Hủy phán quyết trọng tài - Bình luận từ góc nhìn một vụ án

Bốn là, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự: về nguyên tắc, Hội đồng trọng tài được quyền không xem xét về hậu quả khi tuyên bố chấm dứt hợp đồng trong trường hợp các đương sự không có yêu cầu. Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài phải giải thích rõ cho đương sự. Về vấn đề này, thực tiễn xét xử ở Việt Nam đã có những hướng dẫn có thể áp dụng tương tự. Cụ thể là, tại mục 2 phần III Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 7 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ “Khi giải quyết vụ án dân sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án phải giải thích cho các đương sự về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án. Trường hợp Tòa án đã giải thích nhưng tất cả đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không phải giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; trừ trường hợp đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba”. Liên quan đến việc xem xét việc áp dụng tương tự pháp luật, tức là dùng những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực đối với những quan hệ tương tự như quan hệ cần xử lý để điều chỉnh quan hệ cần xử lý đó, nhưng không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh. Đây là những quan hệ xã hội mà pháp luật chưa dự liệu, chưa có quy định nhưng trong thực tiễn đã nảy sinh quan hệ gần giống như quan hệ mà pháp luật đã quy định nên Tòa án sử dụng quy định hiện có gần giống để giải quyết quan hệ đã nảy sinh mà chưa được luật hóa. Đối với vấn đề này luật pháp nước ta đã quy định từ lâu và thực tiễn là Tòa án đã áp dụng để giải quyết các vụ việc dân sự.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hủy phán quyết trọng tài - Bình luận từ góc nhìn một vụ án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 85 HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI - BÌNH LUẬN TỪ GÓC NHÌN MỘT VỤ ÁN Nguyễn Minh Hằng1 Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm, đó là thủ tục đơn giản, nhanh chóng; trọng tài viên thường là những chuyên gia giỏi và có uy tín; giữ kín được bí mật kinh doanh, uy tín của các bên và rất phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Nguyên tắc xét xử một lần trong tố tụng trọng tài trừ trường hợp Tòa án tuyên bố hủy quyết định trọng tài là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tố tụng Tòa án2. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền tự định đoạt của các bên. Mặc dù có nhiều ưu điểm trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nhưng thực tế Việt Nam, các doanh nghiệp ít sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp mà chủ yếu lựa chọn con đường giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Một trong những nguyên nhân là tâm lý các doanh nghiệp thường tin vào quyền lực công, e ngại khi đã chọn trọng tài không còn cơ chế nào khác để khắc phục sai sót trong quá trình giải quyết vụ việc. Từ một vụ án thực tế đã có phán quyết trọng tài, bài viết này nghiên cứu về quyền yêu cầu hủy quyết định trọng tài như một cơ chế để khắc phục sai sót. Với việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự, quyền tiếp cận công lý từ phía doanh nghiệp được nhìn nhận từ chế định thẩm quyền hủy phán quyết trọng tài và căn cứ hủy phán quyết trọng tài khi Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu của đương sự về hủy phán quyết trọng tài. Từ khóa: Quyền yêu cầu hủy quyết định trọng tài; căn cứ hủy quyết định trọng tài; thẩm quyền hủy quyết định trọng tài; Luật trọng tài thương mại năm 2010, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nhận bài: 05/4/2017; Hoàn thành biên tập: 25/6/2017; Duyệt đăng: 01/8/2017 Abstract: Dispute resolution by arbitration has many advantages which are: fast and simple process; arbitrators are often good and reputable experts, who are able to keep confidential business secrets and suitable for settlement of disputes involving foreign elements. The one-time adjudication principle in arbitral proceedings, except when the court declares the annulment of the arbitral award, is the featured principle of arbitral proceedings compared to court proceedings1. This principle arises from the nature of arbitral proceedings, which represent the will and right to self-determination of the parties. Despite of having many advantages, Vietnamese enterprises rarely use arbitration to settle disputes. They mainly choose to resolve disputes in courts. One of the reasons is that Vietnamese enterprises often believe in public power and they are afraid that there is no mechanism to correct errors in the process of resolving by using arbitration. From a real case where there is an arbitral award, this article studies the right to request the cancellation of arbitral awards as a mechanism for correcting errors. By performing the right of self-determination of the parties, the right of access to justice from the business is recognized from the jurisdiction of canceling the arbitral award and the grounds for the cancellation of the arbitral award when the court considers the demand of the litigant to cancel the arbitration award. Keywords: the right to request the cancellation of arbitral awards, grounds for the cancellation of the arbitral award, the jurisdiction of canceling the arbitral award,Law on Commercial Arbitration in 2010, Civil Procedure Code in 2015. Date of receipt: 05/4/2017; Date of revision: 25/6/2017; Date of approval: 01/8/2017 1 Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Trưởng Khoa Đào tạo Luật sư - Học viện Tư pháp 2 Khoản 5 Điều 4 Luật trọng tài Thương mại năm 2010 quy định “Phán quyết trọng tài là chung thẩm”. BÌNH LUAÄN AÙN 86 1. Phán quyết trọng tài Theo đơn khởi kiện ngày 22/12/2016 và các tài liệu kèm theo của Công ty cổ phần X kiện Công ty Y (Công ty Y có trụ sở chính tại HongKong) liên quan đến tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng hợp tác kinh doanh ký ngày 20/1/2000 (Hợp đồng) thì: Công ty X và công ty Y thỏa thuận cùng nhau thành lập “Cửa hàng miễn thuế L – sau đây gọi là Cửa hàng”. Trong Hợp đồng, các bên thống nhất về hoạt động kinh doanh của cửa hàng, nghĩa vụ của các bên, hoạch toán và phân chia lợi nhuận; về ban điều phối; về giải quyết tranh chấp; về luật áp dụng; về chấm dứt thanh lý hợp đồng. Ngày 10/5/2000 Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam đã cấp phép đầu tư số 2159/GP cho phép các bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng để kinh doanh hàng miễn thuế tại khu vực Cửa khẩu L, đồng thời chuẩn y Hợp đồng. Các bên thực hiện thỏa thuận trong Hợp đồng đến đầu năm 2015, Công ty X cho rằng Công ty Y cung cấp hàng hóa với giá cao hơn thị trường, vi phạm thỏa thuận trong Hợp đồng. Công ty X nhiều lần gửi văn bản yêu cầu Công ty Y giải thích và sang Việt Nam để kiểm tra tình hình thực tế nhưng không nhận được sự hợp tác của Công ty Y. Kể từ tháng 6/2015 Cửa hàng không còn hàng bán nhưng Công ty Y không có bất kỳ kế hoạch nào cung cấp hàng cho Cửa hàng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kinh doanh của Cửa hàng. Trong Hợp đồng, các bên có thỏa thuận hợp pháp về việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VIAC). Vì vậy, Công ty X khởi kiện Công ty Y đến VIAC đề nghị chấm dứt Hợp đồng và yêu cầu Công ty Y phải bồi thường thiệt hại là 181.398.000 đồng. Công ty Y khẳng định rằng mình không vi phạm Hợp đồng. Công ty Y đã cử đại diện trực tiếp sang làm việc và yêu cầu Công ty X cung cấp các tài liệu chứng cứ chứng minh Công ty Y cung cấp hàng hóa vào Cửa hàng với mức cao hơn mức thị trường, tuy nhiên Công ty X không có tài liệu chứng cứ nào để chứng minh. Tháng 7 và tháng 8/2015 Công ty Y đã chuyển cho Công ty X 02 Đơn hàng nhưng Công ty X không ký xác nhận đơn hàng nên Công ty Y không thể thực hiện các thủ tục hải quan để chuyển hàng cho Cửa hàng. Đồng thời, Công ty X vi phạm nghĩa vụ chuyển trả giá vốn (tiền hàng do Công ty Y cung cấp cho Cửa hàng) dẫn đến Công ty Y gặp khó khăn trong việc cung cấp hàng hóa theo thỏa thuận. Công ty Y đề nghị Hội đồng trọng tài giải quyết theo nội dung: Công ty X muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng thì phải chịu chi phí phát sinh và thiệt hại tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra cho Công ty Y từ tháng 5/2015 đến hết tháng 4/2020 tương đương với số tiền 10.367.755.622 (bao gồm tổn thất chi phí đã chi và thiệt hại tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng). Trường hợp Công ty X muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng thì Công ty X phải chịu tổn thất chi phí phát sinh và thiệt hại tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra cho Công ty Y tương đương với số tiền là 3.264.505.157 đồng (gồm thiệt hại tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng và tổng chi phí đã chi). Ngày 16/1/2017 Hội đồng trọng tài đã họp và ban hành phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài đã phân tích sự việc về thẩm quyền của trọng tài và quy tắc trọng tài; về ngôn ngữ trọng tài; về địa điểm trọng tài; về luật áp dụng; về thời hiệu khởi kiện; về ý kiến của các bên về hành vi vi phạm hợp đồng. Trong đó, đặc biệt phân tích yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn về bồi thường thiệt hại: “Hội đồng trọng tài nhận thấy trong thời gian Bị đơn (Công ty Y) không cung cấp hàng cho cửa hàng miễn thuế thì Nguyên đơn (Công ty X) vẫn duy trì hoạt động của Cửa hàng. Như vậy, Nguyên đơn phải tự chịu các chi phí phát sinh. Bởi vậy, yêu cầu của Nguyên đơn buộc Bị đơn phải bồi thường thiệt hại với số tiền là 181.398.000 đồng là không có căn cứ. Về yêu cầu của Bị đơn đề nghị Nguyên đơn phải chịu tổn thất chi phí phát sinh và thiệt hại HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 87 tổn thất với số tiền là 10.367.755.622 đồng (trường hợp Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng) hoặc 3.264.505.157 đồng (trường hợp Nguyên đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng), do Bị đơn không có đơn kiện lại và cũng không xuất trình bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh cho các yêu cầu này nên Hội đồng Trọng tài không xem xét. Hội đồng trọng tài quyết định: 1. Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh Cửa hàng miễn thuế L ký ngày 20/1/2000 giữa Công ty X và Công ty Y. 2. Không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về buộc Bị đơn phải bồi thường thiệt hại với số tiền là 181.398.000 đồng. Ngoài ra, Hội đồng trọng tài còn quyết định về phí trọng tài và giá trị của phán quyết trọng tài.” 2. Những vấn đề trao đổi 2.1. Thẩm quyền xem xét yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của Pháp luật về Trọng tài thương mại Theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010, thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một thoả thuận riêng biệt. Khi xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài một cách độc lập với hiệu lực của quan hệ pháp luật đang tranh chấp. Việc thay đổi, gia hạn, huỷ bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài. Như vậy, cốt lõi của thỏa thuận trọng tài phải thể hiện rõ ý chí và sự thống nhất ý chí của các bên trong việc lựa chọn tổ chức trọng tài có thẩm quyền. Vụ án trên có thỏa thuận trọng tài hợp pháp, xác định đúng thẩm quyền của trọng tài. Theo đó, trong trường hợp có tranh chấp thì hai bên nhất trí lựa chọn Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VIAC) giải quyết theo tố tụng trọng tài và luật pháp Việt Nam. Hội đồng trọng tài thuộc VIAC đã thành lập theo quy tắc tố tụng của VIAC có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên. Quyền khởi kiện (Quyền yêu cầu) của đương sự là một quyền tố tụng được Pháp luật TTDS ghi nhận và bảo vệ. Cơ sở để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án và trọng tài là thoả thuận trọng tài giữa các bên. Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Tại khoản 2 Điều 31 BLTTDS năm 20153 dẫn chiếu tới Luật trọng tài thương mại, trong đó ghi nhận về thẩm quyền theo loại việc của Tòa án đối với “Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.” Tương tự như xác định quyền khởi kiện (quyền yêu cầu) của các chủ thể trong các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng khác), Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của tập thể của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm4. Bản chất của quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này giả thiết bị tranh chấp hay bị vi phạm mà chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp Luật hoặc luật khác liên quan (luật có quy 3 Ngày 25/11/2015 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được Quốc hội Khóa 13 thông qua theo Luật số 92/2015/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 (BLTTDS năm 2015). 4 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.132. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 88 phạm điều chỉnh một hoặc nhiều quan hệ dân sự) có quy định khác. Xét về thực chất thì đây là quyền của chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm trong việc bắt đầu khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, thông qua việc đệ đơn yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Việc ghi nhận từ Luật trọng tài thương mại năm 2010 đến BLTTDS năm 2015 quyền yêu cầu của đương sự theo thủ tục tố tụng dân sự về hủy phán quyết trọng tài là một cơ chế để khắc phục sai sót của phán quyết trọng tài. Đây cũng là một quy định đảm bảo quyền tiếp cận công lý của doanh nghiệp với tính chất là “khả năng của một cá nhân trong việc tìm kiếm và thu nhận được sự phản hồi đối với yêu cầu của cá nhân đó để giải quyết sự xung đột, khống chế được sự lạm dụng quyền lực và bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình một cách công bằng, thông qua một quá trình minh bạch, một cơ chế có tính khả thi và có trách nhiệm giải trình rõ ràng”5. Khi xem xét về quyền yêu cầu này, chúng ta cần lưu ý những đặc thù riêng về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện như sau: Thứ nhất, Một bên hoặc các bên đương sự trong phán quyết trọng tài đều có quyền chủ thể tự mình hoặc nhờ người khác trong quan hệ đại diện hợp pháp yêu cầu hủy phán quyết trọng tài khi đáp ứng được các điều kiện luật định. Thứ hai, điều kiện yêu cầu xem xét hủy quyết định trọng tài: (i) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài; (ii) Có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật trọng tài thương mại năm 2010 “về các căn cứ hủy phán quyết trọng tài”. Khi đương sự làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài, đương sự phải gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp. Có thể nói, thực hiện quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thương mại cũng là một trong những nội dung của quyền tự định đoạt của đương sự, đồng thời tạo cơ chế giám sát để đảm bảo tính hợp pháp, công bằng của phán quyết trọng tài. Đương sự có quyền quyết định việc yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết. Trong quá trình giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội6. Khi đương sự có quyền, lợi ích bị vi phạm, tranh chấp họ được lựa chọn hình thức bảo vệ quyền của mình theo hướng yêu cầu Tòa án giải quyết hay hình thức bảo vệ quyền khác. Với vai trò là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Tòa án có trách nhiệm phải thụ lý, giải quyết các vụ việc theo nhiệm vụ, quyền hạn được giao. 2.2. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ghi nhận các căn cứ huỷ phán quyết trọng tài bao gồm: - Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu; - Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này; - Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ; - Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài; 5 Trịnh Tiến Dũng – Chương trình Hội thảo “Tiếp cận với pháp luật và Tư pháp trong pháp luật Việt Nam”, Ngày 21 & 22 tháng 6 năm 2007, Hà nội -Trung tâm thông tin tư vấn pháp luật Việt-Mỹ Trực thuộc Hội Luật gia Việt Nam. 6 Điều 5 BLTTDS 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2011. Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 89 - Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Đối chiếu các căn cứ trong luật với tình tiết vụ án trên, khi giải quyết theo tố tụng trọng tài, nguyên đơn yêu cầu chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh và buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại. Bị đơn cũng có yêu cầu nguyên đơn phải chịu tổn thất chi phí phát sinh và thiệt hại, tổn thất trong trường hợp nguyên đơn chấm dứt hợp đồng hoặc trong trường hợp nguyên đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, theo phán quyết trọng tài, Hội đồng trọng tài chỉ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh Cửa hàng miễn thuế L ký ngày 20/1/2000 giữa Công ty X và Công ty Y mà không xem xét giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng. Sau khi nhận được phán quyết trọng tài, một hoặc hai bên yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài. Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, về căn cứ hủy quyết định trọng tài trong trường hợp này, có các quan điểm tranh luận khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, Quyết định của Trọng tài trong vụ án trên không thuộc căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Cơ sở của quan điểm này xuất phát từ việc đối chiếu với khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, vụ án trên có liên quan đến 2 căn cứ để xem xét (i) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; (ii) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, không đủ cơ sở để khẳng định chứng cứ do các bên cung cấp là giả mạo. Hội đồng trọng tài cũng đã phân tích về yêu cầu của các bên trong đó có yêu cầu bồi thường thiệt hại, xét thấy chưa đủ căn cứ nên khi ban hành phán quyết trọng tài đã không đề cập đến việc xử lý hậu quả khi chấm dứt hợp đồng. Quan điểm thứ hai cho rằng, Quyết định của Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam, đặc biệt là việc không đảm bảo tính toàn diện của phán quyết trọng tài khi không phân tích căn cứ chấm dứt hợp đồng, cũng như việc giải quyết hậu quả của hủy bỏ hợp đồng mặc dù đương sự có yêu cầu và không từ bỏ yêu cầu của mình. Việc vi phạm nguyên tắc cơ bản này đã đồng thời dẫn đến vi phạm tiếp nguyên tắc cơ bản về việc bảo hộ tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh đã được quy định trong Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp) năm 2013 (khoản 3 Điều 51) và Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 (khoản 1 Điều 163). Với các quan điểm tranh luận khác nhau về việc vận dụng quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, chúng tôi cho rằng cần nhìn nhận vấn đề trên cơ sở xác định các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam và tính toàn diện khi xem xét và phán quyết về yêu cầu của các đương sự trong tố tụng trọng tài. Thứ nhất, xác định nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam để làm căn cứ đánh giá có hay không có sự vi phạm các nguyên tắc cơ bản. Quan hệ tranh chấp trong vụ án trên là quan hệ hợp đồng hợp tác kinh doanh, Hội đồng trọng tài đã nhận định áp dụng luật theo Pháp luật Việt Nam. Như vậy, căn cứ để xác định nguyên tắc cơ bản trước tiên được ghi nhận trong Hiến pháp, trong Luật chung là Bộ luật dân sự và các luật có liên quan (luật chuyên ngành). Các quy định trong Hiến pháp được thừa nhận là các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam và được cụ thể hóa bằng các đạo luật; Hiến pháp năm 2013 kế thừa các quy định về quyền sở hữu của tổ chức và cá nhân được quy định trong các bản Hiến pháp năm 1980, năm 1992, đã quy định tại khoản 3 Điều 51 như sau: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chưć đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.” HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 90 BLDS năm 2015 kế thừa các quy định về việc ghi nhận các nguyên tắc cơ bản trong BLDS năm 1995, BLDS năm 2005, thay vì quy định các nguyên tắc cơ bản của BLDS thành một chương như BLDS năm 2005 thì đã quy định thành một điều “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự”7. Đồng thời, BLDS năm 2015 cụ thể hóa quy định tại Điều 51 Hiến pháp năm 2013 để xác lập nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu (Điều 163) và bảo vệ quyền sở hữu (Điều 164) như sau: (1) Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. (2) Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đối chiếu với các quy định của Hiến pháp và pháp luật, tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh trên thuộc trường hợp liên quan đến nguyên tắc tự do cam kết, tự nguyện thỏa thuận và nguyên tắc phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự; xử lý hậu quả của tranh chấp trên cần căn cứ vào nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu: quyền sở hữu không thể bị hạn chế hay tước đoạt trái luật và chủ sở hữu tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thứ hai, xử lý hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng. Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo tính toàn diện của phán quyết trọng tài khi đương sự có yêu cầu giải quyết thì cần phải xem xét trên cả phương diện thỏa thuận trong hợp đồng của các bên và quy định của pháp luật. Điều này xuất phát từ những cơ sở sau: Một là, yêu cầu của phán quyết trọng tài: Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm, phán quyết kết thúc toàn bộ quá trình tố tụng giải quyết vụ án, xác định sự thật khách quan, rút ra những kết luận về những vấn đề cần phải giải quyết đối với vụ án, làm căn cứ cho những quyết định xử lý cụ thể. Do đó, để đảm bảo tính pháp lý của phán quyết trọng tài, phán quyết ấy phải xuất phát từ yêu cầu chung của việc xét xử là khách quan toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật. Trong trường hợp này, Hợp đồng đã ghi nhận ý chí của các bên, trường hợp chấm dứt Hợp đồng thì phải thực hiện việc thanh lý tài sản, phân chia tài sản cho các bên. Theo thỏa thuận trong Hợp đồng, tài sản của Cửa hàng do Công ty Y xây dựng và trang bị, đây là những tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của Công ty Y. Tuy nhiên, Phán quyết trọng tài trong trường hợp nói trên đã không đảm bảo được việc giải quyết đúng và đầy đủ vụ án theo quy định của pháp luật khi quyết định chấm dứt hợp đồng hợp tác giữa nguyên đơn và bị đơn, nhưng không giải quyết triệt để về hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng, giải quyết thiệt hại của các bên phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng. Sau phán quyết này, Công ty X được chiếm hữu trái pháp luật những tài sản thuộc quyền sở hữu của Công ty Y đã trang bị cho Cửa hàng và không cần phải thực hiện nghĩa vụ thanh lý tài sản, hoàn trả cho Công ty Y những gì thuộc sở hữu của họ. Như vậy, quyền sở hữu tài sản của Công ty Y tại Cửa hàng không được bảo vệ, những thiệt hại và quyền lợi hợp pháp của Công ty Y không được giải quyết. Hai là, bảo đảm quyền tố tụng của các đương sự, với việc Hội đồng trọng tài không phán quyết về xử lý hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng, thì vấn đề đặt ra là, khi phán quyết trọng tài được ban hành, các bên có yêu cầu 7 Xem Điều 3 Bộ luật dân sự 2015. Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 91 Tòa án hoặc trọng tài giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng thì trường hợp này lại vướng về quy định về điều kiện khởi kiện “Sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng người khởi kiện có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật”8. Toà án không giải quyết những tranh chấp có cùng nội dung, cùng nguyên đơn, bị đơn đến lần thứ hai. Nếu vụ án đã được Toà án giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì Toà án không thụ lý, trừ một số trường hợp mà pháp luật có quy định khác. Việc xác định quyền khởi kiện lại trong trường hợp này chưa có hướng dẫn cụ thể thống nhất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vô hình chung quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đặc biệt là Công ty Y không được bảo đảm. Ba là, xem xét thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật về giải quyết hậu quả pháp lý khi chấm dứt hợp đồng. Theo Hợp đồng, Công ty X và Công ty Y có thỏa thuận về điều khoản thanh lý tài sản khi chấm dứt Hợp đồng. Tuy nhiên, việc Hội đồng trọng tài không giải quyết về hậu quả của chấm dứt hợp đồng làm cho thỏa thuận về thanh lý tài sản không thể thực hiện được trên thực tế. Điều này cho thấy sự không toàn diện trong phán quyết trọng tài với việc giải quyết không triệt để yêu cầu của các đương sự. Theo các quy định của Pháp luật hiện hành, để nâng cao trách nhiệm của các bên trong thực hiện cam kết, hạn chế những rủi ro pháp lý khác có liên quan trong thực hiện hợp đồng, Pháp luật dân sự ghi nhận các trường hợp chấm dứt hợp đồng và xử lý hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng. Từ thời điểm giao kết hợp đồng năm 2000 áp dụng BLDS năm 1995 và các luật có liên quan, đến thời điểm xảy ra tranh chấp, BLDS đã có hai lần sửa đổi (BLDS năm 2005 đến BLDS năm 2015), Pháp luật dân sự kế thừa và phát triển các căn cứ chấm dứt từ Điều 418 (BLDS năm 1995), đến Điều 422 BLDS năm 2015. Về cơ bản trong các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo luật định, tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Công ty X và Công ty Y thuộc trường hợp hợp đồng bị hủy bỏ. Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận cụ thể hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng (tại Điều 427) trong đó có nghĩa vụ hoàn trả, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và một số các chế tài do vi phạm hợp đồng. So với BLDS năm 1995, BLDS năm 2015 có quy định cụ thể, hợp lý, công bằng hơn về hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng theo hướng, khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp; các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường. Huỷ bỏ hợp đồng là chế tài mà bên có quyền bị vi phạm được quyền áp dụng khi hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Tuy nhiên, BLDS không quy định các điều kiện chung áp dụng chế tài này trong mọi hợp đồng mà chỉ quy định trong một số loại hợp đồng thông dụng. Luật thương mại 8 Điểm c, khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 về “Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện”. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 92 lại có cách tiếp cận khác. Theo quy định tại Điều 312 Luật thương mại năm 2005 chế tài huỷ hợp đồng được áp dụng khi: (i) xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để huỷ bỏ hợp đồng hoặc (ii) một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, đối với các tranh chấp thương mại, ngay cả khi các bên không thoả thuận về điều kiện huỷ hợp đồng, bên có quyền vẫn có thể huỷ bỏ hợp đồng khi xảy ra vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Hậu quả pháp lý của hợp đồng bị huỷ bỏ cũng giống như hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, đó là “hiệu lực trở về trước”: khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng bị coi là không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại. Như vậy, có thể áp dụng tương tự nghĩa vụ hoàn trả của hợp đồng vô hiệu cho giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng bị huỷ bỏ. Một vấn đề cần phải đặt ra xem xét liên quan tới hậu quả pháp lý “hiệu lực trở về trước”: hợp đồng bị huỷ bỏ bị coi là không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, vậy điều khoản phạt hợp đồng (nếu có), liệu có bị huỷ bỏ cùng với hợp đồng hay không? Nếu khẳng định là có thì rõ ràng người có quyền bị vi phạm sẽ rơi vào thế bất lợi vì không được viện dẫn điều khoản phạt do vi phạm hợp đồng để đòi bồi thường theo mức phạt, mà phải chứng minh tổn thất xảy ra. Theo chúng tôi, cần phải tiếp cận vấn đề bằng cách phân tích sự khác biệt về bản chất của hợp đồng vô hiệu và huỷ bỏ hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng bị tuyên vô hiệu, vào thời điểm giao kết, hợp đồng đã không hội tụ đủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nên không có hiệu lực pháp luật, còn trong huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng đã từng tồn tại và từng có hiệu lực pháp luật, việc huỷ bỏ hợp đồng chỉ là chế tài xử lý việc vi phạm một nghĩa vụ từ hợp đồng đó. Vì vậy, huỷ bỏ hợp đồng luôn kèm theo việc người vi phạm nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Nói cách khác, hành vi vi phạm nghĩa vụ của một bên làm phát sinh hai chế tài: chế tài hủy bỏ hợp đồng và chế tài bồi thường thiệt hại. Do đó, nếu các bên đã có thoả thuận trước về cơ chế bồi thường thiệt hại thông qua một điều khoản phạt do vi phạm hợp đồng thì Hội đồng trọng tài phải tôn trọng sự thoả thuận đó mà không nên cứng nhắc coi rằng thỏa thuận về chế tài này bị tiêu trừ khi hợp đồng bị huỷ bỏ. Việc một bên vi phạm nghĩa vụ cũng có thể gây thiệt hại cho bên kia nên ngoài chế tài huỷ bỏ hợp đồng, bên có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bốn là, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự: về nguyên tắc, Hội đồng trọng tài được quyền không xem xét về hậu quả khi tuyên bố chấm dứt hợp đồng trong trường hợp các đương sự không có yêu cầu. Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài phải giải thích rõ cho đương sự. Về vấn đề này, thực tiễn xét xử ở Việt Nam đã có những hướng dẫn có thể áp dụng tương tự. Cụ thể là, tại mục 2 phần III Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 7 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ “Khi giải quyết vụ án dân sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án phải giải thích cho các đương sự về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án. Trường hợp Tòa án đã giải thích nhưng tất cả đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không phải giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; trừ trường hợp đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba”. Liên quan đến việc xem xét việc áp dụng tương tự pháp luật, tức là dùng Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 93 những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực đối với những quan hệ tương tự như quan hệ cần xử lý để điều chỉnh quan hệ cần xử lý đó, nhưng không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh. Đây là những quan hệ xã hội mà pháp luật chưa dự liệu, chưa có quy định nhưng trong thực tiễn đã nảy sinh quan hệ gần giống như quan hệ mà pháp luật đã quy định nên Tòa án sử dụng quy định hiện có gần giống để giải quyết quan hệ đã nảy sinh mà chưa được luật hóa. Đối với vấn đề này luật pháp nước ta đã quy định từ lâu và thực tiễn là Tòa án đã áp dụng để giải quyết các vụ việc dân sự. Quan hệ hợp đồng gắn kết các bên bởi lợi ích, vì vậy cũng dễ phát sinh tranh chấp khi có xung đột về lợi ích. Sự xung đột này thường xuất hiện do có hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các cam kết trong hợp đồng. Khi có tranh chấp các bên thường tìm đến các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau để giải tỏa xung đột, bất đồng, mâu thuẫn về lợi ích, tạo lập lại sự cân bằng về lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Áp dụng các quy định về trọng tài, đặc biệt là hủy phán quyết định trọng tài ảnh hưởng đến uy tín của trọng tài và ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài, do đó phải rất thận trọng khi đánh giá và xem xét căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, trong trường hợp một phán quyết trọng tài vi phạm những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Tòa án cần xem xét để đưa ra quyết định hủy bỏ phán quyết trọng tài để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên./. Tóm lại, cấp phép hành chính là phương thức quản lý hành chính nhà nước quan trọng để Nhà nước điều tiết linh hoạt các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong cơ chế thực hiện pháp luật hành chính, cấp phép hành chính là cầu nối linh hoạt, bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả giữa năng lực pháp luật phổ biến và năng lực thực tế để thực hiện quyền, giải trừ nghĩa vụ cụ thể của chủ thể được cấp phép. Tuy vậy, việc nhận diện cấp phép hành chính ở Việt Nam hiện nay chưa được nghiên cứu và quy định toàn diện, thống nhất, hợp lý trong hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Do đó, việc nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn để luật hóa những yêu cầu pháp lý chung, cơ bản đối với cấp phép hành chính trên tất cả các lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước là nhiệm vụ cấp thiết mà các nhà nghiên cứu lập pháp ở Việt Nam phải tính đến trong giai đoạn hiện nay./. NHẬN DIỆN CẤP PHÉP HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM (Tiếp theo trang 84)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhuy_phan_quyet_trong_tai_binh_luan_tu_goc_nhin_mot_vu_an.pdf
Tài liệu liên quan