Các chẩn đoán phân biệt bao gồm một tổn thương
choán chỗ dạng nang ở hố sau như dị dạng DandyWalker, nang màng nhện, hoặc phình tĩnh mạch Galen,
cũng như khối u như u quái, u mỡ, hoặc nang bì[17,
19]. Dị dạng Dandy-Walker và nang mạng nhện khác
với dị dạng xoang tĩnh mạch màng cứng do có hồi âm
trống thành mỏng, không có dòng máu trên hình ảnh
Doppler màu, và tín hiệu tương đương với dịch não
tủy[10]. Dị dạng tĩnh mạch Galen có thể phân biệt với
huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch nhờ vào vị trí,
do thường ở rãnh mạch mạc và lan vào lỗ gian não thất
đến tuyến tùng[20].
Tư vấn trước sinh khó khăn do tiến triển của bệnh
trong và sau sinh rất đa dạng. Huyết khối có thể có
các xoang tĩnh mạch trưởng thành bình thường, và
tiên lượng tốt, hoặc gây tắc tất cả các đường thoát
tĩnh mạch, dẫn đến nhồi máu xuất huyết trong nhu mô
não[12, 18]. Thêm vào đó, sung huyết tĩnh mạch do rối
loạn dẫn lưu tĩnh mạch dẫn đến thoát vị hạnh nhân tiểu
nào vào lỗ lớn xương chẩm và dãn não thất, là những
dấu hiệu tiên lượng xấu[17]. Ngoài những dị tật về thần
kinh như co giật, kích thích, chậm phát triển ý thức,
bệnh nhân có thể có nguy cơ suy tim cung lượng cao và
đông máu nội mạch lan tỏa[17]. Tuy nhiên, những biến
chứng về huyết động toàn thân hiếm thấy vì dòng chảy
vận tốc thấp của các thông nối động – tĩnh mạch[3, 12].
Những bất thường ở não kèm theo như nhồi máu
và xuất huyết não thất, biến dạng giải phẫu nhu mô
não, trưởng thành sớm, huyết khối do những bệnh lý
có sẵn, và các dấu hiệu của suy tim gợi ý đến các yếu
tố tiên lượng xấu, trong khi đó sự ly giải huyết khối tự
nhiên và đường kính lưỡng đỉnh bình thường là những
dấu hiệu tiên lượng tốt[10, 11]. Laurichesse Delmas et
al[11] gợi lý biểu đồ tư vấn và quản lý huyết khối hội lưu
các xoang tĩnh mạch và các xoang hố phía sau (Sơ đồ
bên dưới).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng tổng quan và báo cáo ca, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PBPB
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201898
HUYẾT KHỐI HỘI LƯU CÁC
XOANG TĨNH MẠCH MÀNG CỨNG
TỔNG QUAN VÀ BÁO CÁO CA
Dural venous sinus thrombosis:
an overview and case report
Phạm Thị Thùy Dương*, Trần Công Trình**, Hà Tố Nguyên*
1. Tóm tắt
Chẩn đoán huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch
màng cứng trước sinh rất hiếm gặp, và dễ dẫn đến
chẩn đoán nhầm. Siêu âm kèm hình ảnh Doppler màu
là chìa khóa để chẩn đoán huyết khối hội lưu các xoang
tĩnh mạch màng cứng trước sinh. Các dấu hiệu điển
hình trên siêu âm bao gồm một cấu trúc hồi âm dày –
do huyết khối, nằm trong vùng hội lưu hồi âm trống hình
tam giác giới hạn rõ ở vùng chẩm – là hội lưu các xoang
tĩnh mạch màng cứng. Cộng hưởng từ thai là phương
tiện hỗ trợ để chẩn đoán, giúp cung cấp thêm các thông
tin chính xác về giải phẫu và đặc tính hóa tổn thương
tốt hơn. Chúng tôi xin phép giới thiệu một trường hợp
huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng,
được theo dõi định kỳ bằng siêu âm và cộng hưởng
từ, đồng thời cũng xem lại trong y văn những trường
hợp được chẩn đoán huyết khối hội lưu các xoang tĩnh
mạch màng cứng trước sinh.
Các từ khóa: Huyết khối, hội lưu các xoang tĩnh
mạch màng cứng, siêu âm, cộng hưởng từ (MRI).
Phương pháp: Báo cáo một trường hợp, theo dõi
tiến cứu.
2. Giới thiệu
Hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng là vùng
hội lưu của xoang tĩnh mạch dọc trên, xoang thẳng,
xoang chẩm và xoang ngang.[1] Về mặt siêu âm, hội
lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng là một vùng tam
giác hồi âm trống hay một cấu trúc kéo dài phía dưới
xương chẩm và phía sau tiểu não, ngay bên trong vòm
sọ.[2] Dãn hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng là
một biến thể của dị dạng xoang tĩnh mạch màng cứng,
* Khoa CĐHA – Bệnh viện Từ Dũ
** Khoa CĐHA- bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Central
park, TP HCM
ABSTRACT:
Torcular herophili is the site of the confluence of superior sagittal sinus, tranverse sinus, straight sinus and
occipital sinus [1]. Anatomy of torcular herophili is highly variable. Dilatation of torcular herophili is presented as an
anechoic triangular structure, with venous flow communicated with other sinuses and cerebral veins.
Torcular herphili thrombosis is a rare cerebrovascular disorder[9, 11, 13, 15], and the prenatal diagnosis of
this condition is difficult. This condition can be caused by the abnormalities that produce prothrombotic states, such
as acute fetal distress, and congenital deficiency of anticoagulants such as antithrombin III, protein C, and protein
S[8]. Prenatal ultrasound is the firs-line modality for diagnosing and monitoring thrombosis of the torcular herophili.
In addition, color-Doppler ultrasound helps to differentiate this disorder from other cerebrovascular malformations
such as vein of Galen aneurysmal dilatation[5] and identify the presence of collateral vessels and its relationship
with other dural sinuses[6, 7]. As a complementary technique, MRI can provide additional information to rule out
secondary cerebral damages and associated brain malformations. Prognosis of this disorder is highly variable,
ranging from spontaneous resolution with a normal neurologic outcome to severe neurologic deficits and death.
We present 1 case of thrombosis of ectatic torcular herophili with serial sonographic and magnetic resonance
imaging (MRI) examinations, along with review of literature of this condition. Besides, we have a routine follow-up of
the new-born mental development until now.
Keywords: thrombosis, torcular herophili, ultrasound, magnetic resonance imaging (MRI).
Method: case-report, prospective study from July 2017 until now.
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 99
với một hồ tĩnh mạch lớn có dòng chảy rất chậm thông
với các xoang tĩnh mạch khác và các tĩnh mạch não[3,
4]. Dị dạng xoang tĩnh mạch màng cứng là một loại của
dò động – tĩnh mạch màng cứng bẩm sinh và được
phân loại thành 2 nhóm: nhóm ở đường giữa với những
túi khổng lồ và nhóm nằm ở bên liên quan đến hành
cảnh. Sự phá vỡ dẫn lưu tĩnh mạch vào hội lưu các
xoang tĩnh mạch dẫn đến huyết khối, đây là bệnh sử
tự nhiên của dị dạng xoang tĩnh mạch màng cứng[3].
Chẩn đoán huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch
màng cứng trước sinh rất hiếm gặp, và đôi khi chẩn
đoán nhầm do không quen thuộc với bệnh lý này. Tiên
lượng của bệnh lý này rất đa dạng, từ ly giải huyết khối
tự nhiên với sự phát triển thần kinh bình thường, đến
những khiếm khuyết thần kinh nghiêm trọng và tử vong.
Chúng tôi xin giới thiệu một trường hợp huyết khối
hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng được siêu âm
kiểm tra định kỳ và chụp cộng hưởng từ (MRI), cũng
như xem lại trong y văn những trường hợp được chẩn
đoán huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch trước sinh.
3. Báo cáo trường hợp
Một thai phụ 31 tuổi, PARA 1001, đến bệnh viện
chúng tôi với chẩn đoán khối u ở hố sọ sau phát hiện lúc
siêu âm 4D ở bệnh viện khác. Chúng tôi thực hiện siêu
âm lại ở tuần thứ 22 - 23 của thai kỳ. Người mẹ không có
yếu tố nguy cơ của bệnh hệ thống hay yếu tố gây huyết
khối như thiếu máu, mất nước, rối loạn đông máu.
Siêu âm qua thành bụng được thực hiện trên máy
Samsung HS70A với các đầu dò đa tần số từ 3.5 đến
9 MHz. Siêu âm cho thấy một cấu trúc dạng nang hình
tam giác, nằm ở vùng chẩm tầng trên lều. Bên trong cấu
trúc này, hiện diện một khối hồi âm dày 45x22x27mm,
phù hợp với huyết khối (Hình 1).
Hình 1. Thai nhi 22-23 tuần, được siêu âm 2D qua mặt phẳng sagittal (A) và axial (B) cho thấy một cấu trúc hình
tam giác dạng nang ở tầng trên lều (mũi tên), bên trong có cấu trúc echo dày đồng nhất, giới hạn rõ, phù hợp
với huyết khối (mũi tên gạch).
Vì chẩn đoán huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng là chẩn đoán hiếm gặp, chúng tôi phải chẩn
đoán phân biệt với các bệnh lý khác như dị dạng Dandy-Walker, nang màng nhện, hoặc phình tĩnh mạch Galen,
cũng như khối u như u quái, u mỡ, hoặc nang bì.
Thai phụ được tiếp tục theo dõi và thực hiện siêu âm lại ở tuần 26-27 của thai kỳ. Siêu âm cho thấy huyết khối
tăng kích thước 43x26x35mm và thay đổi độ hồi âm bên trong (hình 2). Hình ảnh Doppler màu cho thấy dòng chảy
tĩnh mạch bên trong cấu trúc tam giác dạng nang, nằm ở vị trí hội lưu của các xoang tĩnh mạch màng cứng (Hình 3).
Hình 2. Thai nhi 26-27 tuần, siêu âm 2D với các mặt phẳng sagittal (A) và axial (B) qua hội lưu
các xoang tĩnh mạch cho thấy một cấu trúc dạng nang hình tam giác (mũi tên),
bên trong có huyết khối (mũi tên gạch) với kích thước 43x26x35mm.
B
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018100
Hình 3. Thai nhi 26 – 27 tuần, siêu âm Doppler màu
ở mặt phẳng sagittal cho thấy cấu trúc dãn hình
tam giác có tín hiệu Doppler nằm ở vị trí hội lưu của
xoang tĩnh mạch dọc trên (mũi tên) và xoang thẳng
(mũi tên gạch).
Thai phụ được chụp cộng hưởng từ (MRI) để chẩn
đoán xác định.
Cộng hưởng từ (MRI) được thực hiện trên hệ
thống Siemens 1.5T MAGNETOM Avanto (Siemens
Healthcare, Erlangen, Germany) được thực hiện ở tuần
26-27 của thai kỳ, không tiêm thuốc tương phản, các
chuỗi xung T2WI theo các hướng sagittal, axial; axial
T1WI và Diffusion. Cộng hưởng từ (MRI) thai cho thấy
một cấu trúc hình tam giác có tín hiệu trung gian trên
T2WI kích thước = 46x28x31mm ở vùng chẩm, trung
tâm của cấu trúc này hiện diện một khối có viền tín
hiệu cao trên T1WI và thấp trên T2WI, giới hạn khuếch
tán trên Diffusion (hình 4). Cộng hưởng từ cho thấy tổn
thương nằm ở vị trí của hội lưu các xoang tĩnh mạch
màng cứng, xác định chẩn đoán huyết khối hội lưu các
xoang tĩnh mạch màng cứng.
Hình 4. Cộng hưởng từ (MRI) với các chuỗi xung T2WI theo các hướng sagittal (A), axial (B); axial T1WI (C) và
Diffusion (D) cho thấy một cấu trúc hình tam giác là hội lưu các xoang tĩnh mạch (mũi tên) có tín hiệu trung gian
trên T2WI ở hố sau, vùng trung tâm của cấu trúc này hiện diện một khối (mũi tên gạch) có viền tín hiệu cao trên
T1WI và thấp trên T2WI, giới hạn khuếch tán trên Diffusion
Thai phụ được theo dõi định kỳ và thực hiện siêu âm 2D và Doppler màu ở tuần 30-31 của thai kỳ cho thấy
huyết khối tăng kích thước 55x45x60mm và có hồi âm không đồng nhất. Trong suốt quá trình theo dõi bằng siêu
âm, siêu âm Doppler màu được thực hiện để giúp phân biệt huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch với các dị dạng
B
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 101
mạch máu não khác như phình dãn tĩnh mạch Galen.
[5]14 và giúp xác định sự hiện diện các mạch máu bàng
hệ và mối liên quan của huyết khối với các xoang màng
cứng khác.[6, 7]15,16
Cộng hưởng từ (MRI) được thực hiện lần thứ hai
vào tuần 30-31 của thai kỳ cho thấy huyết khối nằm
trong hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng tăng kích
thước và có tạo hiệu ứng khối chèn ép bán cầu tiểu não
hai bên. Tổn thương có viền tín hiệu cao trên T1WI, với
viền tăng tín hiệu và vùng trung tâm giảm tín hiệu trên
T2WI, không xuất huyết hoặc thiếu máu nhu mô não
(Hình 5).
Hình 5. Cộng hưởng từ (MRI) chuỗi xung T2WI trên các mặt phẳng sagittal (A) và axial (B) được thực hiện lần
thứ hai vào tuần 30-31 của thai kỳ cho thấy huyết khối ở hội lưu các xoang tĩnh mạch màng cứng (mũi tên) tăng
kích thước và có tạo hiệu ứng khối chèn ép bán cầu tiểu não (mũi tên gạch).
Em bé được sinh mổ vào tuần 36-37 của thai kỳ
với thang điểm Apgar 9 ở phút thứ 1, và 10 điểm ở phút
thứ 5. Cân nặng của trẻ là 3000g, đường kính vòng
đầu 33 cm.
Theo dõi cho đến thời điểm hiện tại, em bé phát
triển tâm thần – vận động bình thường theo tuổi, không
có các biểu hiện khiếm khuyết thần kinh.
4. Bàn luận
Huyết khối các xoang tĩnh mạch màng cứng ở
trẻ em có thể do những bất thường dẫn đến sản xuất
prothrombin, như mất nước, choáng, homocystine
niệu, bạch cầu cấp dòng nguyên bào lympho, giảm oxy
chu sinh, giảm hồng cầu máu, xuất huyết quanh não
thất, viêm màng não, suy thai cấp, và những rối loạn
đông máu bẩm sinh như thiếu antithrombin III, protein
C, và protein S[8]. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường
hợp được chẩn đoán trước sinh, không ghi nhận các
bệnh lý có sẵn[6, 9-11]. Trong những trường hợp này,
huyết khối tĩnh mạch được cho là thứ phát trên nền dị
dạng xoang tĩnh mạch màng cứng và xảy ra do hậu
quả của bất thường phát triển xoang tĩnh mạch kèm rối
loạn dòng chảy, những thay đổi của lớp tế bào nội mô,
và những thông nối dòng chảy chậm ở các thành của
xoang tĩnh mạch[8]. Cơ chế sinh bệnh học của dị dạng
xoang tĩnh mạch màng cứng được cho là dãn sinh lý
kéo dài của xoang ngang hoặc phần sau của xoang
tĩnh mạch dọc trên trong tháng thứ tư đến tháng thứ
sáu của thai kỳ, điều này dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch
kèm phát triển thứ phát các thông nối động – tĩnh mạch
màng cứng[12]. Một giả thuyết khác là sự phát triển quá
mức và hỗn loạn của các xoang tĩnh mạch liên quan
đến rối loạn khởi phát tại chỗ[13].
Mặc dù không có dữ liệu về tần suất của huyết khối
hội lưu các xoang tĩnh mạch, những chẩn đoán bệnh lý
này là chẩn đoán thường gặp nhất trong các bệnh lý
huyết khối thần kinh trong quá trình mang thai[11, 13-
15].
Siêu âm kèm hình ảnh Doppler màu là chìa khóa
để chẩn đoán huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018102
màng cứng trước sinh[11]. Biểu hiện trên siêu âm có
thể thay đổi tùy theo kích thước và giai đoạn hình thành
huyết khối (dẫn đến biến dạng những cấu trúc xung
quanh), nhưng những dấu hiệu điển hình trên siêu âm
bao gồm một cấu trúc chứa dịch hồi âm trống hình tam
giác giới hạn rõ ở vùng chẩm và một cấu trúc sinh hồi
âm bên trong, do huyết khối[4, 9]. Hình ảnh cấu trúc
tăng hồi âm hình tròn tương ứng với giai đoạn tạo huyết
khối hoàn toàn[16]. Khi huyết khối tiến triển, sẽ trở nên
ngày càng không đồng nhất, với các viền đồng tâm điển
hình của huyết khối[13]. Thêm vào đó, vẫn còn nhiều
tranh cãi về những mô tả của dòng máu chảy ở ngang
mức hội lưu các xoang tĩnh mạch trong y văn. Dòng
máu chảy được ghi nhận bị gián đoạn trong hầu hết
các trường hợp[6, 9-11]. Rossi et al[17] ghi nhận chỉ
có dòng chảy ở bờ huyết khối, có thể là một biểu hiện
của những thông nối động – tĩnh mạch ở thành thường
liên quan đến tổn thương, và sự thất bại trong việc phát
hiện dòng chảy bên trong lòng gợi ý đến dòng chảy có
vận tốc rất chậm. Legendre et al[18] báo cáo dòng chảy
vận tốc cao phù hợp với thông nối động – tĩnh mạch,
và Grange et al[16] báo cáo 2 vùng có dòng chảy chủ
động liên tục từ xoang thẳng và xoang dọc trên vào
cấu trúc dạng nang. Merzoug et al[13] cho thấy dòng
chảy mạch đập ở khối dạng nang trước khi hình thành
huyết khối. Những khác biệt về sự hiện hữu của dòng
chảy có thể liên quan đến kích thước của huyết khối,
có thể chiếm toàn bộ xoang tĩnh mạch dãn trong một số
trường hợp, cũng như vận tốc của máu chảy.
Như đã trình bày trong trường hợp này, cộng
hưởng từ (MRI) thai không làm thay đổi chẩn đoán,
nhưng có ích vì cung cấp các thông tin bổ sung khi có
tổn thương nhu mô não và để loại trừ sự hiện diện của
các dị dạng thần kinh kèm theo.[8, 13, 14, 19, 20]. Cộng
hưởng từ cũng giúp xác định thời điểm xuất hiện huyết
khối, có thể cung cấp các thông tin quan trọng để kiểm
soát thai kỳ sau đó và tham vấn cho thai phụ. Trong giai
đoạn cấp (dưới 3 ngày), deoxyhemoglobin bên trong
cục máu đông có thể có giảm tín hiệu trên T2WI, trong
khi đó huyết khối trở nên tăng tín hiệu trên T1WI do
sự hình thành metahemoglobin trong giai đoạn bán cấp
(dưới 10 ngày)[21].
Các chẩn đoán phân biệt bao gồm một tổn thương
choán chỗ dạng nang ở hố sau như dị dạng Dandy-
Walker, nang màng nhện, hoặc phình tĩnh mạch Galen,
cũng như khối u như u quái, u mỡ, hoặc nang bì[17,
19]. Dị dạng Dandy-Walker và nang mạng nhện khác
với dị dạng xoang tĩnh mạch màng cứng do có hồi âm
trống thành mỏng, không có dòng máu trên hình ảnh
Doppler màu, và tín hiệu tương đương với dịch não
tủy[10]. Dị dạng tĩnh mạch Galen có thể phân biệt với
huyết khối hội lưu các xoang tĩnh mạch nhờ vào vị trí,
do thường ở rãnh mạch mạc và lan vào lỗ gian não thất
đến tuyến tùng[20].
Tư vấn trước sinh khó khăn do tiến triển của bệnh
trong và sau sinh rất đa dạng. Huyết khối có thể có
các xoang tĩnh mạch trưởng thành bình thường, và
tiên lượng tốt, hoặc gây tắc tất cả các đường thoát
tĩnh mạch, dẫn đến nhồi máu xuất huyết trong nhu mô
não[12, 18]. Thêm vào đó, sung huyết tĩnh mạch do rối
loạn dẫn lưu tĩnh mạch dẫn đến thoát vị hạnh nhân tiểu
nào vào lỗ lớn xương chẩm và dãn não thất, là những
dấu hiệu tiên lượng xấu[17]. Ngoài những dị tật về thần
kinh như co giật, kích thích, chậm phát triển ý thức,
bệnh nhân có thể có nguy cơ suy tim cung lượng cao và
đông máu nội mạch lan tỏa[17]. Tuy nhiên, những biến
chứng về huyết động toàn thân hiếm thấy vì dòng chảy
vận tốc thấp của các thông nối động – tĩnh mạch[3, 12].
Những bất thường ở não kèm theo như nhồi máu
và xuất huyết não thất, biến dạng giải phẫu nhu mô
não, trưởng thành sớm, huyết khối do những bệnh lý
có sẵn, và các dấu hiệu của suy tim gợi ý đến các yếu
tố tiên lượng xấu, trong khi đó sự ly giải huyết khối tự
nhiên và đường kính lưỡng đỉnh bình thường là những
dấu hiệu tiên lượng tốt[10, 11]. Laurichesse Delmas et
al[11] gợi lý biểu đồ tư vấn và quản lý huyết khối hội lưu
các xoang tĩnh mạch và các xoang hố phía sau (Sơ đồ
bên dưới).
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 103
5. Kết luận
Khám nghiệm siêu âm trước sinh một cách hệ
thống có độ nhạy chẩn đoán tốt và hữu ích để đánh giá
sự tiến triển của cục huyết khối ở hội lưu các xoang tĩnh
mạch trong thai kỳ, nhưng hạn chế trong đánh giá nhu
mô não; do vậy, theo dõi bằng cộng hưởng từ (MRI)
trước sinh cần được cân nhắc để loại trừ những tổn
thương khác hoặc những dị dạng kèm theo và xác định
thời điểm cũng như tiến triển của huyết khối. Kết quả
của sự phát triển hệ thần kinh trong huyết khối hội lưu
các xoang tĩnh mạch nên đánh giá bằng các nghiên
cứu theo dõi trong thời gian dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Park, H.K., et al., Morphological study of sinus
flow in the confluence of sinuses. Clinical Anatomy,
2008. 21(4): p. 294-300.
2. Segal, S. and H. Rosenberg, Sonographic
appearance of the torcular Herophili. American journal
of roentgenology, 1986. 146(1): p. 109-112.
3. Pandey, V., K. Dummula, and P. Parimi,
Antenatal thrombosis of torcular herophili presenting
with anemia, consumption coagulopathy and high-
output cardiac failure in a preterm infant. Journal of
Perinatology, 2012. 32(9): p. 728.
4. Jenny, B., et al., Giant dural venous sinus
ectasia in neonates: Report of 4 cases. Journal of
Neurosurgery: Pediatrics, 2010. 5(5): p. 523-528.
5. Sepulveda, W., C. Platt, and N. Fisk, Prenatal
diagnosis of cerebral arteriovenous malformation using
color Doppler ultrasonography: case report and review
of the literature. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology,
1995. 6(4): p. 282-286.
6. Visentin, A., et al., Prenatal diagnosis of
thrombosis of the dural sinuses with real‐time and
color Doppler ultrasound. Ultrasound in obstetrics &
gynecology, 2001. 17(4): p. 322-325.
PBPB
DIỄN ĐÀN
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018104
7. Schwartz, N., et al., Thrombosis of an ectatic
torcular herophili: anatomic localization using fetal
neurosonography. Journal of ultrasound in medicine:
official journal of the American Institute of Ultrasound in
Medicine, 2008. 27(6): p. 989-991.
8. Byrd, S.E., et al., Fetal MR imaging of posterior
intracranial dural sinus thrombosis: a report of three
cases with variable outcomes. Pediatric radiology,
2012. 42(5): p. 536-543.
9. Clode, N., R. Gouveia, and L. Graca,
Prenatal diagnosis of thrombosis of the dural sinuses.
International Journal of Gynecology and Obstetrics,
2005. 91(2): p. 172-174.
10. Marc Gicquel, J., et al., Normal outcome
after prenatal diagnosis of thrombosis of the torcular
Herophili. Prenatal diagnosis, 2000. 20(10): p. 824-827.
11. Laurichesse Delmas, H., et al., Prenatal
diagnosis of thrombosis of the dural sinuses: report
of six cases, review of the literature and suggested
management. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology,
2008. 32(2): p. 188-198.
12. Komiyama, M., et al., Transumbilical
embolization of a congenital dural arteriovenous fistula
at the torcular herophili in a neonate: case report.
Journal of neurosurgery, 1999. 90(5): p. 964-969.
13. Merzoug, V., et al., Dural sinus malformation
(DSM) in fetuses. Diagnostic value of prenatal MRI and
follow-up. European radiology, 2008. 18(4): p. 692-699.
14. Fanou, E.M., et al., In utero magnetic
resonance imaging for diagnosis of dural venous sinus
ectasia with thrombosis in the fetus. Pediatric radiology,
2013. 43(12): p. 1591-1598.
15. Has, R., et al., Prenatal Diagnosis of Torcular
Herophili Thrombosis. Journal of Ultrasound in
Medicine, 2013. 32(12): p. 2205-2211.
16. Grangé, G., et al., Prenatal demonstration
of afferent vessels and progressive thrombosis in a
torcular malformation. Prenatal diagnosis, 2007. 27(7):
p. 670-673.
17. Rossi, A., et al., Prenatal MR imaging of dural
sinus malformation: a case report. Prenatal diagnosis,
2006. 26(1): p. 11-16.
18. Legendre, G., et al., Prenatal diagnosis
of a spontaneous dural sinus thrombosis. Prenatal
diagnosis, 2009. 29(8): p. 808-813.
19. Breysem, L., et al., Fetal magnetic resonance
imaging of an intracranial venous thrombosis. Fetal
diagnosis and therapy, 2006. 21(1): p. 13-17.
20. Spampinato, M.V., et al., Thrombosed fetal
dural sinus malformation diagnosed with magnetic
resonance imaging. Obstetrics & Gynecology, 2008.
111(2, Part 2): p. 569-572.
21. Sheerin, F. The imaging of the cerebral venous
sinuses. in Seminars in Ultrasound, CT and MRI. 2009.
Elsevier.
Người liên hệ: Hà Tố Nguyễn; Email: hatonguyen@gmail.com
Ngày nhận bài: 20/120/2017; Ngày chấp nhận đăng: 30/11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
huyet_khoi_hoi_luu_cac_xoang_tinh_mach_mang_cung_tong_quan_v.pdf