có tổng giá trị tài sản là 5000 tỷ
đồng thì hợp đồng đó không thể coi là có
giá trị lớn. Tuy nhiên, cũng là hợp đồng có
giá trị 1 tỷ nhưng nếu hợp đồng đó được
ký bởi một công ty có tổng tài sản là 2 tỷ
thì rõ ràng hợp đồng 1 tỷ đó sẽ là một hợp
đồng có giá trị lớn đối với công ty.
1. Quy định của pháp luật Hoa Kỳ về
hợp đồng có giá trị lớn
1.1. Sơ lược về pháp luật Hoa Kỳ điều
chỉnh vấn đề hợp đồng có giá trị lớn
HỢP ĐỒNG CÓ GIÁ TRỊ LỚN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HOA KỲ, VƯƠNG QUỐC ANH VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHO VIỆT NAM
* Thạc sỹ, Trưởng khoa Pháp luật quốc tế - Trường
ĐH Kiểm sát Hà Nội
Trên cơ sở quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, bài viết tập
trung phân tích, chỉ rõ một số quy định về hợp đồng có giá trị lớn trong pháp
luật của Hoa kỳ và Vương quốc Anh. Từ đó, tác giả đưa ra một vài kiến nghị,
gợi ý cho pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Từ khóa: Hợp đồng có giá trị lớn, pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Vương
Quốc Anh.
Basing on legal regulations of the United States of America and the United of
Kingdom, the paper concentrates on analyzing their laws about great value contract,
then proposing several recommendations and suggestions for Vietnamese laws.
Keywords: Great value contract, laws of the United State of America, laws of
the United of Kingdom.
PHẠM THỊ TRANG*
62
HỢP ĐỒNG CÓ GIÁ TRỊ LỚN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HOA KỲ...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
Ở Hoa Kỳ, các doanh nghiệp kinh
doanh được tổ chức dưới 5 hình thức, bao
gồm: Sở hữu tư nhân, hợp danh chung,
hợp danh trách nhiệm hữu hạn, công
ty trách nhiệm hữu hạn và công ty kinh
doanh1 (công ty kinh doanh ở đây chính
là công ty cổ phần). Pháp luật điều chỉnh
hoạt động của các loại hình kinh doanh
này là luật của các tiểu bang. Điều đó có
nghĩa là Hoa Kỳ không thiết lập hệ thống
pháp luật công ty ở cấp độ liên bang.
Tuy không có hệ thống pháp luật công
ty chung cho toàn liên bang nhưng ở Hoa
Kỳ lại tồn tại các đạo luật thống nhất hoặc
đạo luật mẫu để điều chỉnh đối với từng
loại hình kinh doanh, bao gồm: Đạo luật
thống nhất về hợp danh chung (“Uniform
Partnership Act” viết tắt là UPA); Đạo luật
thống nhất về công ty hợp danh hữu hạn
(“Uniform Liability Partnership Act” viết
tắt là ULPA) và Luật mẫu về công ty kinh
doanh (“Model Business Corporation Act”
viết tắt là MBCA). Các luật này đều được
ban hành từ những năm đầu của thế kỷ 20
và đều được sửa đổi trong thời gian gần
đây (các luật sửa đổi được viết tắt lần lượt
là RUPA, RULPA và RMBCA). Các đạo
luật này đều được các bang của Hoa Kỳ áp
dụng trong việc xây dựng luật riêng của
các bang (trừ bang Delaware). Delaware có
một luật riêng về công ty kinh doanh viết
tắt là DGCL (Delaware General Corporation
Law). Có thể nói rằng đây là luật có vị trí
quan trọng thứ 2 sau MBCA được áp dụng
đối với mô hình công ty kinh doanh tại
Hoa Kỳ.
1 Alan B. Morrison, Những vấn đề cơ bản của luật
pháp Mỹ, NXB Chính trị quốc gia, 2007, tr.510.
1.2. Quy định của một số đạo luật của
Hoa Kỳ về hợp đồng có giá trị lớn
Trong những đạo luật kể trên, UPA và
ULPA không có quy định điều chỉnh về
vấn đề hợp đồng có giá trị lớn. Có lẽ điều
này được lý giải vì theo quy định của UPA,
ULPA thì hợp danh chung hay hợp danh
hữu hạn được thiết lập bởi sự liên kết của
các thành viên hợp danh, có thể có hoặc
không có thành viên góp vốn. Các thành
viên hợp danh sẽ là đại diện của hợp danh
và họ sẽ trực tiếp tham gia vào việc xác lập
hợp đồng nhân danh hợp danh. Và lẽ dĩ
nhiên, khi đã tự mình thực hiện giao dịch
thì việc thành hay bại của giao dịch đó bản
thân họ sẽ phải tự gánh chịu. UPA, ULPA
cũng qui định thành viên hợp danh cùng
nhau liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối
với mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của
hợp danh trong khi đó thành viên góp vốn
sẽ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm
vi số vốn được góp vào công ty.
MBCA quy định về vấn đề hợp đồng
có giá trị lớn tại Điều 12.02. Mặc dù MBCA
là luật mẫu và được hơn 30 bang của Hoa
Kỳ sử dụng để xây dựng luật công ty của
mình nhưng điều luật này hầu như không
được tiếp nhận và được các bang học hỏi.
Thay vào đó, hướng tiếp cận và giải quyết
vấn đề hợp đồng ccos giá trị lớn của bang
Delaware lại được các bang khác học hỏi.
Vì vậy, bài viết này sẽ tập trung vào phân
tích quy định của Luật công ty kinh doanh
của bang Delaware về vấn đề này.
Quy định của Luật công ty kinh doanh của
bang Delaware về hợp đồng có giá trị lớn
63Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
PHẠM THỊ TRANG
Luật công ty kinh doanh của bang
Delaware2, DGCL, cũng không đưa ra định
nghĩa hoặc đề cập đến khái niệm hợp đồng
có giá trị lớn. Khái niệm hợp đồng có giá
trị lớn được hiểu theo hướng là những hợp
đồng có liên quan đến tất cả hoặc phần lớn
tài sản của công ty. Điều 271 DGCL quy
định: việc bán, cho thuê hoặc trao đổi tất
cả tài sản hoặc phần lớn tài sản của công ty
mà Hội đồng quản trị (Luật công ty ở Hoa
Kỳ gọi là Boards of Directors. Trong bài
báo này dịch thuật ngữ này là Hội đồng
quản trị) cho rằng việc bán, cho thuê hoặc
trao đổi đó là có lợi và đem lại lợi nhuận
cao nhất cho công ty thì sẽ do Hội đồng
quản trị quyết định dựa trên một văn bản
chấp thuận của đa số cổ đông đối với công
ty cổ phần hoặc của đa số thành viên đối
với các công ty không phải là công ty cổ
phần3.
2 Delaware code, Title 8 Corporation
3 Delaware General Corporation Law, § 271
Sale, lease or exchange of assets; consideration;
procedure.
(a) Every corporation may at any meeting of its
board of directors or governing body sell, lease
or exchange all or substantially all of its property
and assets, including its goodwill and its corporate
franchises, upon such terms and conditions and for
such consideration, which may consist in whole
or in part of money or other property, including
shares of stock in, and/or other securities of, any
other corporation or corporations, as its board
of directors or governing body deems expedient
and for the best interests of the corporation, when
and as authorized by a resolution adopted by the
holders of a majority of the outstanding stock of
the corporation entitled to vote thereon or, if the
corporation is a nonstock corporation, by a major-
ity of the members having the right to vote for the
election of the members of the governing body and
any other members entitled to vote thereon under
the certificate of incorporation or the bylaws of
such corporation, at a meeting duly called upon at
Với quy định này, có thể thấy rằng
DGCL chỉ tiếp cận và điều chỉnh những
hợp đồng có giá trị lớn là hợp đồng bán,
cho thuê và trao đổi tài sản. Đối với những
loại hợp đồng khác, ví dụ như hợp đồng
mua tài sản thì Hội đồng quản trị sẽ được
tự quyết mà không cần phải có sự chấp
thuận của các cổ đông hay thành viên là
chủ sở hữu của công ty bất luận giá trị hợp
đồng là bao nhiêu. Việc giới hạn loại hợp
đồng chỉ đối với việc bán, cho thuê, trao
đổi tài sản công ty chứng tỏ luật công ty
Delaware đưa ra giới hạn để giúp các công
ty hướng tới việc kiểm soát những tài sản
sẽ rời khỏi công ty, sẽ không còn thuộc sở
hữu của công ty, mà sâu xa hơn cả là bảo
vệ cổ đông khỏi việc mất mát những tài
sản là phương tiện để họ đạt được mục
đích khi thành lập công ty, như Fletcher đã
viết: “Mục đích của điều luật là nhằm bảo vệ
cổ đông khỏi những thay đổi quan trọng, hoặc
đặc biệt hơn nữa là bảo vệ cổ đông khỏi việc mất
mát những tài sản là phương tiện để cổ đông
đạt được mục đích khi công ty thành lập hoặc
hoạt động”4.
Một vấn đề nữa cũng cần phải được
làm rõ trong khái niệm trên là: như thế nào
thì được coi tất cả tài sản hoặc phần lớn tài
sản của công ty. Bởi nếu bán, cho thuê, trao
đổi tất cả hoặc phần lớn tài sản của công
ty cần phải có sự đồng ý của chủ sở hữu
công ty thì hợp đồng mới hợp pháp. Nếu
tài sản đem bán, cho thuê, trao đổi không
phải là tất cả tài sản hoặc phần lớn tài sản
least 20 days’ notice. The notice of the meeting shall
state that such a resolution will be considered.
4 Fletcher, Cyclopedia Corporation, § 2949 Z at 648
(perm. ed, 1968)
64
HỢP ĐỒNG CÓ GIÁ TRỊ LỚN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HOA KỲ...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
của công ty thì khi đó chỉ cần quyết định
của Hội đồng quản trị công ty mà thôi.
Không có một sự giải thích thành văn
trong một văn bản luật hay một bản hướng
dẫn nào của bang Delaware để hiểu thế
nào là “tất cả tài sản” hoặc “phần lớn tài
sản” của công ty. Nội hàm của khái niệm
này được giải thích bằng các án lệ của Toà
án tối cao bang Delaware.
Các phán quyết của Toà án tối cao bang
Delaware đều tiếp cận theo hướng kết hợp
nhiều tiêu chí để xác định trường hợp nào
là tất cả tài sản hoặc phần lớn tài sản của
công ty? Qua xem xét một số vụ việc, có
thể kết luận như sau:
- Nếu tài sản đem bán, cho thuê, trao
đổi có giá trị nhỏ hơn 25% tổng giá trị tài
sản của công ty thì đó không được coi là
phần lớn tài sản của công ty và đó lại càng
không phải là tất cả tài sản của công ty;
- Nếu tài sản đem bán, cho thuê, trao
đổi có giá trị lớn hơn hoặc bằng 75% tổng
tài sản của công ty thì đó được coi là phần
lớn tài sản của công ty;
- Nếu tài sản đem bán, cho thuê, trao
đổi có giá trị từ 25% đến 75% giá trị tài sản
của công ty thì Toà án sẽ cân nhắc thêm
một số yếu tố khác nữa để quyết định đó
có phải là phần lớn tài sản của công ty hay
không. Và các yếu tố được Toà án xem xét,
cân nhắc sẽ là khác nhau tuỳ thuộc vào
từng vụ việc khác nhau5. Tuy nhiên, các
5 Andrew Moore II, The sale of all or substantial-
ly all corporate assets under section 271 of Del-
aware Code,
uploads/2014/07/THE-SALE-OF-ALL-OR-SUB-
STANTIALLY-ALL-CORPORATE-ASSETS-UN-
DER-SECTION-271-OF-THE-DELAWARE-
CODEpdf.pdf truy cập ngày 25/7/2019.
yếu tố hay được xem xét nhất liên quan
đến mục đích hoặc bản chất của việc kinh
doanh.
Trong vụ Gimbel v. Signal Companies, Inc.,
Gimbel, một cổ đông của công ty Signal đã khởi
kiện ra Toà án tối cao Delaware yêu cầu toà ngăn
chặn thương vụ công ty Signal bán một công ty
con của mình là Signal Gas & Oil Co. cho công ty
Burmah Oil Inc. với lập luận rằng khi công ty
Signal bán Signal Gas & Oil Co. là bán phần
lớn tài sản của công ty Signal (giá trị chuyển
nhượng Signal Gas & oil Co. là hơn 480 triệu đô
la Mỹ). Bởi vậy, theo quy định tại Điều 271 Luật
công ty Delaware, việc bán này phải được sự
chấp thuận của cổ đông công ty Signal. Trong
khi đó, trên thực tế, thương vụ mua bán này
chỉ do Hội đồng quản trị của công ty Signal
quyết định, không thông qua cổ đông công ty.
Toà án tối cao bang Delaware trong quá
trình giải quyết vụ án đã thấy rằng, căn cứ
theo sổ sách kế toán của Signal thì Signal
Gas & Oil Co. chiếm 26% tổng giá trị tài
sản của Signal, 41% giá trị tài sản ròng và
chiếm 15% tổng doanh thu của Signal.
Với các tỷ lệ nêu trên, Toà án tối cao
bang Delaware không đủ cơ sở để kết
luận việc bán Signal Gas & Oil Co. có
phải là bán phần lớn tài sản của công ty
Signal hay không? Để quyết định việc này,
Toà án tối cao Delaware buộc phải cân
nhắc đến một số yếu tố khác. Cuối cùng,
Toà đã kết luận rằng: Signal là một công
ty kinh doanh nhiều lĩnh vực và mặc dù
công ty khởi nghiệp bởi việc kinh doanh
dầu nhưng lĩnh vực dầu không còn là một
lĩnh vực kinh doanh duy nhất của công ty.
Việc bán đi Signal Gas & Oil Co. không có
65Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
PHẠM THỊ TRANG
nghĩa là công ty phải chấm dứt hoạt động
kinh doanh hoặc thay đổi bản chất của
việc kinh doanh. Vì thế, việc bán Signal
Gas & Oil Co. không phải là bán phần lớn
tài sản của công ty Signal. Bởi vậy, quyết
định này chỉ cần Hội đồng quản trị thông
qua mà không cần phải có sự chấp thuận
của cổ đông công ty6.
Rõ ràng, trong vụ kiện này, để xác định
hợp đồng bán Signal Gas & Oil Co. có phải
là hợp đồng có giá trị lớn hay không, Toà
án đã phải căn cứ vào ít nhất là 2 yếu tố: (1)
giá trị công ty đem bán, Signal Gas & Oil,
so với tổng giá trị tài sản của công ty Signal
và (2) việc bán công ty đó có làm thay đổi
bản chất công việc kinh doanh của Signal
hay không?
2. Quy định của pháp luật Vương
quốc Anh về hợp đồng có giá trị lớn
Cũng giống như luật công ty của một
số quốc gia, Luật công ty của Vương quốc
Anh không có định nghĩa hay quy định để
xác định hợp đồng nào là hợp đồng có giá
trị lớn mà chỉ quy định tài sản nào là tài sản
quan trọng và có giá trị lớn đối với công ty
và các hợp đồng có liên quan tới những tài
sản đó sẽ được hiểu là hợp đồng có giá trị
lớn của công ty. Theo đó, khoản 2 Điều 191
Luật công ty của Anh quy định:
Một tài sản được coi là có tài sản quan
trọng, có giá trị lớn đối với công ty nếu:
- Tài sản đó có giá trị lớn hơn 5.000
bảng Anh và chiếm tỷ lệ trên 10% giá trị tài
sản của công ty; hoặc
- Tài sản đó có giá trị lớn hơn 100.000
6 Stephen M. Bainbridge, Corporate Law, Founda-
tion Press, 2009, tr. 344, 345
bảng Anh7.
Giá trị tài sản của công ty ở đây được
hiểu là giá trị tài sản ròng của công ty
được xác định theo bản báo cáo kế toán
hợp lệ (bản báo cáo kế toán theo đúng
quy định pháp luật và đã được gửi cho cổ
đông/thành viên công ty trong thời gian
gần nhất). Trường hợp không có báo cáo
kế toán thì giá trị tài sản của công ty được
xác định theo tổng số vốn mà công ty đã
kêu gọi các cổ đông/thành viên góp vào
công ty8.
Với quy định này, có thể hiểu rằng, khi
công ty xác lập hợp đồng liên quan đến
những tài sản có giá trị lớn hoặc những
hợp đồng có giá trị tương đương với giá trị
như đã nêu ở trên thì hợp đồng đó sẽ được
coi là hợp đồng có giá trị lớn.
Cách tiếp cận theo mô hình luật công
ty của Anh có một ưu điểm rất nổi bật
là có tính khả thi cao bởi vì tất cả những
người quản lý công ty đều dễ dàng nhận
biết được hợp đồng nào là hợp đồng có
giá trị lớn, cụ thể: nếu hợp đồng có giá trị
trên 100.000 bảng thì đó là hợp đồng có giá
trị lớn. Trường hợp nếu hợp đồng có giá
trị từ 5000 bảng đến 100.000 bảng thì buộc
người quản lý công ty phải kiểm tra lại bản
báo cáo kế toán để xác định xem giá trị đó
có vượt quá 10% giá trị tài sản của công ty
7 Nguyên bản tiếng Anh: Section 191 Meaning of
“Substantial”
(2) An asset is a substantial asset in relation to a
company if its value –
(a) exceeds 10% of the company’s asset value and
is more than 5000, or
(b) exceeds 100,000.
8 Xem khoản 3, 4 Điều 191 Companies Act of
United Kingdom
66
HỢP ĐỒNG CÓ GIÁ TRỊ LỚN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HOA KỲ...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
không? Nếu vượt quá 10% giá trị tài sản
của công ty thì hợp đồng đó là hợp đồng
có giá trị lớn. Khi đã là hợp đồng có giá
trị lớn thì người quản lý sẽ hiểu rằng, hợp
đồng đó buộc phải có sự chấp thuận của
chủ sở hữu công ty.
Nghiên cứu, so sánh các quy định của
Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đối với hợp
đồng có giá trị lớn, có thể thấy một số
điểm sau:
Điểm chung giữa 2 hệ thống pháp luật
của 2 quốc gia là:
Thứ nhất, pháp luật Hoa Kỳ và pháp
luật của Vương quốc Anh đều tiếp cận hợp
đồng có giá trị lớn dựa trên việc xem xét
giá trị của tài sản là đối tượng giao dịch
trong quan hệ hợp đồng. Nếu tài sản đó
có giá trị lớn thì hợp đồng đó sẽ phải được
xem xét, chấp thuận của chủ sở hữu công
ty trước khi ký.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Hoa Kỳ và
Anh đều đưa ra 2 điểm mốc: tối thiểu và tối
đa để xác định một hợp đồng có giá trị lớn
(Hoa kỳ đưa ra mốc 25% và 75% tổng giá trị
tài sản, còn Anh đưa ra mốc 5000 bảng Anh
và 100.000 bảng Anh). Nếu vượt quá mức
tối đa sẽ là hợp đồng có giá trị lớn và nếu ở
dưới mức tối thiểu thì sẽ không phải là hợp
đồng có giá trị lớn. Trường hợp nếu ở giữa
khoảng tối đa và tối thiểu đó thì sẽ căn cứ
vào yếu tố khác để xác định đó có phải là
một hợp đồng có giá trị lớn hay không?
Điểm khác nhau trong cách tiếp cận
của Hoa Kỳ và Anh năm ở chỗ:
Một là, Hoa Kỳ chỉ đặt ra và điều chỉnh
đối với những hợp đồng bán, cho thuê,
trao đổi tài sản có giá trị lớn, trong khi Anh
điểu chỉnh đối với cả hợp đồng bán và mua
những loại tài sản đó.
Hai là, Hoa Kỳ xác định tài sản có giá
trị lớn dựa trên tỷ lệ giá trị của tài sản so
với tổng giá trị tài sản của công ty, trong
khi Anh đưa ra ngay con số cụ thể đối với
tài sản (5000 và 100000 bảng Anh). Hai
cách tiếp cận này đều có những điểm hợp
lý nhất định. Tuy nhiên, như đã trình bày
ở trên, có lẽ cách tiếp cận của Anh có giá trị
thực tiễn cao hơn, giúp cho các nhà quản
lý công ty dễ dàng nhận diện được hợp
đồng nào là hợp đồng có giá trị lớn từ đó
xác định hợp đồng có cần phải có sự phê
chuẩn của chủ sở hữu công ty để xác lập
hay không?
3. Kiến nghị cho pháp luật Việt Nam
về hợp đồng có giá trị lớn
3.1. Quy định của Luật doanh nghiệp
năm 2014 về hợp đồng có giá trị lớn
Hiện nay, Luật doanh nghiệp năm 2014
không đưa ra định nghĩa hay sử dụng thuật
ngữ “hợp đồng có giá trị lớn”. Tuy nhiên,
căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 56, điểm
e,g khoản 1 Điều 75, điểm d khoản 2 Điều
135, điểm h khoản 2 Điều 149, điểm e,g
khoản 3 Điều 177 của Luật doanh nghiệp
năm 2014 có thể thấy rằng các nhà làm luật
đã gián tiếp đề cập đến hợp đồng có giá trị
lớn và quy định về cơ chế thông qua hoặc
quyết định đối với những hợp đồng này.
Trả lời câu hỏi một hợp đồng có giá trị
như thế nào sẽ được coi là một hợp đồng
có giá trị lớn, pháp luật Việt Nam tiếp cận
việc quy định một hợp đồng có giá trị lớn
dựa trên tỷ lệ phần trăm giá trị của hợp
đồng trong so sánh với tổng giá trị tài sản
của doanh nghiệp hoặc vốn điều lệ của
doanh nghiệp, tuỳ theo từng loại hình
67Khoa học Kiểm sátSố 04 - 2019
PHẠM THỊ TRANG
công ty. Theo đó, Luật doanh nghiệp năm
2014 quy định như sau:
Thứ nhất, việc quy định một hợp đồng
được coi là hợp đồng có giá trị lớn hoàn
toàn dựa trên sự quyết định của bản thân
công ty. Công ty sẽ tự xác định tỷ lệ phần
trăm giá trị của hợp đồng trên tổng giá trị
tài sản của công ty hoặc vốn điều lệ của
công ty và ghi nhận trong điều lệ của mình.
Thứ hai, trường hợp nếu công ty không
xác định hợp đồng như thế nào sẽ được
coi là hợp đồng có giá trị lớn và không ghi
nhận trong điều lệ của mình thì việc xác
định một hợp đồng có giá trị lớn sẽ dựa
trên tỷ lệ giá trị của hợp đồng đã được quy
định trong Luật doanh nghiệp năm 2014.
Tỷ lệ này là khác biệt theo từng loại hình
công ty, cụ thể:
- Đối với công ty TNHH 2 thành viên
thì một hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản
sẽ được coi là có giá trị lớn khi giá trị của
hợp đồng đó lớn hơn hoặc bằng 50% tổng
giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài
chính tại thời điểm công bố gần nhất của
công ty9;
- Đối với công ty TNHH một thành
viên là tổ chức: một hợp đồng bán tài sản,
vay, cho vay hoặc hợp đồng khác sẽ được
coi là hợp đồng có giá trị lớn khi hợp đồng
đó có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng
giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài
chính gần nhất của công ty10;
- Đối với công ty cổ phần: một hợp
đồng được coi là hợp đồng có giá trị lớn
9 Điểm d Khoản 2 Điều 56 Luật doanh nghiệp
năm 2014
10 Điểm e, g Khoản 1 Điều 75 Luật doanh nghiệp
năm 2014
nếu hợp đồng đó có giá trị bằng hoặc lớn
hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong
báo cáo tài chính gần nhất của công ty11;
- Đối với công ty hợp danh: một hợp
đồng được coi là hợp đồng có giá trị lớn
được xác định dựa trên 02 yếu tố: (1) tỷ lệ
phần trăm giá trị hợp đồng so với vốn điều
lệ của công ty và (2) loại hợp đồng. Theo
đó, với hợp đồng vay, cho vay, huy động
vốn thì các hợp đồng loại này sẽ được coi
là hợp đồng có giá trị lớn nếu nó có giá trị
bằng hoặc lớn hơn 50% vốn điều lệ của
công ty. Trong khi đó, đối với hợp đồng
mua bán tài sản thì loại hợp đồng này sẽ
được coi là hợp đồng có giá trị lớn nếu nó
có giá trị bằng hoặc lớn hơn vốn điều lệ
của công ty.
Nhìn vào các quy định này có thể thấy
rằng Luật doanh nghiệp năm 2014 còn
bộc lộ một số hạn chế liên quan đến các
quy định về hợp đồng có giá trị lớn, cụ
thể như sau:
Về loại hợp đồng: các điều luật trên
không có sự thống nhất khi quy định về
loại hợp đồng có giá trị lớn cần phải điều
chỉnh, ví dụ: Điều 56 quy định về hợp đồng
có giá trị lớn chỉ đối với hợp đồng vay, cho
vay, bán tài sản trong khi Điều 75, Điều
135, 149 quy định hợp đồng có giá trị lớn
đối với tất cả các loại hợp đồng; Điều 177
lại điều chỉnh vấn đề hợp đồng có giá trị
lớn đối với hợp đồng vay, huy động vốn,
cho vay và mua bán tài sản.
Qua nghiên cứu pháp luật của Hoa Kỳ
và Anh có thể thấy rằng, về loại hợp đồng,
có 2 cách tiếp cận. Cách thứ nhất là các tiếp
11 Điểm d Khoản 2 Điều 135, Điểm h Khoản 2 Điều
149 Luật doanh nghiệp năm 2014
68
HỢP ĐỒNG CÓ GIÁ TRỊ LỚN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HOA KỲ...
Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2019
cận của Hoa Kỳ theo hướng chỉ điều chỉnh
đối với những hợp đồng bán, cho thuê,
trao đổi tài sản nhằm kiểm soát những tài
sản sẽ không còn thuộc quyền sở hữu hoặc
chiếm hữu của công ty nữa. Còn theo cách
tiếp cận của Anh, hợp đồng có giá trị lớn
được áp dụng đối với cả hợp đồng mua và
bán tài sản, có nghĩa là cứ hợp đồng nào
đạt tới giá trị quy định như vậy sẽ được coi
là hợp đồng có giá trị lớn mà không phụ
thuộc vào loại hợp đồng đó là gì.
Về giá trị hợp đồng: Hiện nay, Luật
doanh nghiệp năm 2014 tiếp cận việc xác
định hợp đồng có giá trị lớn dựa trên việc
quy định về giá trị hợp đồng để xác định
hợp đồng nào là hợp đồng có giá trị lớn.
Luật doanh nghiệp năm 2014 chưa thống
nhất giữa các điều luật, cụ thể:
Thứ nhất, chưa thống nhất về tỷ lệ
phần trăm giá trị hợp đồng trên tổng giá
trị tài sản của công ty hoặc vốn điều lệ của
công ty để xác định đó là hợp đồng có giá
trị lớn. Hiện nay có 3 tỷ lệ phần trăm được
áp dụng: 35% đối với công ty cổ phần; 50%
đối với công ty TNHH và riêng đối với
công ty hợp danh là 50% (đối với hợp đồng
vay, cho vay và huy động vốn) hoặc 100%
(đối với hợp đồng mua bán tài sản).
Thứ hai, hiện nay, Luật doanh nghiệp
năm 2014 sử dụng 2 căn cứ: (*) tổng giá trị
tài sản công ty và (**) vốn điều lệ để làm cơ
sở so sánh với giá trị hợp đồng để xác định
một hợp đồng có giá trị lớn. Đây cũng là
một điểm chưa thống nhất trong cách tiếp
cận của Luật doanh nghiệp.
3. 2. Kiến nghị, gợi ý cho Luật doanh
nghiệp năm 2014
- Kiến nghị về loại hợp đồng: Để
kiểm soát tốt các hợp đồng có giá trị lớn
nhằm giảm thiểu rủi ro phát sinh từ những
hợp đồng đó, Việt Nam nên tiếp cận theo
hướng của Anh, tức là điều chỉnh đối với
tất cả các loại hợp đồng, cứ đạt đến giá trị
nhất định thì sẽ coi là hợp đồng có giá trị
lớn và yêu cầu cần phải có sự chấp thuận
của chủ sở hữu công ty. Tất cả các điều luật
56, 75, 135, 149, 177 của Luật doanh nghiệp
năm 2014 cần phải được sửa đổi và tiếp cận
theo hướng điều chỉnh vấn đề hợp đồng có
giá trị lớn đối với tất cả các loại hợp đồng
từ mua bán tài sản đến hợp đồng vay, cho
vay, cho thuê Không nên giới hạn loại
hợp đồng vì suy cho cùng một hợp đồng
có giá trị lớn thì dù là hợp đồng mua bán,
cho thuê tài sản hay hợp đồng vay, cho vay,
hợp đồng bảo lãnh khi xảy ra rủi ro đều
gây thiệt hại cho công ty mà không phụ
thuộc vào loại hình hợp đồng.
- Kiến nghị về giá trị hợp đồng: Pháp
luật Anh đưa ra một cách xác định chung
cho hợp đồng có giá trị lớn đối với tất cả
các loại hình công ty trên cơ sở quy định
giá trị cụ thể của tài sản là đối tượng của
giao dịch trong hợp đồng. Đây cũng là
một cách tiếp cận rất hợp lý và có giá trị
thực thi cao trong thực tiễn hoạt động của
doanh nghiệp. Thiết nghĩ, Việt Nam nên
học hỏi, tiếp cận theo hướng quy định giá
trị cụ thể của hợp đồng hoặc giá trị tài sản
cụ thể của tài sản là đối tượng giao dịch
trong hợp đồng để kiểm soát đối với vấn
đề hợp đồng có giá trị lớn. Việc xác định
giá trị cụ thể là bao nhiêu phải dựa trên
các tính toán cụ thể thông qua việc khảo
sát giá trị của doanh nghiệp trên phạm vi
toàn quốc./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hop_dong_co_gia_tri_lon_theo_quy_dinh_cua_phap_luat_hoa_ky_v.pdf