- Kết quả của nghiên cứu đã xác định được
có 80 loài thực vật được một số cộng đồng dân
tộc tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong chữa
trị bệnh cho người dân. 80 loài cây này thuộc
73 chi, 47 họ trong ngành Ngọc Lan
(Magnoliophyta).
- Về dạng sống: trong các loài cây thuốc đã
xác định có 42 loài cây thân thảo, 15 loài cây bụi,
10 loài dây leo, 6 loài gỗ nhỏ, 6 loài gỗ trung
bình và có 1 loài cây ký sinh.
- Về sinh cảnh sống: các loài cây thuốc
được phát hiện chủ yếu tập trung ở vườn với
44 loài cây, ở rừng có 15 loài, ở ven sông ven
suối có 14 loài và sống ở đồi là 7 loài cây.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 650 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hực trạng sử dụng cây thuốc tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
92 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ CHIỀNG ĐÔNG, 
HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN 
Nguyễn Thị Thu Hiền1, Trịnh Đình Khá2 
1Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên 
2Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng 
đồng dân tộc Thái và Mông tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Các phương pháp sử dụng 
gồm có: điều tra phỏng vấn, thu thập mẫu vật, định danh tên loài, đánh giá tính đa dạng nguồn cây thuốc và 
đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc. Kết quả nghiên cứu bước đầu đã xác định được 80 loài cây 
thuốc thuộc 73 chi, 47 họ được cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa bệnh 
cho người dân. Cây thuốc thuộc 6 dạng sống chính gồm: thân thảo (52,5%), cây bụi (18,75%), dây leo (12,5%), 
cây gỗ nhỏ (7,5%), cây gỗ trung bình (7,5%), cây kí sinh (1,25%). Cây thường phân bố ở các dạng sinh cảnh 
như: sống ở vườn, sống ở rừng, sống ven suối và sống ở đồi. Trong các bộ phận được sử dụng làm thuốc thì bộ 
phận cả cây, quả - hoa và lá được sử dụng nhiều nhất. Nghiên cứu đã xác định được 15 nhóm bệnh được chữa 
trị bằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc tại khu vực nghiên cứu, trong đó có 7 
nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất: bệnh về tiêu hóa, bệnh do thời tiết, bệnh về thận, thanh nhiệt - giải độc, bệnh 
về vết thương, bệnh phụ nữ và bệnh về xương khớp. Ba loài cây thuốc cần được bảo vệ đã được ghi nhận là: 
Sâm cau - Curculigo Orchioides Gaertn, Sâm trâu - Callerya speciosa (Champ. Ex Benth.) Schot và Khôi tía - 
Ardisia silvestris Pit., 1930. 
Từ khóa: Cây thuốc, đa dạng, huyện Tuần Giáo, xã Chiềng Đông. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Việt Nam là một Quốc gia có 3/4 diện tích đồi 
núi, là nơi có nguồn tài nguyên cây thuốc đa 
dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn 
là dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, 
chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần Thúy và 
cộng sự, 2005) . Chính sự đa dạng về tộc người 
cùng với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, 
khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa trong từng 
cộng đồng dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và 
phong phú trong vốn tri thức dân gian, kinh 
nghiệm sử dụng thực vật xung quanh làm thuốc 
chữa bệnh. 
Bằng những kinh nghiệm dân gian của 
những người làm thuốc trong mỗi dân tộc, 
những tri thức về cây thuốc được truyền miệng 
và lưu truyền cho con cháu đời sau, từ thế hệ 
này qua thế hệ khác. Trải qua thời gian, các bài 
thuốc có tính độc đáo và trở nên thông dụng 
trong việc chăm sóc sức khỏe người dân của 
cộng đồng. Vì vậy, đã có nhiều công trình 
nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc cũng như bảo 
tồn tri thức y học dân gian đã, đang được tiến 
hành và mang lại nhiều giá trị khoa học cũng 
như thực tiễn. 
Chiềng Đông là một xã có nhiều đồng bào 
dân tộc sinh sống như: Thái, Mông, Khơ Mú 
Từ rất lâu đời, đồng bào các dân tộc thiểu số ở 
tỉnh Điện Biên đã có truyền thống chữa bệnh 
từ nguồn tài nguyên cây thuốc, mỗi dân tộc nơi 
đây lại mang bản sắc và kinh nghiệm chữa 
bệnh bằng thực vật làm thuốc rất đa dạng. 
Trong đó, dân tộc Thái và dân tộc Mông ở xã 
Chiềng Đông - huyện Tuần Giáo cũng có nhiều 
kinh nghiệm độc đáo và phong phú về việc 
chữa bệnh bằng cây thuốc. Tuy nhiên, hiện nay 
diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng 
khai thác và mua bán các sản phẩm từ rừng 
diễn ra một cách phức tạp, điều này dẫn đến 
nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy 
giảm. Mặt khác những bài thuốc được cộng 
đồng các dân tộc ở đây sử dụng từ lâu đời 
trong việc phòng và chữa trị một số nhóm bệnh 
nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học 
của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, 
chứng minh bằng con đường khoa học. Xuất 
phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu “Thực trạng sử dụng cây thuốc tại 
xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo”. Nghiên 
cứu này cung cấp những kết quả điều tra đa 
dạng nguồn tài nguyên cây thuốc là cơ sở khoa 
học để góp phần phát hiện, gây trồng và bảo 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 93 
tồn nguồn gen cây thuốc quý ở xã Chiềng 
Đông, huyện Tuần Giáo. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thời gian thực hiện nghiên cứu: từ tháng 
11/2017 - tháng 9/2018. 
Phương pháp điều tra cộng đồng: tại khu 
vực nghiên cứu, phỏng vấn các ông lang, bà 
mế, người dân có kinh nghiệm sử dụng cây 
thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của 
cộng đồng dân tộc tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu 
phiếu điều tra dựa theo phiếu điều tra cây 
thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài 
thuốc dân gian của Viện Dược liệu (Viện Dược 
liệu, 1993). Tiến hành thu thập đầy đủ các 
thông tin cây thuốc gồm: tên phổ thông, tên 
dân tộc; số hiệu mẫu; dạng sống; môi trường 
sống; bộ phận sử dụng làm thuốc (thân, rễ, 
hoa, quả, hạt...); công dụng của nguồn tài 
nguyên cây thuốc. 
Phương pháp thu thập mẫu: sử dụng 
phương pháp thu thập mẫu vật theo Nguyễn 
Nghĩa Thìn (1997, 2007). 
Định danh tên loài: định danh loài cây theo 
2 bước chính như sau: (i) định danh tại thực 
địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các 
chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố 
giám định lại, gồm: các khóa định loại, các bản 
mô tả trong tài liệu Cây cỏ Việt Nam (Phạm 
Hoàng Hộ, 1999), Từ điển cây thuốc Việt Nam 
(Võ Văn Chi, 2012), Những cây thuốc và vị 
thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005), Danh lục 
các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm Nghiên 
cứu Tài nguyên và Môi trường - Đại học Quốc 
gia Hà Nội và Viện Sinh thái và Tài nguyên 
sinh vật - Viện Hàn Lâm Việt Nam, 2006). 
Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn 
cây thuốc: các chỉ tiêu đánh giá tính đa dạng 
nguồn tài nguyên cây thuốc được dựa trên 
phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn 
(1997, 2007). 
Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp 
của các loài cây thuốc: xác định những cây 
thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở khu vực nghiên 
cứu theo các nguồn tài liệu tin cậy đã được 
công bố, gồm: Sách đỏ Việt Nam, phần thực 
vật (Bộ KH&CN, 2007), Nghị định 
32/2006/NĐ-CP (Chính phủ nước CHXHCN 
Việt Nam, 2006), Cẩm nang cây thuốc cần 
được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007). 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc 
được sử dụng ở xã Chiềng Đông, huyện 
Tuần Giáo 
3.1.1. Thành phần loài cây thuốc ở Chiềng 
Đông 
Nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo 
kinh nghiệm của dân tộc Thái và Mông tại xã 
Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo đã xác định 
được 80 loài thực vật được sử dụng làm thuốc 
thuộc 73 chi, 47 họ và kết quả được tổng hợp 
trong bảng 1. 
Bảng 1. Thành phần loài cây thuốc ở xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo 
Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) 
Số họ Số chi Số loài 
Số 
lượng 
Tỷ lệ % 
Số 
lượng 
Tỷ lệ % 
Số 
lượng 
Tỷ lệ % 
Lớp hai lá mầm (Magnoliopsida) 36 76,60 58 79,45 61 76,25 
Lớp một lá mầm (Liliopsida) 11 23,40 15 20,55 19 23,75 
Tổng số 47 100,00 73 100,00 80 100,00 
Từ bảng 1 cho thấy, lớp hai lá mầm 
(Magnoliopsida) có số họ, số chi và số loài 
được sử dụng làm thuốc chiếm ưu thế hơn hẳn 
so với lớp một lá mầm (Liliopsida). 
- Lớp hai lá mầm (Magnoliopsida) có 61 
loài (chiếm 76,25% so với tổng số loài sử dụng 
làm thuốc được phát hiện), thuộc 58 chi (chiếm 
79,45%), 36 họ (chiếm 76,6%). Trong đó lớp 
hai lá mầm này có sự xuất hiện của loài Sâm 
đất (Talinum paniculatum (Jacq.) Gaertn), là 
loài có nhiều giá trị sử dụng làm thuốc bổ và 
có trong danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam. Kết 
quả này góp phần cung cấp các cơ sở khoa học 
cho công tác bảo tồn và nhân rộng mô hình cho 
các loài cây quí hiếm và loài cây có trong Sách 
đỏ Việt Nam. 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
94 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
- Lớp một lá mầm (Liliopsida) chỉ có 19 
loài (chiếm 23,75% so với tổng số loài làm 
thuốc được phát hiện), thuộc 15 chi (20,55%), 
11 họ (23,40%). 
3.1.2. Sự đa dạng ở bậc họ của loài cây thuốc 
ở Chiềng Đông 
Không chỉ ở bậc ngành, bậc lớp mà ở bậc 
họ tính đa dạng cũng thể hiện rất rõ. Sự phân 
bố các họ trong các lớp của nguồn cây thuốc 
được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Thái và 
Mông chữa trị bệnh được tổng hợp ở bảng 2. 
Bảng 2. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 
Ngành thực vật 
1 
loài 
2 
loài 
3 
loài 
4 
loài 
5 
loài 
6 
loài 
7 
loài 
8 
loài 
Magnoliophyta 30 10 3 1 1 2 0 0 
Magnoliopsida 23 7 3 1 1 1 0 0 
Liliopsida 7 3 0 0 0 1 0 0 
Tổng số họ 30 10 3 1 1 2 0 0 
Tỷ lệ số họ/tổng số họ (%) 63,83 21,28 6,38 2,13 2,13 4,26 0,00 0,00 
Số loài 30 20 9 4 5 12 0 0 
Tỷ lệ số loài/tổng số loài (%) 37,5 25 11,25 5 6,25 15 0 0 
Những dữ liệu bảng 2 cho thấy, có tới 2 họ 
có 6 loài (chiếm 4,26% số họ điều tra được) là 
họ Gừng (Zingiberaceae) của lớp một lá mầm 
và họ Cúc (Asteraceae) của lớp hai lá mầm. Có 
1 họ có 5 loài và 1 họ có 4 loài, đều chiếm 
2,13% tổng số họ và 2 họ này đều thuộc lớp 
hai lá mầm. Có 3 họ có 3 loài, chiếm 6,28% 
tổng số họ và cả 3 họ này đều thuộc lớp hai lá 
mầm. Có 10 họ có 2 loài, chiếm 21,28% tổng 
số họ và có 7 họ thuộc lớp một lá mầm. Có 30 
họ có 1 loài, chiếm tỷ lệ cao nhất trong số họ 
và loài điều tra được với tỷ lệ lần lượt 63,83% 
và 37,5%, trong đó có 23 họ thuộc lớp hai lá 
mầm và 7 họ thuộc lớp một lá mầm. 
Kết quả đạt được cho thấy, thực vật làm 
thuốc ở xã Chiềng Đông không có sự cân đối 
giữa số họ và số loài, tỷ lệ tổng số họ so với 
tổng số loài chỉ đạt 47/80 (1/1,7), do đó tính 
trung bình 1 họ chỉ có gần 2 loài được sử 
dụng làm thuốc nhưng số cá thể trong họ thì 
chưa cao. 
3.1.3. Sự đa dạng về dạng sống của loài cây 
thuốc ở Chiềng Đông 
Đối với mỗi loài cây đều có sự thích nghi 
với môi trường và được thể hiện qua dạng 
thân. Vì vậy, việc phân tích đa dạng về dạng 
sống của các cây thuốc định hướng cho ta thấy 
nguồn nguyên liệu để dễ dàng hơn trong công 
tác bảo vệ, gây trồng cũng như việc khai thác 
và sử dụng cây thuốc. Căn cứ vào những dấu 
hiệu thích nghi của từng loài thực vật đó để 
làm cơ sở phân loại dạng thân. 
Kết quả điều tra, phân loại và phân tích đa 
dạng về dạng thân của cây thuốc tại xã Chiềng 
Đông được phân ra làm 6 dạng sống khác nhau 
(Hình 1). 
Hình 1. Đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 95 
Hình 1 cho thấy, phần lớn các cây thuốc 
được cộng đồng dân tộc Thái và Mông sử dụng 
là dạng cây thân thảo, với 42/80 loài (chiếm 
52,5% tổng số loài cây thuốc thu được); đứng 
thứ hai là dạng sống cây bụi với 15/80 loài 
(chiếm 18,75%); đứng thứ ba là dạng sống dây 
leo với 10/80 loài (chiếm 12,5%); tiếp đến là 
dạng sống cây gỗ nhỏ và gỗ trung bình, đều có 
6/80 loài (chiếm 7,5%); đứng cuối cùng là 
dạng sống cây ký sinh với 1/80 loài cây. 
3.1.4. Sinh cảnh sống của các loài cây thuốc 
ở Chiềng Đông 
Kết quả đánh giá về đa sinh cảnh sống của 
các loài cây thuốc cho thấy mỗi loài cây 
thuốc có đặc điểm phân bố theo sinh cảnh 
sống phong phú và phức tạp. Có những cây 
sống ở những vùng núi cao, vùng núi thấp 
hay trong các khu rừng... Ngoài ra có những 
cây sống ở vách núi đá, hốc đá ẩm hay sống 
nhờ trên thân cây khác Một số khác thì 
sống ở gần khe suối, ruộng ẩm và cũng có 
thể sống ở ven đường đi, nương rẫy... 
Với sinh cảnh sống của nguồn cây thuốc ở 
khu vực nghiên cứu, chúng tôi phân theo 5 
nhóm sinh cảnh sống chính được thể hiện ở 
bảng 3. 
Bảng 3. Đa dạng về sinh cảnh sống của các loài cây thuốc tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo 
STT Sinh cảnh sống Số loài Tỷ lệ % 
1 Sống ở vườn 44 55,00 
2 Sống ở rừng 15 18,75 
3 Sống ở ven sông, ven suối 14 17,5 
4 Sống ở đồi 7 8,75 
Kết quả bảng 3 cho thấy, số lượng loài cây 
thuốc phân bố trên các sinh cảnh là rất khác 
nhau. Tỷ lệ cây thuốc sống ở môi trường vườn 
có số lượng loài lớn nhất là 44 loài (chiếm 
55% so với tổng số loài phát hiện được), điều 
này có thể chứng minh được rằng, người dân 
tại khu vực nghiên cứu đã ý thức được giá trị 
và tầm quan trọng của các loài cây thuốc khi 
đem cây thuốc về vườn nhà trồng nhân rộng 
mô hình cây thuốc để cung cấp nguồn dược 
liệu. Tiếp theo là các loài cây thuốc sống ở môi 
trường rừng có 15 loài cây (chiếm 18,75%). Kế 
tiếp là các loài cây thuốc sống ở ven sông ven 
suối có 14 loài cây (chiếm 17,5%). Và ít nhất 
là các loài cây thuốc gặp ở đồi chỉ có 7/80 loài 
(chiếm 8,75%). 
Qua đánh giá tính đa dạng về sự phân bố số 
cây theo sinh cảnh sống cho thấy các loài cây 
thuốc có điều kiện sống rất đa dạng, phạm vi 
phân bố khác nhau. Nghiên cứu về sinh cảnh 
sống của từng loài là một việc rất quan trọng, 
điều này rất có ý nghĩa cho công tác bảo tồn và 
sử dụng bền vững nguồn nguyên liệu làm 
thuốc chữa bệnh. 
3.1.5. Sự đa dạng về bộ phận sử dụng của các 
loài cây thuốc ở Chiềng Đông 
Kết quả đa dạng về bộ phận sử dụng của 
nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng cây 
thuốc của cộng đồng dân tộc Thái và Mông ở 
xã Chiềng Đông được tổng hợp tại bảng 4. 
Bảng 4. Đa dạng về bộ phận sử dụng của các loài cây thuốc tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo 
STT Bộ phận sử dụng Số loài* Tỷ lệ % 
1 Cả cây 31 38,75 
2 Quả - Hoa 21 26,25 
3 Lá 19 23,75 
4 Rễ 5 6,25 
5 Thân 3 3,75 
6 Vỏ 2 2,50 
Chú thích: *Một loài có thể cho nhiều bộ phận sử dụng khác nhau. 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
96 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
Bảng 4 cho thấy, tại khu vực nghiên cứu có 
6 bộ phận cây thuốc được cộng đồng dân tộc 
Thái và Mông sử dụng trong chữa trị bệnh cho 
người dân. Trong đó, bộ phận bộ phận được sử 
dụng nhiều nhất là bộ phận cả cây chiếm 
38,75% trong tổng số loài phát hiện được (với 
31/80 loài cây); đứng thứ hai là sử dụng bộ 
phận quả - hoa làm thuốc chiếm 26,25% (có 
21/80 loài cây); đứng thứ ba là bộ phận lá 
chiếm 23,75% (có 19/80 loài cây); kế tiếp lần 
lượt là bộ phận rễ và thân chiếm từ 3,75 – 
6,25%; thấp nhất là bộ phận vỏ chiếm 2,5%. 
3.1.6. Công dụng chữa bệnh của các loài cây 
thuốc ở Chiềng Đông 
Từ kinh nghiệm y học cổ truyền cho thấy, 
từ một cây có thể có tác dụng với nhiều loại 
bệnh và ngược lại phải dùng nhiều loại cây 
mới chữa được một bệnh (Đỗ Tất Lợi, 2005; 
Võ Văn Chi, 2012). 
Kết quả điều tra công dụng chữa bệnh của 
các loài cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng 
của cộng đồng dân tộc Thái và Mông ở xã 
Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo khu được ghi 
nhận tại bảng 5. 
Bảng 5. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 
STT Nhóm bệnh chữa trị Số loài Tỷ lệ % 
1 Bệnh về tiêu hóa (đau bụng, dạ dày, trĩ) 19 23,75 
2 Bệnh do thời tiết (ho, sốt, cảm...) 13 16,25 
3 Bệnh về thận (sỏi thận, suy thận, lợi tiểu...) 12 15,00 
4 Thanh nhiệt, giải độc 11 13,75 
5 Bệnh về vết thương 11 13,75 
6 Bệnh phụ nữ (vô sinh, hậu sản...) 8 10,00 
7 Bệnh về xương khớp (phong thấp, đau lưng, đau xương, thấp khớp) 8 10,00 
8 Bệnh về gan (sơ gan, giải độc gan, viêm gan...) 7 8,75 
9 Bệnh về hệ tuần hoàn (mỡ máu, huyết áp, tim...) 7 8,75 
10 Thuốc bổ, suy nhược 6 7,50 
11 Bệnh tiểu đường 3 3,75 
12 Bệnh u bướu (ung thư, u hạch...) 3 3,75 
13 An thần, trầm cảm 3 3,75 
14 Bệnh về đường hô hấp 2 2,50 
15 Thuốc tắm 2 2,50 
Chú thích: Tỉ lệ phần trăm trong bảng hơn 100% do một loài có thể có tác dụng chữa trị nhiều bệnh. 
Những dữ liệu bảng 5 cho thấy, cộng đồng 
dân tộc Thái và Mông ở khu vực nghiên cứu có 
thể sử dụng kiến thức và kinh nghiệm về cây 
thuốc để chữa trị được 15 nhóm bệnh khác 
nhau, trong đó có những căn bệnh nan y như: 
ung thư, gan, thận, tim, xương khớp, đường 
ruột, đường hô hấp Số lượng cây thuốc được 
sử dụng để chữa trị tập trung phần lớn vào 7 
nhóm bệnh chính cụ thể: 
- Có 19/80 loài cây được phát hiện có công 
dụng chữa các bệnh về tiêu hóa, chiếm tỷ lệ 
23,75% so với tổng số loài cây đã phát hiện. 
Các loài cây ở nhóm này thuộc các họ như: 
Zingiberaceae (họ Gừng), Myrsinaceae (họ 
Đơn nem), Rubiaceae (họ Cà phê) Một số 
loài có thể kể đến như: Curcuma zedoaria 
(Berg.) Rosc (Nghệ đen), Curcuma 
zanthorrhiza Roxb (Nghệ rễ vàng), Curcuma 
aromatica Salisb (Nghệ trắng), Amomum 
aromaticum Roxb (Thảo quả), Ardisia 
silvestris Pitard (Khôi tía), Hedyotis var. mollis 
(Pierre ex Pitard) T. N. Ninh (Dạ cẩm) 
- Có 13/80 loài cây được phát hiện có 
công dụng chữa các bệnh do thời tiết, chiếm 
16,25%. Các loài ở nhóm này thuộc các họ 
như: Iridaceae (họ Lay ơn), Pandanaceae (họ 
Dứa dại), Lamiaceae (họ Bạc Hà), 
Caricaceae (họ Đu đủ) Một số loài có thể 
kể đến như: Belamcanda chinensis (L.) DC. 
(Rẻ quạt), Pandanus humilis Lour (Dứa dại), 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 97 
Ocimum basilicum L (Húng quế), Carica 
papaya L. (Đu đủ) 
- Có 12/80 loài cây được phát hiện có công 
dụng chữa các bệnh về thận, chiếm 15%. Các 
loài trong nhóm bệnh này thuộc các họ: 
Solanaceae (họ Cà), Caricaceae (họ Đu đủ), 
Fabaceae (họ Đậu), Asteraceae (họ Cúc), 
Malvaceae (họ Bông)... Một số loài có thể kể 
đến như: Physalis angulata L. (Tầm bóp), 
Carica papaya L. (Đu đủ), Desmodium 
styracifolium (Osbeck) Merr (Kim tiền thảo), 
Eupatorium odoratum L. (Chó đẻ), Abelmoschus 
esculentus (L.) Moench (Đậu bắp)... 
- Nhóm bệnh về vết thương và thanh nhiệt – 
giải độc đều được phát hiện có 11/80 loài cây 
có công dụng chữa các bệnh thuộc 2 nhóm 
này, chiếm 13,75%. Một số loài cây chữa các 
bệnh về vết thương có thể kể đến như: 
Muntigia calabura L. (Trứng cá), Eichhornia 
crassipes (Mart.) Solms (Bèo tây), Piper lolot 
C. DC (Lá lốt), Aloevar chinensis (Haw.) Berg 
(Lô hội), Heterosmilax polyandra Gagnep 
(Khúc khắc nhiều nhị), Mentha arvensis L. 
(Bạc hà)... Tương tự loài có tác dụng thanh 
nhiệt, giải độc như: Taraxacum officinale 
Wigg (Bồ công anh), Eupatorium odoratum L. 
(Chó đẻ), Physalis angulata L. (Tầm bóp), 
Portulaca oleracea L. (Rau sam)... 
- Nhóm bệnh phụ nữ và bệnh về xương 
khớp đều phát hiện được 8/80 loài cây, chiếm 
10%. Các loài cây được tìm thấy có tác dụng 
chữa nhóm bệnh của phụ nữ có thể kể đến như: 
Curculigo orchioides Gaertn (Sâm cau), 
Balanophora indica (Arnott) Griff (Dó đất), 
Rubus leucanthus Hance (Ngấy trâu), 
Artemisia vulgaris L. (Ngải cứu), Rhodomyrtus 
tomentosa (Ait.) Hassk (Sim), Abelmoschus 
esculentus (L.) Moench (Đậu bắp) Tương tự 
loài cây được tìm thấy có tác dụng chữa các 
bệnh về xương khớp là: Curculigo orchioides 
Gaertn (Sâm cau), Caryota urens L. (Móc), 
Heterosmilax polyandra Gagnep (Khúc khắc 
nhiều nhị), Dendrophthoe pentandra Blume in 
Schult. F. (Tầm gửi năm nhị) 
Nhìn chung, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc 
chữa trị bệnh từ nguồn cây thuốc của cộng 
đồng dân tộc Thái và Mông tại xã Chiềng 
Đông - huyện Tuần Giáo rất đa dạng. Ngoài ra 
kết quả của công trình còn cung cấp các cơ sở 
khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo về bảo 
tồn và phát triển bền vững các loài cây thuốc, 
các bài thuốc dân gian của cộng đồng dân tộc 
Thái, Mông ở khu vực nghiên cứu nói riêng và 
ở Việt Nam nói chung. 
3.2. Những cây thuốc quý hiếm thuộc diện 
cần bảo tồn ở xã Chiềng Đông, huyện 
Tuần Giáo 
Nghiên cứu này đã xác định được các loài 
cây thuốc thuộc diện quý hiếm cần bảo vệ 
thuộc xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo. Kết 
quả được tổng hợp tại bảng 6. 
Bảng 6. Danh mục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo 
STT Tên loài 
Cấp quy định 
SĐVN 2007 32/NĐ-CP DLĐCT 
1 Sâm cau - Curculigo Orchioides Gaertn VU.A1a,c,d 
2 Sâm trâu - Callerya speciosa (Champ. Ex Benth.) Schot VU A1a,c,d 
3 Khôi tía - Ardisia silvestris Pit., 1930 VU A1a,c,d+2d 
Chú thích: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; 32/2006/NĐ-CP: Nghị định 32 của Chính phủ; 
DLĐCT: Danh lục đỏ cây thuốc; VU: Sắp nguy cấp – Vulnerable. 
Dữ liệu bảng 6 cho thấy, tại khu vực nghiên 
cứu đã phát hiện có 3 loài cây thuốc thuộc 
danh sách các loài quý hiếm, bị đe dọa tuyệt 
chủng ở Việt Nam (chiếm 3,75% tổng số loài 
cây thuốc được phát hiện), thuộc 3 chi, 3 họ 
của một ngành thực vật bậc cao. Trong đó có 2 
loài cây có tên trong Sách đỏ Việt Nam năm 
2007 (Bộ KH&CN, 2007) và 1 loài có tên 
trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam năm 
2006 (Nguyễn Tập, 2007). Cụ thể như sau: 
- Cấp VU - Sắp nguy cấp theo nguồn Sách 
đỏ Việt Nam năm 2007, gồm có 2 loài: 
+ Sâm trâu - Callerya speciosa (Champ. ex 
Benth.) Schot thuộc họ Đậu - Fabaceae. Loài 
Sâm trâu được cộng đồng dân tộc Thái, dân tộc 
Mông sử dụng chữa trị các loại bệnh về dạ dày. 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
98 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 
+ Khôi tía (Ardisia silvestris Pit., 1930) 
thuộc họ Đơn nem - Myrsinaceae. Loài Khôi 
tía được cộng đồng dân tộc Thái, dân tộc Mông 
sử dụng chữa trị các bệnh về dạ dày. 
- Cấp VU - Sắp nguy cấp theo nguồn Danh 
lục đỏ cây thuốc Việt Nam năm 2006, gồm có 
1 loài: 
+ Sâm cau - Curculigo Orchioides Gaertn 
thuộc họ Tỏi voi lùn - Hypoxidaceae. Loài 
Sâm cau được cộng đồng dân tộc Thái, dân tộc 
Mông sử dụng chữa trị các bệnh về vô sinh, 
yếu sinh lý, đau khớp. 
Tóm lại, 3 loài cây thuộc diện cần bảo vệ ở 
xã Chiềng Đông đều thuộc danh sách các loài 
đang bị đe dọa ở Việt Nam - đều là các loài 
cây thuốc có giá trị cao trong y dược cũng như 
giá trị về kinh tế. Qua kết quả này chúng ta cần 
đẩy mạnh công tác nâng cao ý thức bảo vệ các 
loài cây thuốc quý hiếm nói riêng và loài cây 
thuốc nói chung từ người dân. Trong đó ưu 
tiên trong bảo tồn nguồn gen quý hiếm để phục 
vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài của người 
dân nói chung. 
Từ những kết quả nghiên cứu đã đạt được 
của công trình này sẽ là nguồn tài liệu quan 
trọng góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu cho các 
Ban, Ngành chức năng xây dựng các chiến 
lược, chính sách để bảo tồn và khai thác các 
loài thực vật làm thuốc này một cách có kế hoạch 
và bền vững, đặc biệt là các loài cây thuốc quí 
hiếm có nguy cơ bị suy giảm về số lượng. 
4. KẾT LUẬN 
- Kết quả của nghiên cứu đã xác định được 
có 80 loài thực vật được một số cộng đồng dân 
tộc tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong chữa 
trị bệnh cho người dân. 80 loài cây này thuộc 
73 chi, 47 họ trong ngành Ngọc Lan 
(Magnoliophyta). 
- Về dạng sống: trong các loài cây thuốc đã 
xác định có 42 loài cây thân thảo, 15 loài cây bụi, 
10 loài dây leo, 6 loài gỗ nhỏ, 6 loài gỗ trung 
bình và có 1 loài cây ký sinh. 
- Về sinh cảnh sống: các loài cây thuốc 
được phát hiện chủ yếu tập trung ở vườn với 
44 loài cây, ở rừng có 15 loài, ở ven sông ven 
suối có 14 loài và sống ở đồi là 7 loài cây. 
- Đã xác định được có 6 nhóm bộ phận sử 
dụng được dùng trong chữa trị bệnh, đó là: bộ 
phận cả cây, quả - hoa, lá, rễ, thân, vỏ. Trong 
đó có tới 89,25% số loài có trong 3 nhóm sử 
dụng bộ phận cả cây, quả - hoa và lá. 
- Đã thống kê được 15 nhóm bệnh khác 
nhau được chữa trị bằng kinh nghiệm sử dụng 
cây thuốc trong cộng đồng dân tộc Thái và 
Mông tại xã Chiềng Đông. Trong đó phần lớn 
các loài cây thuốc điều tra được tập trung 
nhiều ở 7 nhóm bệnh: bệnh về tiêu hóa, bệnh 
do thời tiết, bệnh về thận, thanh nhiệt - giải 
độc, bệnh về vết thương, bệnh về khớp và bệnh 
phụ nữ. 
- Đã phát hiện ra có 3 loài cây thuốc ở xã 
Chiềng Đông thuộc danh sách các loài cần bảo 
tồn, bao gồm các loài: Sâm cau - Curculigo 
Orchioides Gaertn, Sâm trâu - Callerya 
speciosa (Champ. Ex Benth.) Schot và Khôi tía 
- Ardisia silvestris Pit., 1930. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Võ Văn Chi (2012). Từ điển cây thuốc Việt Nam, 
tập 1 - 2. Nhà xuất bản Hà Nội. 
2. Phạm Hoàng Hộ (1999). Cây cỏ Việt Nam. Nhà 
xuất bản Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
3. Đỗ Tất Lợi (2005). Những cây thuốc và vị thuốc 
Việt Nam. Nhà xuất bản Hà Nội. 
4. Nguyễn Tập (2007). Cẩm nang cây thuốc cần bảo 
vệ ở Việt Nam. Nxb. Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt 
Nam, Hà Nội. 
5. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997). Cẩm nang nghiên cứu 
đa dạng sinh vật. Nxb. Nông nghiệp, Hà nội. 
6. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007). Các phương pháp 
nghiên cứu thực vật. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 
7. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005). Lý 
luận Y học cổ truyền. Nxb. Y học, Hà Nội. 
8. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007). Sách đỏ Việt 
Nam, phần Thực vật. Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công 
nghệ, Hà Nội. 
9. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam (2006). Nghị định 32/2006/CP - NĐ về nghiêm 
cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động - thực 
vật hoang dã. 
10. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi 
trường - Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Sinh thái & 
Tài nguyên sinh vật - Viện Hàn lâm Việt Nam (2006). 
Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập 2 - 3. Nxb. 
Nông nghiệp, Hà Nội. 
11. Viện Dược liệu (1993). Tài Nguyên cây thuốc 
Việt Nam. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6 - 2018 99 
STATUS OF USING MEDICINAL PLANTS IN CHIENG DONG COMMUNE, 
TUAN GIAO DISTRICT, DIEN BIEN PROVINCE 
Nguyen Thi Thu Hien1, Trinh Dinh Kha2 
1Thai Nguyen University of Forestry and Agriculture 
2Thai Nguyen University of Sciences 
SUMMARY 
This study was conducted to assess the diversity of medicinal plant resources in Thai and Mong ethnic minority 
communities in Chieng Dong commune, Tuan Giao district, Dien Bien province. The methods used for 
collecting data were method of interview, specimen collection, identification of the species name, method of 
medicinal plant resources diversity assessment and method of endangered medicinal plants level assessment. 
The results of research have identified initially 80 species of medicinal plants of 73 genera and 47 families 
which the ethnic minority communities have used for diseases prevention and treatment. There are six main life 
forms of the medicinal plants: herbaceous (52.5%), shrub (18.75%), vines (12.5%), small wood trees (7.5%), 
moderate wood trees (7.5%) and parasite (1.25%). The trees distribution is common in many types of habitat: 
live in the gardens, forests, along streams and hills. In the parts used as medicine, the whole plant, fruit - 
flowers and leaves are used most. The results show that there are 15 groups of disease treated which could be 
cured by the experience of using medicinal plants of some ethnic minority communities in the study area, of 
which 7 groups of diseases occupy the highest rate: digestive diseases, kidney disease, heat bar - detoxification, 
wound disease, women's disease and osteoarthritis. There are 3 endangered medicinal plants: Curculigo 
Orchioides Gaertn, Callerya speciosa (Champ. Ex Benth.) Schot and Ardisia silvestris Pit., 1930. 
Keywords: Chieng Dong commune, diversity, medicinal plants, Tuan Giao district. 
Ngày nhận bài : 17/9/2018 
Ngày phản biện : 06/11/2018 
Ngày quyết định đăng : 15/11/2018 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 huc_trang_su_dung_cay_thuoc_tai_xa_chieng_dong_huyen_tuan_gi.pdf huc_trang_su_dung_cay_thuoc_tai_xa_chieng_dong_huyen_tuan_gi.pdf