Như đã trình bày ở trên, biến đổi HilbertHuang là một kỹ thuật biến đổi phi tuyến có nhiều
ưu điểm và rất thích hợp với xử lý các tín hiệu phi
tuyến và không dừng. Các luận cứ của việc áp
dụng HHT trong chẩn đoán kết cấu xây dựng đã
được thảo luận trong nhiều nghiên cứu [1, 4, 6,
7]. Có thể tóm tắt ngắn gọn như sau: Ứng xử
(tĩnh học và động học) của bất kỳ một kết cấu xây
dựng nào khi chịu tác động của tải trọng thiết kế
sẽ là tuyến tính và đàn hồi. Khi kết cấu bị hư
hỏng thì độ bền của nó bị giảm xuống, và khi chịu
tác dụng của các tải trọng, thậm chí còn nhỏ hơn
tải trọng thiết kế, thì ứng xử của kết cấu sẽ xuất
hiện tính phi tuyến. Sự phi tuyến của ứng xử của
kết cấu có thể là hệ quả của các biến dạng không
đàn hồi của vật liệu hoặc có thể là do sự thay đổi
độ cứng của kết cấu do bị hư hỏng. Dao động đo
được trên kết cấu gây ra bởi một kích động cho
trước cần được tách ra thành những tần số riêng
phần như tần số của lực kích động, tần số dao
động tự nhiên của toàn bộ kết cấu hoặc của các
kết cấu cục bộ, hoặc cả hai và các tần số
nhiễu.để xem xét trong miền thời gian. Do HHT
là công cụ duy nhất (cho đến hiện nay) có thể
phân tích các tín hiệu phi tuyến và không dừng,
nên sử dụng HHT có thể xác định được những
thay đổi của các đặc tính dao động đo được trên
kết cấu theo miền thời gian, qua đó xác định
được vị trí và mức độ của hư hỏng
7 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 609 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết cấu công trình xây dưng - Ứng dụng biến đổi hilbert - Huang để chẩn đoán hư hỏng trong kết cấu dưới của cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 1/2016 25
ỨNG DỤNG BIẾN ĐỔI HILBERT-HUANG ĐỂ
CHẨN ĐOÁN HƯ HỎNG TRONG KẾT CẤU DƯỚI CỦA CẦU
PGS. TS. BÙI ĐỨC CHÍNH
Trường Đại học Giao thông vận tải
Tóm tắt: Bài báo này giới thiệu những kết quả nghiên cứu ban đầu về chẩn đoán hư hỏng của kết
cấu dưới công trình cầu dựa trên biến đổi Hilbert-Huang. Bài báo bao gồm: Nội dung của biến đổi
Hilbert; việc phân tích một tín hiệu thành các hàm dạng/mode bản chất theo phân tích dạng kinh
nghiệm và phân tích dạng kinh nghiệm quần thể; một số kết quả ban đầu trong áp dụng phổ giới hạn
Hilbert trong chẩn đoán hư hỏng của kết cấu dưới của công trình cầu.
Một số từ viết tắt
FFT Fast Fourier Transform (Biến đổi Fourier nhanh).
WT Wavelet Transform (Biến đổi Wavelet).
HT Hilbert Transform (Biến đổi Hilbert).
HHT Hilbert-Huang Transform (Biến đổi Hilbert-Huang).
IMS Intrinsic Mode Function (Hàm dạng/mode bản chất).
EMD Empirical Mode Decomposition (Phân tích dạng kinh nghiệm).
EEMD Ensemble Empirical Mode Decomposition (Phân tích dạng kinh nghiệm quần thể)
NHS Nominal Hilbert Spectrum (Phổ Hilbert danh định)
MHS Marginal Hilbert Spectrum (Phổ Hilbert giới hạn)
1. Đặt vấn đề
Khi trong công trình/kết cấu xuất hiện các hư
hỏng khuyết tật sẽ dẫn tới thay đổi các đặc trưng
động học như: Giảm độ cứng, thay đổi tần số dao
động tự do; thay đổi dạng/mode dao động của
công trình/kết cấu...Kỹ thuật chẩn đoán phát hiện
hư hỏng khuyết tật dựa vào sự thay đổi các đặc
trưng động học đang được nghiên cứu áp dụng.
Tuy nhiên trong ứng dụng thực tế, kỹ thuật này
cũng gặp khá nhiều hạn chế như: Việc xác định
chính xác các thông số dao động như các tần số
riêng và các dạng dao động riêng trên kết cấu
thực khá khó khăn, các ảnh hưởng của các đại
lượng cần đo lớn...Một trong các vấn đề dẫn tới
các hạn chế trên đó là quá trình xử lý các tín hiệu
dao động ghi nhận được ở hiện trường trên công
trình/kết cấu thực còn gặp nhiều khó khăn [1, 4].
Sau đây xin giới thiệu các nét cơ bản về
EMD, EEMD, NHS, MHS trong biến đổi Hilbert-
Huang và áp dụng chúng trong phân tích các dữ
liệu dao động thu được để chẩn đoán hư hỏng
của kết cấu dưới của công trình cầu.
2. Biến đổi Hilbert-Huang
2.1 Biến đổi Hilbert
Biến đổi Hilbert thích hợp để xử lý các tín hiệu
không dừng và giải hẹp. Biến đổi Hilbert được
định nghĩa như sau [3] :
x1
y t = H x t = P d
π - t -
(1)
trong đó:
Toán tử H[.] là biến đổi Hilbert;
P là giá trị chính Cauchy.
Từ (1) bất cứ một tín hiệu z(t) đều có thể biểu
diễn thành tổng của phần thực x(t) và phần ảo
y(t) của nó
iθ t
z t = x t + iy t = a t e (2)
trong đó: a(t) là biên độ tức thời và (t) là pha tức
thời, chúng được tính như sau:
2 2a t = x t + y t
y t
θ t = artan
x t
(3)
Tần số tức thời trong phép biến đổi Hilbert
được tính như sau :
dθ t y t x t - y t x t
ω t = 2πf t = = 2 2dt x t + y t
(4)
Như vậy, phần thực của tín hiệu x(t) có thể được
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 1/2016 26
biểu diễn qua biên độ và tần số tức thời như một
hàm phụ thuộc thời gian :
i ω t dt
x t = R z t = R a t e (5)
trong đó: R(.) ký hiệu phần thực của tín hiệu phân
tích z(t).
Để đảm bảo chắc chắn rằng tần số tức thời
nhận được từ (4) có ý nghĩa vật lý, pha tức thời
(t) cần phải là hàm đơn trị tại bất kỳ giá trị nào
của t.
Như vậy phép biến đổi Hilbert có thể được sử
dụng để nghiên cứu một chuỗi tín hiệu dưới dạng
hàm suy rộng thời gian - tần số. Nhưng thật
không may mắn, phạm vi áp dụng phép biến đổi
Hilbert thường rất ngặt nghèo, nó đòi hỏi đặc tính
của x(t) phải là giải hẹp theo thời gian t. Điều kiện
này thường không thỏa mãn khi trong thực tế kỹ
thuật, các chuỗi tín hiệu - thời gian thường không
dừng và giải rộng. Thí dụ giả thiết rằng, có tín
hiệu x(t) = cos(1t)+sin(2t), phép biến đổi Hilbert
sẽ tạo ra một tần số tức thời trung bình thay cho
các tần số 1 và 2 và bản chất tín hiệu đã bị
thay đổi.
2.2 EMD và IMF
Để khắc phục vấn đề này, Huang và đồng
nghiệp [3] đã đề nghị phương pháp phân tích
kinh nghiệm EMD để tách các IMF’s từ một tín
hiệu theo thời gian, mà mỗi IMF chứa chỉ một
dạng dao động đơn giản (một tín hiệu dải hẹp tại
thời điểm đang xét).
Một thuật toán EMD đã được đề nghị để tạo
ra các IMF’s một cách đơn giản, được gọi là quá
trình sàng lọc (Sifting Process). Có 3 giả thiết đối
với EMD: (i) Tín hiệu cần có ít nhất hai cực trị -
một cực tiểu và một cực đại; (ii) khoảng thời gian
giữa các cực trị (time scale) phải xác định được
đặc trưng của chuỗi thời gian và (iii) nếu dữ liệu
không có cực trị nhưng bao gồm chỉ duy nhất các
điểm uốn, thì có thể lấy đạo hàm để tìm ra cực trị.
Khi đã xác định được các điểm cực trị, các điểm
cực đại được nối với nhau bởi một đường cong
bậc ba và sẽ xác định được một đường bao trên;
tương tự từ các điểm cực tiểu cũng xác định
được một đường bao dưới. Đường bao trên và
đường bao dưới sẽ chứa tất cả các điểm dữ liệu
của chuỗi thời gian. Giá trị trung bình của các
đường bao trên và đường bao dưới, m1(t) được
trừ đi từ tín hiệu nguyên thủy để nhận được
thành phần thứ nhất h1(t) của quá trình sàng lọc
này:
h t = x t - m t1 1 (6)
Nếu h1(t) là một IMF, quá trình sàng lọc sẽ
được dừng lại. Hai điều kiện để kiểm tra xem
h1(t) có phải là một IMF là: (i) Số điểm về không
cần phải bằng số của cực trị hoặc không khác
quá số cực trị là 1; (ii) h1(t) có tính đối xứng giữa
đường bao trên và đường bao dưới qua trục
zero.
Nói cách khác, quá trình sàng lọc cần được
lặp lại để lọc tín hiệu h1(t) thành một IMF. Tương
tự, h1(t) được sàng lọc để nhận được thành phần
sàng lọc thứ nhất h11(t).
h t = x t - m t11 11 (7)
trong đó m11(t) là giá trị trung bình của đường
bao trên và đường bao dưới của h1(t). Quá trình
này được tiếp tục cho đến khi h1k(t) là một IMF.
Hàm h1k(t) được ký hiệu là thành phần thứ nhất
c1(t) = h1k(t). Người ta thường sử dụng độ lệch
chuẩn để làm tiêu chuẩn kiểm tra quá trình sàng
lọc:
2
h t - h tn 1,k-1 1,kSD = < ε2i=1 h t1,k-1
(8)
trong đó thường lấy từ 0,2 đến 0,3 [3]. Để
đẩy nhanh quá trình sàng lọc, người ta cũng
thường sử dụng tiêu chuẩn kiểm tra:
2n
h t - h t1,k-1 1,ki=1SD = < εn 2h t1,k-1i=1
(9)
Tiêu chuẩn kiểm tra quá trình sàng lọc được
tính toán để đảm bảo nhận được các IMF’s đảm
bảo được ý nghĩa vật lý đầy đủ của nó. Thành
phần thứ nhất c1(t) chứa những nội dung chính
xác nhất, hoặc thông tin về tần số cao nhất tại
mỗi điểm thời gian. Phần dư sau quá trình sàng
lọc đầu tiên là:
r t = x t - c t1 1 (10)
Sau đó r1(t) được sử dụng để thay thế tín hiệu
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 1/2016 27
chưa xử lý x(t) và quá trình sàng lọc tiếp tục để
tạo ra các IMF khác. Quá trình sàng lọc có thể
dừng theo yêu cầu của quá trình vật lý. Tuy
nhiên, có những tiêu chuẩn chung, ví dụ tổng
bình phương của phần dư nhỏ hơn một giá trị
cho trước hoặc phần dư trở thành một hàm đơn
điệu. Phần dư sau quá trình sàng lọc n thành
phần được cho bởi:
n
r t = x t - c t1 ii=1
(11)
Như vậy mỗi ci(t) trong công thức (11) chính là
một IMF, là kết quả của quá trình sàng lọc hoàn
toàn thỏa mãn các yêu cầu của phép biến đổi
Hilbert.
Hình 1. Tín hiệu ECG được phân tích thành các IMF‘s theo EMD
2.3 Sự gián đoạn của tín hiệu dao động
(Intermittence) và EEMD
Tín hiệu dao động luôn luôn bị ảnh hưởng
của nhiễu và phần lớn có tính không ổn định, đây
là một nguyên nhân gây ra sự gián đoạn của dữ
liệu trong các scale thời gian. Sự gián đoạn là
nguyên nhân gây ra hiện tượng trộn lẫn dao động
(mode mixing/scale mixing), nghĩa là trong một
IMF tồn tại các kiểu dao động khác nhau, hay
cùng một kiểu dao động mà tồn tại trong hai IMF
và hậu quả của nó là hiện tượng méo tín hiệu
(aliaxing) và mất đi trị trung bình vật lý của tín
hiệu, ảnh hưởng đến kết quả khi áp dụng HT.
Huang và đồng nghiệp [3] đã giải quyết hiện
tượng trên bằng cách giới hạn kích thước của
các scale, về thực chất là xem xét khoảng cách
giới hạn của các cực đại liên tiếp trong một IMF
để sao cho IMF chỉ kết hợp các sóng mà khoảng
cách của các cực đại liên tiếp nằm trong giới hạn
cho phép của chúng. Ngoài ra cũng tiến hành
tương tự đối với chiều dài của các zero-crossings
để hạn chế ảnh hưởng của vấn đề gián đoạn
trong tín hiệu.
EEMD được giới thiệu nhằm nâng cao hiệu
quả của EMD để tránh hiện tượng chồng phổ [5].
Phương pháp này thực hiện quá trình lựa chọn
trên một quần thể các tín hiệu chứa nhiễu, được
tạo ra từ tín hiệu ban đầu cộng với chuỗi nhiễu
trắng (hay nhiễu Gaussian) với các hệ số khác
nhau, mỗi IMF của tín hiệu gốc được xác định
chính là trị trung bình của quần thể các lần thử,
trong đó có chứa tín hiệu cộng với nhiễu trắng
với biên độ hữu hạn nhưng không phải là vi phân.
Với EEMD có thể tách hoàn toàn các scale của
tín hiệu một cách tự nhiên mà không cần bất kỳ
chuẩn lựa chọn chủ quan trước đó. Quá trình
EEMD gồm các bước: (i) Khởi tạo tín hiệu mới
bằng cách cộng một chuỗi nhiễu trắng Gaussian;
(ii) phân tích quần thể dữ liệu đã cộng nhiễu
thành các IMF’s dựa trên EMD; (iii) lập lại bước
(i) và (ii) nhưng với dãy nhiễu trắng khác trong
mỗi lần, và sự lặp này phải đủ lớn để các thành
phần nhiễu có thể loại bỏ lẫn nhau sau khi lấy
trung bình của các IMF’s tương ứng. Về thực
chất EEMD là một bộ lọc tín hiệu [5].
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 1/2016 28
Hình 2. Tín hiệu ECG được phân tích thành các IMF’s theo EEMD
Các công trình nghiên cứu hiện nay [5] đã
chứng tỏ, EEMD là một phương pháp thích hợp
để xử lý các tín hiệu dao động không dừng và
phi tuyến rất thường gặp trong chẩn đoán đánh
giá công trình, nhất là các kết cấu dưới của công
trình cầu.
2.4 Phổ Hilbert danh định (NHS) và phổ Hilbert
giới hạn (MHS)
Áp dụng biến đổi Hilbert với mỗi IMF ci(t)
nhận được (11), sẽ nhận được:
c1 iH c t = di π - t -
(12)
Từ (2) và (12), sẽ nhận được một tín hiệu
dạng giải tích:
jΦ tiz t = c t + jH c t = a t ei i i i (13)
Trong đó:
2 2a t = c t +H c ti i i (14)
H c tiΦ t = arctani c ti
(15)
Từ (15) nhận được tần số tức thời của IMF tại
thời điểm t:
dΦ tiω t =i dt
(16)
Sau khi thực hiện biến đổi Hilbert cho mỗi
IMF, tín hiệu ban đầu được biểu diễn bởi phần
thực của biến đổi Hilbert:
jΦ t j ω t dtn ni ix t = RP a t e =RP a t ei ii=1 i=1
(17)
Trong (17) chứa cả biên độ và tần số của mỗi
IMF như các hàm của thời gian t. Mối quan hệ
giữa tần số - thời gian của biên độ được gọi là
phổ Hilbert danh định (NHS) của tín hiệu:
j ω t dtn iH ω,t = RP a t eii=1
(18)
Phổ Hilbert giới hạn (MHS) của tín hiệu, được
định nghĩa như sau:
T
h ω,t = H ω,t dt
0
(19)
Trong (19), T là tổng thời gian của tín hiệu.
Như vậy về ý nghĩa có thể thấy, NHS đưa ra một
độ đo về sự đóng góp trong biên độ của mỗi tần
số theo thời gian, còn MHS là một phổ tần số đưa
ra một độ đo về sự đóng góp của mỗi tần số
trong tổng biên độ của tín hiệu đang xét.
Từ (15), xác định được hàm pha tổng của tín
hiệu đang xem xét:
H c tn n iΦ t = Φ t = arctani c ti=1 i=1 i
(20)
Φ(t) là tổng số vòng quay của tín hiệu x(t)
trong mặt phẳng phức. Đối với một kết cấu, nó là
một công cụ để trích xuất và biểu diễn pha tức
thời của các sóng nội tại di chuyển trong kết cấu
của bất kỳ thông số động lực học nào có thể đo
đạc được của kết cấu. Đây là một thông số quan
trọng để phát hiện hư hỏng trong kết cấu.
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 1/2016 29
3. Áp dụng HHT để chẩn đoán hư hỏng trong
kết cấu dưới của công trình cầu
3.1 Một số luận cứ và phạm vi áp dụng HHT
trong chẩn đoán hư hỏng kết cấu xây dựng
Như đã trình bày ở trên, biến đổi Hilbert-
Huang là một kỹ thuật biến đổi phi tuyến có nhiều
ưu điểm và rất thích hợp với xử lý các tín hiệu phi
tuyến và không dừng. Các luận cứ của việc áp
dụng HHT trong chẩn đoán kết cấu xây dựng đã
được thảo luận trong nhiều nghiên cứu [1, 4, 6,
7]. Có thể tóm tắt ngắn gọn như sau: Ứng xử
(tĩnh học và động học) của bất kỳ một kết cấu xây
dựng nào khi chịu tác động của tải trọng thiết kế
sẽ là tuyến tính và đàn hồi. Khi kết cấu bị hư
hỏng thì độ bền của nó bị giảm xuống, và khi chịu
tác dụng của các tải trọng, thậm chí còn nhỏ hơn
tải trọng thiết kế, thì ứng xử của kết cấu sẽ xuất
hiện tính phi tuyến. Sự phi tuyến của ứng xử của
kết cấu có thể là hệ quả của các biến dạng không
đàn hồi của vật liệu hoặc có thể là do sự thay đổi
độ cứng của kết cấu do bị hư hỏng. Dao động đo
được trên kết cấu gây ra bởi một kích động cho
trước cần được tách ra thành những tần số riêng
phần như tần số của lực kích động, tần số dao
động tự nhiên của toàn bộ kết cấu hoặc của các
kết cấu cục bộ, hoặc cả hai và các tần số
nhiễu...để xem xét trong miền thời gian. Do HHT
là công cụ duy nhất (cho đến hiện nay) có thể
phân tích các tín hiệu phi tuyến và không dừng,
nên sử dụng HHT có thể xác định được những
thay đổi của các đặc tính dao động đo được trên
kết cấu theo miền thời gian, qua đó xác định
được vị trí và mức độ của hư hỏng.
Theo luận cứ trên, một phương pháp khả thi
để phát hiện vị trí và mức độ hư hỏng của cầu là
sử dụng tải trọng tức thời di động qua cầu, ghi
nhận và sử dụng HHT để xử lý các tín hiệu dao
động ghi nhận đươc. Khi tải trọng này tác dụng
trực tiếp lên các điểm hư hỏng thì ứng xử động
học của cầu sẽ thay đổi mạnh nhất [1, 4].
3.2 Đề xuất trình tự tiến hành
Dựa trên các nghiên cứu về HHT trong đánh
giá kết cấu, trong [1] đã đề xuất trình tự tiến hành
đối với kết cấu dưới của công trình cầu trước và
sau khi có lũ, có thể tóm tắt như sau:
Trước mùa lũ, tiến hành thu thập các
thông tin, các kết quả thí nghiệm, đo đạc,
thử tải đã tiến hành để xác định các đặc
trưng dao động (có thể là các tần số dao
động riêng) được xem như một mốc so
sánh của kết cấu cần chẩn đoán.
Sau mùa lũ, tiến hành đo và thu nhận tín
hiệu dao động của kết cấu cần chẩn đoán
dưới tác dụng của các loại xe có tải trọng
khác nhau.
Sử dụng EEMD để phân tích các dao
động nhận được khi đo dao động thành
các IMF‘s.
Tiến hành tính tần số tức thời, pha tức
thời và các đặc trưng phổ Hilbert (NHS và
MHS) của các hàm IMF‘s.
Đánh giá sự thay đổi của các sóng nội tại
qua các pha tức thời nhận được để tìm
sự thay đổi phi tuyến của dao động qua
đó nhận được dấu hiệu hư hỏng của kết
cấu.
Nếu cầu có nhiều trụ, so sánh phổ Hilbert
giới hạn (MHS) của các IMF của các trụ
khác nhau dưới cùng một tải trọng xe
chạy qua để đánh giá độ suy giảm của
MHS và tìm ra các trụ có sự suy giảm độ
cứng.
Nếu cầu có một trụ, so sánh MHS của các
IMF‘s của trụ dưới các tải trọng xe chạy
qua khác nhau để tìm mức độ và sự thay
đổi phi tuyến của dao động dưới mỗi loại
tải trọng qua đó đánh giá độ suy giảm độ
cứng của trụ.
Tính toán tỷ số tần số trước và sau khi lũ
và dựa vào các tiêu chí đánh giá để xác
định kết cấu dưới còn an toàn hoặc đã bị
suy giảm.
Nếu kết cấu không an toàn, cần tiến hành
các bài toán nhận dạng hoặc các phương
pháp trình bày trong [1] để chẩn đoán các
thông số độ cứng của kết cấu.
3.3 Một ví dụ thực tế
Khảo sát một cầu có 2 làn xe, dầm BTCT với
sơ đồ 3 nhịp giản đơn. Sử dụng đầu đo gia tốc
theo 3 phương để đo dao động trụ P1 và P2 khi
có xe tải nặng qua cầu. Kết quả đo thể hiện trên
hình 3. Dữ liệu này không chỉ ra được bất kỳ sự
khác biệt lớn nào giữa hai trụ khi chưa xử lý. Qua
phân tích HHT và FFT, nhận thấy sự khác nhau
khá lớn giữa HHT và FFT như trên hình 4.
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 1/2016 30
Hình 3. Gia tốc đo của trụ P1 và P2
Hình 4. Kết quả xử lý FFT và HHT
Kết quả của FFT không thể hiện rõ sự khác
nhau về dao động của hai trụ, FFT chỉ cho thấy
có sự thay đổi nhỏ về biên độ, nhưng không thể
đưa ra được nhận xét gì với sự thay đổi biên độ
này. Trong khi đó kết quả của HHT, MHS lại chỉ
ra được sự thay đổi mạnh về độ cứng của hai trụ.
Điểm nhọn tần số của trụ P2 là 1,2 Hz và của trụ
P1 là 1,6 Hz cho thấy một sự suy giảm rõ ràng
của tần số và là dấu hiệu giảm độ cứng rõ ràng
của kết cấu trụ P2. Vì tần số tỉ lệ với căn bậc hai
của độ cứng kết cấu, nên tỉ số 1,6/1,2 chứng tỏ
rằng độ cứng trụ P2 đã giảm khoảng 50%. Kiểm
tra trực tiếp thấy rằng trụ P2 bị xói khá nhiều sau
trận lũ lớn.
4. Kết luận và kiến nghị
Qua những kết quả trình bày ở trên có thể rút
ra một số kết luận và kiến nghị như sau:
Biến đổi Hilbert-Huang là một phương
pháp biến đổi có nhiều ưu điểm: Có thuật
toán đơn giản, là phương pháp thích nghi
dựa trên đặc tính nội tại của dữ liệu/tín hiệu
và rất hiệu quả để các xử lý các dữ liệu/tín
hiệu phi tuyến, không dừng, dải rộng và bị
ảnh hưởng bởi nhiễu.
Đối với công trình nói chung, công trình
cầu và kết cấu dưới của nó nói riêng, các tín
hiệu dao động ghi nhận về ứng xử động của
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 1/2016 31
chúng thường là các tín hiệu phi tuyến,
không dừng, dải rộng và bị ảnh hưởng khá
lớn bởi nhiễu. Việc xử lý các tín hiệu này
theo các biến đổi cũ (như FFT, WT, HT...)
không mang lại các kết quả mong muốn.
Những kết quả nghiên cứu đã thực hiện ở
Hoa Kỳ, Việt Nam cho thấy HHT là một công
cụ thích hợp để chẩn đoán các hư hỏng
trong kết cấu dưới của công trình cầu và cần
được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bùi Đức Chính (2010), Nghiên cứu áp dụng
công nghệ và thiết bị mới trong kiểm tra, đánh
giá và sửa chữa kết cấu dưới của các công trình
cầu ở Việt Nam, Đề tài KH và CN trọng điểm cấp
Bộ 2009-2010, Hà Nội, 2010.
[2]. Cohen L. (1995), Time-Frequency Analysis :
Theory and Applications, Prentice Hall, Inc.,
Upper saddle River, NJ, 1995.
[3]. Huang N. E. et al (1998), “The Empirical Mode De-
composition Method and the Hilbert Spectrum for
Non-linear and Non-stationary Time Series Analysis”,
Proc. R. Soc. Lond , 454, pp. 903-995, 1998.
[4]. Larry D. and Olson P. E. (2005), Dynamic
Bridge Substructure Evaluation and Monitoring,
Pub. No. FHWA-RD-03-089, September 2005.
[5]. Wu Z. and Huang N. E. (2009), “Ensemble
empirical mode decomposition: A noise-assisted
data analysis method”, The Advances in
Adaptive Data Analysis, Vol. 1, No. 1, pp. 1-41.
[6]. Yang J. N., Lei Y., Pan S. W., and Huang N.E.
(2003), “System identication of linear structures
based on Hilbert-Huang spectral analysis; Part I:
Normal modes”, Earthquake Engineering and
Structural Dynamics, Vol. 32 (10), pp. 1443-1467.
[7]. Yang J. N., Lei Y., Pan S. W., and Huang N.E.
(2003), “System Identification of Linear
Structures based on Hilbert-Huang Spectral
Analysis. Part II: Complex Modes”, Earthquake
Engineering & Structural Dynamics, Vol. 32 (10),
pp. 1533-1554.
Ngày nhận bài: 13/02/2016.
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 26/02/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1462763711buiducchinh_598.pdf