Kết luận
Ra đời muộn hơn Thăng Long, Phố
Hiến, đô thị Vị Hoàng vừa có những nét
chung của đô thị Việt Nam thời trung đại,
nhưng đồng thời lại sở hữu những điểm
độc đáo riêng, mang dấu ấn của bối cảnh
lịch sử và tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội của đất nước thời kì này.
Nhìn vào kết cấu kinh tế của đô thị Vị
Hoàng có thể dễ dàng nhận thấy, đô thị
này có vai trò chủ yếu là điểm trung
chuyển, tập kết hàng hóa trên thủy trình
xuôi ngược Bắc Nam, từ lục địa ra biển và
ngược lại của các tàu thuyền vận tải, buôn
bán nội địa, thuyền nhà Thanh hay thuyền
công của Nhà nước nhờ có vị thế thuận
lợi. Từ cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX,
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế hàng hoá của đất nước là
sự hình thành các tuyến giao thương
đường dài giữa miền Thanh Nghệ, miền
Trung với Đàng Ngoài; giữa miền thượng
du, trung du với khu vực đồng bằng ven
biển. Và như vậy, không thể phủ nhận vị
trí đắc địa của cảng, bến sông Vị Hoàng
khi toạ lạc tại đầu mối các tuyến giao
thông thuỷ bộ, tập trung nhiều luồng hàng,
mặt hàng phong phú.
Đô thị Vị Hoàng không thể so sánh với
Thăng Long – Kẻ Chợ về quy mô cũng
như các giao dịch thương mại, lượng hàng
– tiền được trao đổi. Tuy nhiên, sự hiện
diện của đô thị Vị Hoàng như một trung
tâm tập kết, trao đổi và sản xuất hàng hóa ở
nơi giao điểm của các tuyến đường thủy
bộ, các luồng hàng hải từ thượng du xuống
miền duyên hải ven biển, từ miền Trung ra
khu vực Bắc Bộ đã tạo ra những chấm phá
quan trọng trên bức tranh kinh tế Việt Nam
giai đoạn tiền thuộc địa. Ở mức độ nào đó,
có thể coi thực trạng kinh tế ở Vị Hoàng là
sự phản ánh trung thực tình hình kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn đang diễn ra
những chuyển biến quan trọng, khi chế độ
phong kiến với quan hệ sản xuất lỗi thời
đang phải tiếp nhận và chịu nhiều thử thách
từ những biến động xã hội đế sự xuất hiện
của hàng loạt các nhân tố mới trong lĩnh
vực thương mại và sản xuất hàng hóa,
bước đầu hướng đến nhu cầu thị trường nội
địa và khu vực.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng (thế kỉ XIX), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
21
Kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng (thế kỉ XIX)
The economic structures of Vi Hoang township in the 19
th
century
TS. Trần Thị Thái Hà,
Trường Đại học Sài Gòn
Tran Thi Thai Ha, Ph.D.,
Saigon University
Tóm tắt
Thế kỉ XVII – XVIII - XIX chứng kiến một thời kì phát triển thịnh đạt của thương nghiệp Đại Việt dưới
tác động của nhiều yếu tố ngoại sinh và nội sinh. Sự phát triển của các hoạt động buôn bán trao đổi đã
làm hình thành một số tụ điểm buôn bán có tính chất địa phương hay đô thị lớn nhỏ trên khắp mọi miền
của đất nước mà Vị Hoàng (Nam Định) là một trường hợp tiêu biểu, đại diện cho khu vực đông nam hạ
châu thổ sông Hồng.
Ra đời và hưng thịnh muộn hơn so với Thăng Long – Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An, đô thị Vị Hoàng
không có được dáng dấp của một trung tâm thương mại phồn thịnh trong giai đoạn sôi động của các
hoạt động hải thương quốc tế. Mặc dù vậy, với những lợi thế riêng của mình về vị trí, về tiềm năng của
vùng hạ châu thổ gần sông cận biển, Vị Hoàng từng bước vươn lên, khẳng định vai trò là một tiền cảng
của Thăng Long – Hà Nội trong thế kỉ XVIII – XIX, một đô thị cảng sông cận biển quan trọng của khu
vực Bắc Bộ thời kì tiền thuộc địa trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến quốc phòng an ninh.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu về kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng thế kỉ
XIX gồm các chủ thể như mạng lưới chợ, bến, phố hàng buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Trong
đó cảng bến sông, chợ Vị là yếu tố đóng vai trò then chốt.
Từ khóa: đô thị, chợ Vị Hoàng, phố Vị Hoàng, đô thị Vị Hoàng, Nam Định, Đò Chè, Bến Gỗ, Bến Củi,
Bến Thóc.
The period of the prosperous development of Dai Viet commerce was witnessed for 3 centuries (from
the 17
th
to 19
th
century), forming some local commercial centres or townships nationwide, one of which
was Vi Hoang town (Nam Dinh province) in southeast lower section of Red River Delta. Vi Hoang
emerged and prosperously developed later than some centres like Thang Long-Ke Cho, Pho Hien or Hoi
An, but thanks to its potential and favourable situation, it had gradually affirmed its role as a prior-port
to Thang Long-Ha Noi capital in the 18
th
and 19
th
centuries and as an important river port township by
sea in Tonkin during the prior-colonial period. This article presents the economic structures of Vi
Hoang township in the 19th century consisting of essential parts such as outlet net, river wharves, trade
stands, arts and crafts. Accordingly, river wharves and Vi Hoang market took a key role in economic
operations of Vi Hoang centre.
Keywords: township, Vi Hoang market, Vi Honag township, Nam Dinh, Do Che, Wood Wharf,
Firewood Wharf, Rice Wharf.
1. Đặt vấn đề
Thế kỉ XVII – XVIII - XIX chứng kiến
một thời kì phát triển thịnh đạt của thương
nghiệp Đại Việt dưới tác động của nhiều
yếu tố ngoại và nội sinh. Sự phát triển của
các hoạt động buôn bán trao đổi đã làm hình
KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)
22
thành một số tụ điểm buôn bán có tính chất
địa phương hay đô thị lớn nhỏ trên khắp
mọi miền của đất nước mà Vị Hoàng (Nam
Định) là một trường hợp tiêu biểu, đại diện
cho khu vực hạ châu thổ sông Hồng.
Ra đời và hưng thịnh muộn hơn so với
Thăng Long – Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An,
đô thị Vị Hoàng không có được dáng dấp
của một trung tâm thương mại phồn thịnh
trong giai đoạn sôi động của các hoạt động
hải thương quốc tế. Cho đến nay chưa có
bất kì chứng cứ nào cho thấy sự hiện diện
của thương nhân Anh, Hà Lan, Bồ Đào
Nha, Nhật Bản ở Vị Hoàng trong thế kỉ
XVII – XVIII; thương điếm của các nước
phương Tây cũng chưa từng được đặt ở Vị
Hoàng, và đây có lẽ cũng là một gợi ý, giải
thích cho sự khuyết thiếu những ghi chép
về đô thị này trong các tài liệu của thương
nhân phương Tây có mặt ở nước ta lúc đó.
Mặc dù vậy, với những lợi thế riêng của
mình về vị trí, về tiềm năng của vùng hạ
châu thổ gần sông cận biển, Vị Hoàng từng
bước vươn lên, khẳng định vai trò là một
tiền cảng của Thăng Long – Hà Nội trong
thế kỉ XVIII – XIX, một đô thị cảng sông
cận biển quan trọng của khu vực Bắc Bộ
thời kì tiền thuộc địa trên nhiều lĩnh vực, từ
kinh tế, chính trị đến quốc phòng an ninh.
Trong bài viết này, trên cơ sở các nguồn tư
liệu, chúng tôi cố gắng phác họa kết cấu
kinh tế của Vị Hoàng thế kỉ XIX gồm các
chủ thể như mạng lưới chợ, bến, phố hàng
buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp.
Trong đó cảng bến sông, chợ Vị là yếu tố
xuất hiện đầu tiên và đóng vai trò then chốt,
có ảnh hưởng đến toàn bộ các yếu tốt khác.
2. Vài nét về đô thị Vị Hoàng
Từ giữa thế kỉ XVIII, khi kinh tế hàng
hóa tuy vẫn tiếp tục phát triển nhưng chậm
chạp và không có bước đột biến mạnh mẽ,
(trong đó sự suy giảm vai trò của thương
lái phương Tây vừa như hiện tượng, vừa là
nguyên nhân) khiến cho các đô thị lớn ở
giai đoạn trước như Hội An, Phố Hiến lụi
tàn dần thì những đô thị cảng – bến như Vị
Hoàng dưới tác động của Nhà nước phong
kiến lại bộc lộ sức sống mới, dần vươn lên
khẳng định vai trò của mình trong đời sống
đất nước.
Đô thị Vị Hoàng được ra đời trên đất
của làng Vị Hoàng – một làng cổ nằm ven
phủ Thiên Trường xưa (thời Trần) và ngày
nay chính là trung tâm của thành phố Nam
Định. Trước đó, liên tục trong các thế kỉ
XV – XVIII, vùng đất Thiên Trường –
Nam Định luôn đóng vai trò trung tâm của
các hoạt động công – nông – thương – chài
ở khu vực hạ châu thổ đồng bằng sông
Hồng. Vốn có đồn binh và kho lương lớn
của nhà nước phong kiến đặt tại đây, lại sở
hữu vị trí địa – chiến lược quan trọng, Vị
Hoàng đã trở thành trị sở của lộ Sơn Nam
Hạ vào năm 1741. Từ sau đó, vùng đất Vị
Hoàng lại càng có thêm những điều kiện
thuận lợi để phát huy thế mạnh vốn có về
sông, cảng, bến, chợ và dần dần hội tụ
những điều kiện để trở thành phố Vị Hoàng
ven sông.
Đến thế kỉ XIX, nhất là nửa sau thế kỉ
XIX, với vị thế của một trấn sở, rồi tỉnh lị
của Nam Định, Vị Hoàng đã thực sự trỗi
dậy trong diện mạo của một đô thị hoàn
chỉnh, có phần “đô” và phần “thị” khá cân
đối. Đô thị Vị Hoàng sở hữu cảng/ bến
sông sầm uất, trù mật, gần biển; là điểm
trung chuyển của các luồng hàng, luồng
tiền giữa các vùng miền trong nước: từ
miền Nam, miền Trung ra Bắc, từ biển/
duyên hải vào sâu trong nội địa, từ đồng
bằng tới miền núi và ngược lại. Đặc biệt,
Vị Hoàng có mối liên hệ mật thiết với thị
trường miền Nam Trung Hoa thông qua
các thương lái Hoa kiều, thương nhân đến
từ Triều Châu, Phúc Kiến, Huệ Châu,
Quỳnh Châu Cùng với những tác động
TRẦN THỊ THÁI HÀ
23
của hàng loạt các yếu tố khách quan và chủ
quan như điều kiện địa hình, sông ngòi,
nguồn nhân lực; hay sự gia tăng các hoạt
động buôn bán trao đổi thời kì này giữa các
thị trường trong nước với các trung tâm đô
thị trên một lãnh thổ thống nhất, đã thúc
đẩy sự phát triển của Vị Hoàng.
Cho đến cuối thế kỉ XIX, trước khi
thực dân Pháp bắt đầu công cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất, phố Vị Hoàng vẫn
đang trong quá trình chuyển đổi từ làng lên
phố dưới những tác động tích cực của các
nhân tố khách quan và chủ quan. Khu vực
tập trung đông dân cư và các hoạt động sản
xuất kinh doanh sôi động của thương nhân,
thợ nghề thủ công từ các nơi về làm ăn sinh
sống ở Vị Hoàng là cảng - bến sông, chợ Vị
Hoàng và các phố hàng nằm về phía đông
của tòa thành cổ, trên phần đất các thôn Thị
Thượng, Khoái Đồng, Thị Hạ của làng Vị
Hoàng - làng gốc của đô thị Vị Hoàng.
Sự nhộn nhịp, tấp nập tàu bè và
thương nhân qua lại tại các cảng – bến, chợ
- bến cũng như sự hình thành các phố hàng
buôn bán, sản xuất thủ công nghiệp đã phá
vỡ tính khép kín của một làng quê như Vị
Hoàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy người
dân Vị Hoàng vẫn dè dặt trong các hoạt
động mới mẻ này. Điều này phần nào lí
giải nguyên nhân của tình trạng nửa làng
nửa phố kéo dài trong hàng thế kỉ ở Vị
Hoàng, và vai trò nhạt nhòa của người Việt
trong bức tranh kinh tế của phố Vị Hoàng
trước sự vượt trội của người Hoa.
Cùng với những trụ sở hành chính,
trường thi Hương, thì các phố hàng buôn
bán, cảng bến Vị Hoàng và chợ Vị đã trở
thành một cái tên, một địa chỉ quen thuộc
với người đương thời.
3. Hoạt động kinh tế của đô thị
Vị Hoàng
3.1. Bến sông Vị Hoàng và sở quan tân
Phố Vị Hoàng thuộc loại hình đô thị
sông (ville-fleuve), được dân gian mô tả rất
rõ ràng: “Thượng Phụ Long, hạ Đồn
Thuỷ”. Sông Vị Hoàng là một đường trục
chính của đô thị, các tuyến phố đều toả ra
từ phía bờ sông.
Tài liệu châu bản của triều Nguyễn
thường nhắc đến cụm từ “bến Vị Hoàng”
với mật độ thuyền bè qua lại đây khá đông
đúc. Có những đoàn thuyền chở vật hạng
các loại của nhà Nguyễn lên tới 136 chiếc
cùng cập bến Vị Hoàng [2;111]. Ngay từ
thời kì đó, sách cũ còn ghi lại “phàm việc
vận chuyển lương tiền từ trấn Sơn Nam Hạ
vào Nghệ An bằng đường thuỷ đều xuất
phát từ bến này, đi xuống dưới theo ngã ba
Độc Bộ, chuyển lên bến sông Non Nước
rồi vào cảng Vân Sàng. Vận chuyển đường
bộ cũng từ đây đi xuống ngã ba Độc Bộ rồi
thẳng ra cống cửa Liêu Hải” [6;452].
Qua đó cho thấy, bến Vị Hoàng trong
thời gian tồn tại của mình không thể chỉ là
một bến sông mà phải thực sự là một cảng
sông lớn, đủ sức chứa nhiều tàu thuyền.
Tuy nhiên, trong quá trình điền dã tại địa
phương cũng như trong các cuốn địa chí
còn lại đến nay, không thấy có địa danh
“bến Vị Hoàng”. Phải chăng địa danh “Đò
Quan” còn lại ngày nay chính là cách mà
dân gian gọi bến Vị Hoàng xưa?
Là một địa phương nằm trên lưu vực
sông Hồng thuộc đồng bằng Bắc Bộ, tỉnh
Nam Định được bao bọc, chia cắt bởi hàng
loạt các sông lớn nhỏ, trong đó: Sông
Hồng là dòng chảy chính, ôm mặt phía
đông của tỉnh rồi đổ ra biển. Sông Đáy bao
quanh tỉnh ở mặt phía tây. Giữa hai dòng
chảy chính đó là hàng loạt các sông như
Ninh Cơ, sông Sắt, sông Quần Liêu, sông
Giao Thủy, sông Cốc tạo nên tuyến giao
thông thuỷ hết sức thuận lợi, nối các đơn
vị hành chính lớn nhỏ trong tỉnh. Lớn nhất
và có giá trị nhất về mọi mặt, hơn nữa lại
trực tiếp liên quan đến đô thị Vị Hoàng
KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)
24
phải kể đến sông Hồng, sông Đáy và sông
Vị Hoàng.
Tuy dòng chảy không dài và không
trực tiếp đổ ra biển Đông, nhưng sông Vị
Hoàng có lợi thế đặc biệt vượt trội so với
nhiều dòng/nhánh sông khác ở khu vực
châu thổ sông Hồng cả trên nhiều phương
diện bởi hai điểm đầu-cuối của nó đều là
những ngã ba sông quan trọng, án ngữ
tuyến đường thủy từ biển vào lục địa, lên
kinh đô Thăng Long hay từ kinh đô ra
biển. Như cây cầu tự nhiên, sông Vị Hoàng
nối thông hai con sông lớn (sông Đáy, sông
Hồng) của khu vực hạ châu thổ. Đây đồng
thời cũng là hai tuyến thương mại chủ đạo
từ miền núi, trung du xuống vùng đồng
bằng ven biển và ngược lại; hoặc từ miền
đất phía nam đến với Phố Hiến, Thăng
Long. Như vậy có thể thấy rằng sức sống
của đô thị Vị Hoàng chính là ở dòng sông
Vị Hoàng, trong sự kết nối, liên thông với
hai dòng chảy lớn đổ ra Biển Đông là sông
Hồng và sông Đáy.
Từ các thế kỉ XVII - XVIII, khi quan
hệ giao thương, trao đổi buôn bán hàng hóa
phát triển không chỉ bó hẹp trong phạm vi
nội địa, thì sông Vị Hoàng cũng đã sớm
tham gia vào hoạt động giao thương quốc
tế thời kì này thông qua cửa Độc Bộ/ Đáy
và cảng, bến ven sông. Đặc biệt, cửa Độc
Bộ/Đáy/Liêu – nơi sông Vị Hoàng đổ vào
sông Đáy là một trong hai tuyến đường
thuỷ quan trọng (1) cho các tàu thuyền
buôn chuyên chở hàng hóa đến với các
trung tâm kinh tế - đô thị lớn của nước ta là
Phố Hiến và Thăng Long. Tuy nhiên, số
lượng tàu thuyền nước ngoài qua lại cửa
Độc Bộ không nhiều (chủ yếu là thuyền
Trung Quốc, Xiêm) mà không có thuyền
buôn phương Tây.
Sang thế kỉ XIX, nhà Nguyễn sử dụng
triệt để cửa Đáy và bến sông Vị Hoàng cho
việc chuyên chở tiền, thóc gạo hay đủ loại
vật hạng từ các trấn Bắc thành vào kinh đô
Huế, đồng thời cho phép các thương
thuyền Trung Quốc vào, ra buôn bán.
Chính vì lí do đó, bến Vị Hoàng – hay cảng
sông Vị Hoàng là một cảng bến quan trọng
của nhà Nguyễn ở miền Bắc trước khi thực
dân Pháp xâm lược, lượng tàu bè ra vào
bến Vị Hoàng ở thế kỉ XIX qua cửa Liêu,
Lác được ghi nhận trong tài liệu của nhà
Nguyễn rất đông đúc, đủ các hạng thuyền.
Kích cỡ các hạng thuyền vận tải của nhà
Nguyễn cho phép ta hình dung về quang
cảnh bến cảng Vị Hoàng cũng như sức
chứa của nó (2).
Các thuyền công của nhà nước được
phái đi làm nhiệm vụ đều được Bộ Hộ ghi
chép tỉ mỉ rõ ràng ngày giờ xuất phát, số
lượng thuyền, hạng thuyền, người hộ tống.
Quan Tổng đốc Nam Định có nhiệm vụ ghi
chép chi tiết ngày, giờ đoàn thuyền đến bến
sông Vị Hoàng, số lượng thuyền và hành
trình trong bản báo cáo gửi về Kinh.
Ngoài thuyền của nhà nước chở hàng
hoá về Kinh, thuyền buôn của người Việt
xuôi ngược vào Nam ra Bắc, thì bến Vị
Hoàng còn là nơi đến của các thuyền buôn
của Trung Quốc mà tài liệu của nhà
Nguyễn gọi chung là “thuyền nhà Thanh”.
Chỉ tính riêng trong 9 tháng (từ tháng
2 đến tháng 10) của năm Minh Mạng thứ 5
(1824), châu bản triều Nguyễn ghi nhận có
28 thuyền nhà Thanh đã qua cửa Lác để
vào Bắc thành buôn bán [3: 229].
Đối với các thuyền buôn, mà đặc biệt
là thuyền buôn nhà Thanh có chở hàng
hoặc không, thì trước khi lên Bắc thành
đều phải qua bến Vị Hoàng khai báo minh
bạch số người đến và các loại hàng hoá vật
phẩm mang theo để quan sở tại hội khám,
thu thuế. Quan Tổng đốc Nam Định có
nhiệm vụ báo cáo về Kinh tên chủ thuyền,
xuất xứ, mục đích của họ. Năm 1831, nhà
Nguyễn đặt ra những quy định đánh thuế
TRẦN THỊ THÁI HÀ
25
đối với thuyền buôn nhà Thanh.
Đến năm 1834, Minh Mạng quy định
lại ngạch thuế đối với thuyền buôn nước
ngoài. Lấy lí do đường biển thuận lợi,
thuyền buôn qua lại ngày một nhiều, Nam
Định và Hà Nội không kém gì Gia Định
nên từ tháng giêng năm 1835, Nam Định
và các tỉnh ngoài Bắc Kì chịu mức thuế
toàn ngạch như của Gia Định [14; 429].
Không chỉ có lợi thế là giao điểm của
các tuyến giao thông đường thủy, mà Vị
Hoàng còn là nơi giao thủy của hai luồng
nước: luồng nước mặn từ biển vào và nước
ngọt từ đất liền chảy ra do nằm ở vị trí hạ
đồng bằng giáp biển. Thuyền bè muốn ra
khơi phải chờ con nước. Sự tập trung của
các thuyền bè ở Vị Hoàng trong thời gian
chờ đợi con nước cũng là một yếu tố góp
phần tạo nên sự đông đúc, nhộn nhịp của
cảng sông này.
Về tuyến đường thủy xuất phát từ Vị
Hoàng, nối Vị Hoàng với các địa phương
lân cận hay với một số xã, huyện trong tỉnh
Nam Định, Khiếu Năng Tĩnh cho biết có 2
tuyến chính: Một tuyến từ bến Đò Quan
phố Nam Long, và một tuyến từ sông Hồng
[19; 18]. Với chiều dài 39 dặm, sông Vị
Hoàng chảy qua các huyện Mĩ Lộc, Vụ
Bản, Nam Trực. Trên dòng chảy đi qua các
huyện, nhiều bến đò ngang của sông Vị
Hoàng đã hình thành nối đôi bờ của dòng
sông. Để sang địa phận huyện Đại An,
sông Vị Hoàng có 4 đò ngang: Cốc Thành,
Bình A, Đông Cao, Độc Bộ. Ở huyện Vụ
Bản, sông Vị Hoàng có 3 đò ngang: Cố
Bản, Đồng Kĩa, Thi Liệu. Các bến Kinh
Lũng, Thi Nam thuộc huyện Nam Trực.
Trên địa phận của huyện Mĩ Lộc, thuộc
sông Vị Hoàng có 3 bến đò: Phong Lộc,
Đại An, Lương Xá [19;18-19].
Năm 1839, nhà Nguyễn thực hiện:
Định rõ lệ thuế của những cửa quan,
bến đò dọc sông lớn từ Hà Nội đến Nam
Định. Đò chở khách, trừ hành khách nào đi
không, chiếu lệ thu mỗi người 6 đồng tiền,
còn những người có quang gánh, mà trong
gánh có hơn 10 thứ lặt vặt tới 30-40 cân,
đáng giá độ 19 quan tiền trở lại, gọi là đồ
thập vật, từ là hàng đáp đò, do phu đò
chiếu thu thuế bến mỗi gánh 6 đồng tiền
mà không được thu thuế người nữa; nếu
chưa đến 3-4 thứ đồ vật đã thành khí, nặng
ước 40 cân, đáng giá 20 quan tiền trở lên,
tức là hàng buôn thì cho phép nhân viên
thuế quan cứ lệ 40 phần lấy 1 phần mà
đánh thuế, lại trích mỗi gánh 6 đồng tiền
giao trả về thuế bến [16;513-514].
Theo sông Vị Hoàng có thể ra biển
qua hai cửa Liêu và Lác, vì vậy để tận thu
nguồn thuế từ các thuyền buôn, vào năm
1839 nhà Nguyễn đặt thêm sở thuế quan ở
xã Vị Hoàng trên cơ sở bản tấu trình của
Tổng đốc Định – Yên Trịnh Quang Khanh:
Nam Định từ khi đặt ra giới phận từng
hạt đến nay, thuyền buôn về phía xuôi ngày
càng tụ họp, các thuyền đi đến Hưng Yên,
Hải Dương, Hà Nội và các phủ Thái Bình,
Kiến Xương thuộc Nam Định thì đã có các
sở thuế quan ở Vạn Ninh (thuộc Nam
Định), Thuần Mĩ (thuộc Hải Dương), Mễ
Sở (thuộc Hưng Yên) trưng thu thuế lệ, duy
đến các phủ Thiên Trường, Nghĩa Hưng
thuộc Nam Định và Ninh Bình thì không có
thuế quan, kể thì cùng là thuyền buôn mà
có thuyền đánh thuế, có thuyền không đánh
thuế, thực chưa công bằng. Xin ở bến sông
ở xã Vị Hoàng đặt một sở thuế quan và ở
Phù Sa (tên xã ở ngã ba sông Vị Hoàng và
Ninh Bình) đặt một chi nhánh thuế quan,
phàm thuyền bè qua lại buôn bán chiểu
hàng hoá theo lệ tính thuế. [16;460]
Những thông tin từ các trạm thu thuế
quan tân thời Nguyễn cho biết dường như
lượng thuế thu được từ các cửa sông phía
Nam châu thổ chiếm ưu thế hơn so với các
cửa sông ven biển vùng Đông Bắc, nhất là
KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)
26
khi trạm tuần ti ở Vị Hoàng được thành lập
[17;695]. Điều đó dễ dàng được lí giải bởi
lẽ trong khoảng nửa đầu thế kỉ XIX, các
cửa sông ven biển của hệ thống sông Hồng
và sông Đáy được nhà Nguyễn chọn làm
hải khẩu cho các hoạt động ngoại thương
chính thức ở vùng duyên hải phía bắc đối
với người Hoa. Số thuế nhà nước thu được
hằng năm từ thuyền buôn ở bến Vị Hoàng
không phải là nhỏ. Theo Đại Nam thực lục
thì ở Nam Định có 2 sở quan tân, lệ thuế
nộp nửa bạc nửa tiền. Trên cơ sở đó, năm
1844, nhà nước đã xác định số thuế mỗi
năm mà sở quan tân ở Vị Hoàng phải thu là
43.000 quan [16;695], có giá trị tương
đương với khoảng 430 lạng vàng (1lạng =
37,7831gr) [1;23] theo giá thị trường
những năm 30-40 của thế kỉ XIX.
3.2. Hệ thống chợ
Do đặc điểm của địa hình mà ở Vị
Hoàng – Nam Định phổ biến loại hình chợ
- bến. Bến là chợ và chợ cũng đồng thời là
bến. Dựa vào kết quả khảo sát thực địa
cũng như những thông tin từ tấm bản đồ
của H. Rivière hiện còn lưu tại Bảo tàng
Nam Định, có thể khẳng định rằng: phố Vị
Hoàng khi xuất hiện chắc chắn cũng dưới
hình thức của một chợ - phố nằm cạnh bến
sông Vị Hoàng. Trên phạm vi làng Vị
Hoàng và phố Vị Hoàng từng có ngôi chợ
Vị Hoàng khá nổi tiếng.
Địa bạ của làng Vị Hoàng cho biết có
địa danh Thị Thượng, có lẽ có nguồn gốc
xuất xứ từ chợ Vị Hoàng (còn có tên gọi
khác là chợ Thượng, chợ Trên, chợ Thị
Thượng). Đại Nam nhất thống chí ghi
nhận: “Chợ Vị Hoàng, có một tên nữa là
chợ Vị Xuyên, ở phía đông huyện Mĩ Lộc
thuộc địa phận xã Vị Hoàng, buôn bán tấp
nập, là chợ lớn trong tỉnh” [18;403]. Hoàng
Việt nhất thống dư địa chí cho biết thêm:
“Từ cửa Đông Bắc bên trái trấn thành, 50
tầm đến chợ xã Vị Hoàng” [6; 45]. Đồng
Khánh dư địa chí cho biết thêm: “Dân tứ
chiếng ở đông đúc xung quanh tỉnh lị,
Người buôn bán đầy chợ” [7; 298].
Trong Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi
(1876), Trương Vĩnh Kí đã đánh giá Nam
Định là tỉnh mạnh thứ nhất Bắc Kì “Ruộng
nương tốt, nhân vật thịnh, buôn bán lớn,
chợ búa đông” [11; 22]. Ngoài ra, các cuốn
địa chí địa phương đều ít nhiều đề cập đến
chợ Vị Hoàng. Khiếu Năng Tĩnh còn chỉ rõ
vị trí của chợ Vị Hoàng sau này là thuộc
phố Định Hữu.
Chợ Vị Hoàng theo lời kể của các cụ
cao niên còn nhớ việc xưa nay, là nơi buôn
bán trên bến dưới thuyền. Chợ vừa cận kề
bến sông, lại vừa nằm ngay trên trục của
con đường chạy dọc theo làng Vị Hoàng,
qua trước cửa đình. Dân làng thường quen
gọi là chợ Trên hay chợ Nhớn. Vốn là chợ
làng, tháng họp 6 phiên vào các ngày 5, 7,
15, 17, 25, 27 nhưng do có bến sông nên
các hoạt động buôn bán ở chợ Vị Hoàng
luôn diễn ra tấp nập, nhộn nhịp [8; 164].
Vì nằm gần kề bến sông, nơi tụ bến
của thuyền bè xuôi ngược qua tuyến sông
Đáy và cả sông Hồng, nên chợ Vị Hoàng
còn là điểm đến của các mặt hàng nông
thuỷ hải sản từ các chợ lớn của vùng.
Vị Hoàng duy trì mối liên hệ với các
chợ lớn của hầu hết các huyện trong tỉnh
qua hệ thống giao thông thủy bộ thuận tiện.
Từ các chợ lớn ở Giao Thủy, Phong
Doanh, Nam Chân đã thu gom về Vị
Hoàng thóc gạo, ngô, khoai, đậu đỗ cùng
cá, tôm, muối, mắm, thịt lợn, thịt trâu bò,
gà, vịt, trứng gia cầm các loại... Sau rau,
gạo, thịt, cá là vô vàn các loại rau, quả
được trồng từ các làng ven Vị Hoàng hoặc
các làng xã khác trong tỉnh; đặc biệt có
nhiều thứ đặc sản được liệt vào hạng tiến
vua như chuối ngự, táo Cầu Gia, cam,
quýt, và hàng loạt các sản phẩm của thủ
công nghiệp dân gian phục vụ sinh hoạt,
TRẦN THỊ THÁI HÀ
27
sản xuất đã dồn về, làm phong phú thêm
các mặt hàng ở chợ Vị.
Thứ được bán chạy nhất ở chợ Vị là
thóc, gạo. Vốn là một vùng có thế mạnh về
nông nghiệp trồng lúa, vùng đất Thiên
Trường có điều kiện thuận lợi hơn rất
nhiều địa phương khác về khả năng sản
xuất một mặt hàng có giá trị thương mại
cao là lúa gạo. Hơn nữa, diện tích trồng trọt
lớn và không ngừng được mở rộng nhờ
công cuộc khai hoang, lấn biển, đắp đê
ngăn mặn; năng suất thu hoạch cao, đảm
bảo nguồn cung cho thị trường toàn vùng.
Cùng với sự phát triển của các luồng
thương mại nội địa thông qua mạng lưới
chợ ở các địa phương, thì lúa gạo ngày
càng khẳng định vai trò là một sản phẩm có
giá trị cao, khả năng trao đổi lớn, số lượng
người tham gia mua – bán chuyên lẫn
không chuyên cũng đông nhất và đa dạng
nhất. Giá lúa gạo trên thị trường ở những
thời điểm nhất định đã trở thành thước đo
của sự bình ổn về chính trị và tình hình tài
chính quốc gia. Chính các Hoa thương là
những người sớm phát hiện ra giá trị của
mặt hàng này và nhiều người trong số họ
đã lập các cơ sở thu mua, vận chuyển, buôn
bán gạo như một hình thức kinh doanh siêu
lợi nhuận trên lãnh thổ Đại Việt mà Thiên
Trường – Vị Hoàng là một trung tâm sản
xuất, cung ứng, trao đổi lớn của miền Bắc
Việt Nam giai đoạn trước năm 1945. Địa
danh Bến Thóc hiện còn trên bản đồ hành
chính của thành phố Nam Định và vị trí
ven bờ sông của nó phải chăng có mối liên
quan đến hoạt động kinh doanh này ở Vị
Hoàng xưa là vấn đề mà chúng tôi đang
tìm kiếm thông tin để làm rõ.
Sau thóc, gạo là sản phẩm tơ lụa các
loại, chiếm vị trí khu vực trung tâm của
chợ Vị Hoàng. Ở giữa chợ là khu chuyên
bán hàng vải, bày bán những tấm vải nâu
Đồng Lầm, những tấm vải láng thâm, vải
chéo go, lĩnh, đũi, sồi, tơ lụa, vóc, nhiễu,
lưỡng, the, lượt, là, những tấm vải vuông
ta dệt bằng khung cửi để các bà các cô mua
về may áo dài tứ thân hay may quần cũng
rất đẹp [9;40].
Ngoài ra, mặt hàng thường nhật được
bày bán ở chợ, thu hút đông đảo người dân
tham gia buôn bán trao đổi là các loại rau,
màu (khoai, ngô, đậu nành, lạc, vừng, bắp
cải, hành, rau quan âm, rau các loại,),
hoa quả (cam đường, vải, dưa hấu, dừa,
hồng không hạt, bách nhãn lê,), trầu
không, cau, thuốc lào, cây cảnh các loại
được trồng ở các xã, huyện lân cận cũng có
mặt tại chợ Vị Hoàng. Bên cạnh các sản
phẩm từ nông nghiệp trồng trọt thì còn có
các sản phẩm từ chăn nuôi gia đình, đánh
bắt thủy hải sản như lợn, trâu, bò, chó, thỏ,
vịt, gà, mèo, trứng gia cầm các loại; tôm,
cá tươi, mắm, muối; các mặt hàng làm từ
mây, tre, nan cho cuộc sống sinh hoạt của
người dân như nong, nia, sàng, thúng,
dành, sọt, rổ, rá, dậm, đơm, đó, vó, lờ;
các loại công cụ sản xuất nông nghiệp...
Các bến như Bến Thóc, Bến Giá Nứa,
Bến Gỗ, Bến Củi, Bến Đò Chè, Đò Quan,
Đò Bái không chỉ đón đưa người từ các
huyện, xã lân cận đến với Vị Hoàng mà
còn là nơi neo đậu của thuyền bè xuôi
ngựơc chở hàng hoá từ miền Trung ra,
miền thượng du và kinh đô Thăng Long
xuống làm cho hoạt động của chợ Vị
Hoàng thêm sôi động.
Sự nhộn nhịp của khu vực chợ, bến
sông Vị Hoàng có sức hấp dẫn đối với lớp
thợ thủ công, thương nhân cũng như dân
nghèo từ các huyện lân cận hay xa hơn là
từ các địa phương khác của châu thổ sông
Hồng đổ về đây sinh cơ lập nghiệp, ở xen
kẽ với người làng. Nhà cửa, phố xá mọc
lên san sát, dần hình thành nên các khu phố
của từng ngành nghề chuyên sản xuất hoặc
buôn bán những mặt hàng nhất định.
KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)
28
Bến - cảng sông Vị Hoàng luôn là
điểm đến, dừng nghỉ, neo đậu của các tàu
thuyền buôn lớn và từ đây, hàng hóa được
đưa đến chợ Vị Hoàng. Bên cạnh đó, cùng
với hoạt động của hàng loạt các chợ - bến
phụ cận như Đò Chè, Bến Thóc, Bến Giá
Nứa, Đò Quan, Đò Bái mà chợ Vị
Hoàng hoàn toàn thoát khỏi sự gò bó trong
khuôn khổ chật hẹp của một chợ làng
thông thường. Hơn thế, với tất cả những
điều kiện khách quan thuận lợi, chợ Vị
Hoàng đã vươn lên thực hiện chức năng
của một điểm trung chuyển, một trung tâm
trao đổi buôn bán hàng hoá lớn trong toàn
vùng. Vậy nên, cảnh người buôn bán đầy
chợ, ghe thuyền tấp nập, phố hàng san
sát như miêu tả của tài liệu đương thời là
sự phản ánh chân thực hình ảnh cuộc sống
thường nhật vô cùng nhộn nhịp ở đô thị Vị
Hoàng nói chung và khu vực chợ bến Vị
Hoàng nói riêng.
Cùng với sự xuất hiện của các phố
hàng buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp
thì chợ Vị Hoàng trong thời gian tồn tại
của mình đã trở thành là một chợ lớn của
thành Nam. Có thể khẳng định rằng trước
khi có chợ Rồng thì Vị Hoàng là chợ lớn
nhất, là trung tâm buôn bán trao đổi hàng
hóa của thành Nam với các làng, xã,
huyện, phủ trong tỉnh cũng như với các địa
phương lân cận.
Ngoài chợ Vị Hoàng, trên địa phận của
làng, còn có một ngôi chợ nhỏ hơn, tên là
chợ Hạ hay còn gọi là chợ Thị Hạ, chợ
Dưới nằm ở thôn Thị Hạ của Vị Hoàng.
Xung quanh chợ Hạ còn có một số vấn đề
chưa được làm sáng tỏ như: phải chăng đây
chính là chợ Phượng đã có từ thời Trần?
Chợ Phượng, chợ Hạ và chợ Đò Chè liệu
có phải là một hay không?
Chợ Thị Hạ hầu như không được nhắc
đến trong bất kì cuốn địa chí nào biên soạn
thời phong kiến. Thông tin về chợ Thị Hạ
tản mát trong các tài liệu chép tay nhưng
hoàn toàn mờ nhạt và thiếu cơ sở tin cậy để
kiểm chứng. Lớp người cao tuổi nhất ở
Nam Định ngày nay cũng không biết đến
chợ này, vì vậy việc xác định địa điểm của
chợ cũng như những hoạt động trao đổi
hàng hoá từng diễn ra ở đây là điều chúng
tôi chưa thể thực hiện cho đến thời điểm
hiện tại.
Chợ Đò Chè, Bến Gỗ, Bến Củi, Bến
Nứa, Bến Thóc là một dạng chợ - bến,
nhưng nếu so sánh với chợ Vị Hoàng, thì
tính chuyên doanh của những chợ này khá
rõ nét. Trường hợp Bến Nứa (hay còn có
tên Giá Nứa), chợ Đò Chè rất rõ nét:
Bến Giá Nứa là nơi chuyên đón các bè gỗ,
tre, nứa từ miền ngược xuống hay từ Thanh
Hoá ra. Do vậy mà mặt hàng chính ở chợ -
bến này như tên gọi của nó đã thể hiện. Tre
nứa được sử dụng rộng rãi trong xây dựng
nhà cửa, đình làng, chùa, đền; phục vụ việc
đóng cọc tu bổ đê điều, hoặc kết thành bè
chuyên chở đất đá để kè, đắp các đoạn đê
xung yếu Không có gì đáng ngạc nhiên
khi buôn bán tre nứa trở thành một hoạt
động sôi nổi dọc theo tuyến sông Đáy giai
đoạn trước năm 1945. Trong một công
trình của mình về làng Việt, học giả John
Kleinen đã đề cập đến hiện tượng này
[13;52]. Dọc theo bờ sông là những ngôi
nhà của các gia đình làm nghề buôn bán
nứa bè, gỗ bè. Phía trước nhà, họ dựng
những chiếc giá để giữ cho những cây nứa,
tre gác lên đó được ngay ngắn. Tên gọi
Giá Nứa có lẽ đã bắt nguồn từ thực tế này.
Chợ Đò Chè không họp theo phiên
như chợ Vị Hoàng, mà vào bất kì ngày nào
hàng hóa cũng được bày ra bán. Sở dĩ có
tên gọi Đò Chè vì tại đây người ta thường
đón các chuyến chè tươi chở từ vùng Bồng
Lạng của Hà Nam để cung cấp cho dân phố
cũng như các huyện phía nam của tỉnh.
Loại chè này chủ yếu phục vụ cho tầng lớp
TRẦN THỊ THÁI HÀ
29
bình dân, còn chè mạn (Mạn Hảo – xuất xứ
từ miền trung du Tây Bắc của Đại Việt) là
mặt hàng cao cấp của giới thượng lưu thì
việc buôn bán do người Hoa nắm giữ. Đôi
khi, tại chợ - bến cũng bắt gặp những
người nông dân mang mớ tôm, cá mới
đánh bắt, hay mớ rau, ổ chó ra bán cho
những chủ thuyền, chủ bè. Tuy nhiên, đây
không phải là hoạt động thường xuyên của
khu vực chợ - bến này.
Theo Hoàng Việt nhất thống dư địa
chí: xung quanh chợ Vị Hoàng, trong phạm
vi gần là hàng loạt các chợ như:
Chợ xã Dương Lai (cách trấn thành
428 tầm), chợ Trình (xã Trình Xuyên, cách
trấn thành 460 tầm); chợ Côi (xã Đăng
Khôi, cách trấn thành 535 tầm) thường bán
trâu bò; chợ Vĩnh (cầu Vĩnh Tế, cách trấn
thành 370 tầm); chợ Hữu Bị (xã Hữu Bị,
cách trấn thành 758 tầm); chợ Tiểu Phấn
(xã Tiểu Phấn, cách trấn thành 420 tầm);
chợ Gừng (xã An Nội, cách trấn thành 697
tầm) Có những loại chợ chuyên bán một
loại sản phẩm như chợ gạo, chợ sắt ở Vân
Chàng. Chợ Chùa ở Vân Chàng bán nhiều
mặt hàng nhưng nổi tiếng nhất vẫn là
khoai lang. [6;453-456]
Đáng chú ý là thời kì này, ở Nam Định
còn có một số tụ điểm buôn bán khá sầm
uất, là những “tiểu đô hội” như chợ Đình,
chợ Quán ở làng Hành Thiện, phố Độc Bộ
ở Ý Yên, phố Chân Ninh ở Trực Ninh. Sự
hiện diện của các phố như Độc Bộ, Chân
Ninh góp thêm những bằng chứng xác
thực về bước phát triển của hoạt động trao
đổi hàng hoá khu vực hạ châu thổ đồng
bằng sông Hồng thế kỉ XVII - XVIII.
Khoảng cách từ phố Vị Hoàng đến Độc Bộ
và Chân Ninh không xa, trong vòng bán
kính từ 10-15 km. Cũng giống như Vị
Hoàng, Độc Bộ và Chân Ninh đều có vị trí
cạnh sông, có thể liên thông với Vị Hoàng
một cách thuận tiện và nhanh chóng bằng
đường thuỷ cũng như đường bộ. Như vậy,
ngay trong phạm vi địa phương, từ ba điểm
tập trung dân cư, buôn bán và sản xuất thủ
công nghiệp như Vị Hoàng, Độc Bộ và
Chân Ninh đã tạo nên mạng lưới thương
nghiệp nhỏ. Trong đó, Vị Hoàng nổi trội
hơn cả và ở mức độ nhất định đã tác động
qua lại với Độc Bộ, Chân Ninh.
Ở cự li xa hơn, qua sông Hồng, hàng
hoá vật phẩm đến Vị Hoàng còn có thể từ
vùng Châu Cầu (Hà Nam) hay Bình Lao,
Hàm Giang (Hải Dương), Vân Sàng
(Ninh Bình).
3.3. Phố hàng sản xuất và buôn bán
Vị Hoàng xưa không chỉ là một trung
tâm thương nghiệp quan trọng mà còn là
nơi có nhiều ngành nghề thủ công phát
triển. Với vị trí đắc địa của mình, Vị
Hoàng thu hút về đây đông đảo thương
nhân, thợ thủ công của khu vực đồng bằng
Bắc Bộ, đặc biệt là các địa phương thuộc
trấn Sơn Nam như một số khu vực của Hà
Nội và Hà Tây cũ, Hưng Yên, Hà Nam,
Ninh Bình
Theo thần phả của hàng loạt đình, đền,
miếu trên địa bàn thành phố Nam Định
ngày nay thì có rất nhiều thợ thủ công tài
hoa từ các làng nghề tìm về Vị Hoàng sinh
cơ lập nghiệp. Có thể khẳng định chắc
chắn rằng, ở miền Bắc, sau Thăng Long,
phố Vị Hoàng xưa là nơi tập trung nhiều
nghề thủ công truyền thống. Có ít nhất ba
nguyên nhân chính dẫn đến việc những
người thợ thủ công giỏi từ Hà Tây, Hải
Phòng, Bắc Ninh, Thái Bình đã tập trung
về Vị Hoàng, đó là:
Thứ nhất, việc xây dựng và kiến thiết
hành cung Thiên Trường trong thế kỉ XIII
– XIV với vóc dáng như một thứ đô, kiểu
cách và quy mô cho xứng với các bậc đế
vương đòi hỏi phải có bàn tay và trí óc của
những người thợ giỏi từ nhiều địa phương
được trưng tập về đây làm việc.
KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)
30
Thứ hai, trong thời kì giặc Minh xâm
lược cũng như sau này, khi cuộc chiến
Nam - Bắc triều rồi chiến tranh Trịnh -
Nguyễn liên miên khiến đời sống nhân dân
bất ổn, thì người ta “đói lên Bắc chạy giặc
về Nam”. Những người thợ thủ công đã
cùng gia đình, họ hàng thân thuộc tản cư
xuống phía nam, về Vị Hoàng.
Thứ ba, vào giữa thế kỉ XVIII, Phố
Hiến đang dần mất đi vị thế của mình vì
nhiều nguyên nhân, trong khi Vị Hoàng trở
thành trấn lị của Sơn Nam Hạ lộ (1741),
với tiềm năng sẵn có và triển vọng phát
triển thì một số hộ gia đình/ dòng họ các
thợ nghề cũng đã di dời từ Phố Hiến sang
Vị Hoàng để tiếp tục hoạt động vừa sản
xuất, vừa kinh doanh.
Có lẽ bởi những nguyên nhân trên mà
ở đô thị Vị Hoàng từng tồn tại rất nhiều
nghề thủ công, tương tự như ở Thăng Long.
Phố Vị Hoàng theo quy hoạch dân
gian được giới hạn bởi “Thượng Phụ Long,
hạ Đồn Thủy”, trải dọc bên bờ sông Vị.
Theo tấm bản đồ của H. Riviere vẽ năm
1883 thì các khu phố của Vị Hoàng đều
hình thành bên dòng sông Vị Hoàng, đặc
biệt là sự hiện diện của những phố có tên
gọi bắt đầu bằng chữ “Hàng”.
Các phố ở Vị Hoàng – Nam Định
thuộc khu phố buôn bán xưa xuất hiện
chính xác từ thời điểm nào là vấn đề rất
khó xác định vì thiếu tài liệu gốc làm căn
cứ. Tất cả các tư liệu địa chí, tư liệu thành
văn thu thập được trong quá trình điền dã
cũng như các văn bia, thần tích, thần phả
đều không đem lại câu trả lời cho vấn đề
trên. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng,
trước khi thực dân Pháp chiếm Nam Định
năm 1883 thì một số đường phố ở đây đã
hình thành. H. Riviere thể hiện rất rõ một
số tuyến phố trên bản đồ như phố Hàng
Tiện, Hàng Đồng, phố Khách. Ngoài ra,
trong nhiều tài liệu khác cũng cung cấp tên
gọi của các phố, qua đó cho thấy số lượng
các phố, đường ở Nam Định vào cuối thế
kỉ XIX có thể lên đến vài chục.
Một điều dễ dàng nhận thấy là sự trùng
lặp, giống nhau về tên gọi rất nhiều con
phố ở Vị Hoàng với Thăng Long – Hà Nội,
đó là sự bắt đầu bằng chữ “Hàng” và sau
đó là tên của một nghề hay một sản phẩm
của nông - lâm - ngư - thủ công nghiệp
truyền thống.
Nếu ở Thăng Long, phường thủ công
vừa là đơn vị hành chính, vừa là đơn vị
kinh tế thì hiện tượng này không xuất hiện
ở Vị Hoàng. Sự giống và khác biệt ở một
số địa danh thuộc không gian hành chính
giữa hai đô thị chỉ có thể giải thích ở ảnh
hưởng lan tỏa của Thăng Long tới các đô
thị vệ tinh. Từ “phố” xuất hiện ở Thăng
Long muộn hơn từ “phường”, bởi trong thư
tịch cổ, từ thời Trần đã chia Thăng Long
thành 61 phường. Lúc đầu “phố có nghĩa là
một bến, bờ, một đường dọc bờ sông
phố gắn liền với hoạt động buôn bán,
thương mại. Ngay cả các xưởng thủ công ở
các phố cũng gắn liền với việc buôn bán
của chính mặt hàng đó” [10;107).
Vị trí khu vực phố hàng buôn bán của
Vị Hoàng - Nam Định xưa, sách Đại Nam
nhất thống chí chỉ rõ nằm về phía đông của
thành tỉnh, gần (kề) bến sông: “Còn như
nơi đô hội ở phía đông tỉnh thành, hàng
chợ liên tiếp, buôn bán giao thông, thuyền
bè tấp nập; dân đông mà của nhiều, thực là
một khu giàu rộng, một trấn quan trọng của
Bắc Kì” [18; 387]. Đồng Khánh dư địa chí
đã miêu tả: “Dân buôn bán bốn phương tấp
nập, phố chợ châu đầu vào nhau, nhà vách
liền kề, ghe thuyền san sát, các nghề thợ
cũng bày hàng ở chợ. [7; 307].
Nam Định địa dư chí có đôi dòng nhắc
đến 7 phố Vị Hoàng: “Tỉnh thành đặt khu
trên các hạt phủ huyện, thuộc về địa phận
các làng Vị Xuyên, Năng Tĩnh trong huyện
TRẦN THỊ THÁI HÀ
31
Mĩ Lộc Sau lưng đất đồng bằng, trước
mặt sông Vị Hoàng, bên tả phía đông phố
xá la liệt gọi là 7 phố Vị Hoàng” [5;5]
7 phố Vị Hoàng có thể chính là những
phố được hình thành đầu tiên. Tuy nhiên,
tên của 7 phố Vị Hoàng đầu tiên đó cụ thể
như thế nào thì Tân biên Nam Định tỉnh
địa dư chí lược, Nam Định tỉnh địa dư chí
mục lục và Nam Định địa dư chí đều
không viết rõ. Chúng tôi cho rằng các phố
đầu tiên này có lẽ được hình thành bắt đầu
từ khu vực mom sông gần bến đò Phụ
Long và chợ Vị Hoàng kéo dài cho đến chợ
Đò Chè, chủ yếu nằm trên phần đất của
thôn Thị Thượng xưa.
Xung quanh chợ Vị Hoàng, dân làng
Vị Hoàng mở hàng quán buôn bán. Sau
này cư dân từ các địa phương khác như
Thăng Long và khu vực ven đô, Hải
Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình,
Kinh Bắc, Thanh Hóa và một số xã, huyện
của tỉnh Nam Định đến làm nghề, buôn
bán rồi cư ngụ trên đất làng, ở xen kẽ với
người làng, mở mang thành các con phố.
Nhà cửa mọc lên san sát, phố xá định hình,
theo các ngành nghề buôn bán mà ở thành
từng khu vực. Qua khảo sát thực tế kết hợp
với các nguồn tài liệu cho thấy, 7 phố Vị
Hoàng là các phố: Hàng Cót, Hàng Nâu,
Hàng Bát, Hàng Mâm, Hàng Song, Hàng
Sắt, Bến Ngự.
Xét về phạm vi phân bố, 7 phố nêu
trên nằm trải theo dòng sông Vị, thuộc thôn
Thị Thượng (phần tiếp giáp với Phụ Long)
đến thôn Thị Hạ, kết nối hai chợ Thượng,
Hạ của làng.
Những hoạt động trao đổi hàng hoá đã
kích thích sự phát triển của thủ công
nghiệp, thương nghiệp trong vùng và đồng
thời kéo theo sự hưng thịnh của một khu
vực chợ bến bên sông Vị Hoàng. Đến cuối
thế kỉ XIX, ở Vị Hoàng đã có thêm hàng
loạt các phố hàng mới ngoài 7 phố đầu tiên
đã nêu ở trên. Theo thống kê của Hoàng
Chương Dương thì Vị Hoàng xưa có 37
phố cổ gọi theo mặt hàng sản xuất buôn
bán, 4 phố gọi theo bến sông, 1 phố gọi tên
bờ sông, 3 phố gọi theo cửa thành (Nam,
Đông, Bắc) cùng phố Cửa Trường, ngõ
Văn Nhân và Hàng Kẹo thành 45 phố cổ
[4;133-134]. Một số phố còn được nhắc
đến như: song song với đường Trần Hưng
Đạo ngày nay chạy tới sông Vị Hoàng là
các phố Hàng Màn, Hàng Rượu, Hàng
Thiếc, Hàng Đàn (thời Pháp đặt tên chung
là Rue France, nay thuộc Hai Bà Trưng,
Hàng Cau (thời Pháp là Jules Ferry). Nằm
sau dãy phố này là Hàng Mã, Hàng Mũ
(năm 1921 Pháp đặt là Hà Nội), tiếp đến
Hàng Giấy, Phố Khách, Hàng Lọng, Hàng
Dầu (thời Pháp, các phố này được đặt tên
chung là Mareschal Foch, nay là phố
Hoàng Văn Thụ). Tiếp đó một con đường
khác cũng từ khu vực chợ Rồng ngày nay
ra tới sông Vị là các phố Hàng Nón, Hàng
Khay, Hàng Quỳ, Hàng Tiện, Hàng Cấp
(thời Pháp đặt tên đường này là Henri
Riviere). Ra bờ sông Vị còn một đường
phố gồm Hàng Đường và Hàng Đồng, hai
phố này thời Pháp mang tên chung là Rue
de Cuivre, nay là Hàng Đồng. Từ chợ
Rồng lên phía Bắc có phố Hàng Mắm,
Hàng Gà, nay là phố Lý Thường Kiệt. Từ
bờ sông vào chân tường thành xưa có một
dãy phố chạy song song với Hàng Đồng
gồm Hàng Thùng, Hàng Giấy, Hàng
Mành, Hàng Cầm (nay là phố Bắc Ninh).
Về phía Nam của chợ Rồng, bên bờ sông
hơi lùi vào trong là phố Hàng Nồi (nay là
Nguyễn Thiện Thuật). Song song với bờ
sông là phố Hàng Sũ, Hàng Ghế (nay là
phố Phan Đình Phùng) và phố Hàng
Thao [4; 133-134].
Các phố hàng là nơi sinh sống và làm
nghề của những người có chung quê hương
bản quán hoặc cùng làm một nghề. Họ đã
KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)
32
lập nên những ngôi đền thờ tổ nghề hoặc
đình thờ thành hoàng bản quán ở ngay trên
phố nghề xưa (một số hiện nay vẫn còn tồn
tại, nằm rải rác trên các con phố của thành
phố Nam Định. Nhiều di tích nằm lẫn trong
khu vực dân cư, phố xá hoặc bị lấn chiếm,
phá rỡ trong quá trình phát triển, đô thị hóa
của thành phố Nam Định hiện đại). Qua gia
phả, văn bia câu đối thờ trong các di tích
còn lại này cho thấy một thực tế là hầu hết
người ở phố đều từ các địa phương khác
đến đây sinh cơ lập nghiệp, không phải là
dân gốc của làng Vị Hoàng. Người Hoa
sinh sống rải rác ở các phố hàng, nhưng
đông đảo nhất là trên phố Khách (nay là
Hoàng Văn Thụ) và Hàng Sắt dưới. Họ
luôn tỏ rõ sự thông thạo trong kinh doanh
buôn bán, quản lí tài chính và tinh thần
tương trợ cao trong nội bộ cộng đồng.
Đánh giá về tình hình kinh tế của Nam
Định như một trong những đô thị nổi bật
của xứ Đông Dương thuộc Pháp cuối thế kỉ
XIX, Ch.Lemire đã viết:
Nam Định là thành phố lớn của tỉnh
Nam Định, nằm dọc 4 km bên bờ sông Nam
Định, với những ngôi nhà được xây bằng
gạch và nhiều ngôi nhà khác theo lối kiến
trúc của người Hoa khác với nhà của
người bản xứ. Những con phố, cũng như
chợ búa, dọc bên bờ sông đều rất đông vui
nhộn nhịp Các hãng vận tải đường sông
và nhiều xà lan chạy máy hơi nước đi qua
Nam Định để đến Hưng Yên” [12;99].
4. Kết luận
Ra đời muộn hơn Thăng Long, Phố
Hiến, đô thị Vị Hoàng vừa có những nét
chung của đô thị Việt Nam thời trung đại,
nhưng đồng thời lại sở hữu những điểm
độc đáo riêng, mang dấu ấn của bối cảnh
lịch sử và tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội của đất nước thời kì này.
Nhìn vào kết cấu kinh tế của đô thị Vị
Hoàng có thể dễ dàng nhận thấy, đô thị
này có vai trò chủ yếu là điểm trung
chuyển, tập kết hàng hóa trên thủy trình
xuôi ngược Bắc Nam, từ lục địa ra biển và
ngược lại của các tàu thuyền vận tải, buôn
bán nội địa, thuyền nhà Thanh hay thuyền
công của Nhà nước nhờ có vị thế thuận
lợi. Từ cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX,
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế hàng hoá của đất nước là
sự hình thành các tuyến giao thương
đường dài giữa miền Thanh Nghệ, miền
Trung với Đàng Ngoài; giữa miền thượng
du, trung du với khu vực đồng bằng ven
biển. Và như vậy, không thể phủ nhận vị
trí đắc địa của cảng, bến sông Vị Hoàng
khi toạ lạc tại đầu mối các tuyến giao
thông thuỷ bộ, tập trung nhiều luồng hàng,
mặt hàng phong phú.
Đô thị Vị Hoàng không thể so sánh với
Thăng Long – Kẻ Chợ về quy mô cũng
như các giao dịch thương mại, lượng hàng
– tiền được trao đổi. Tuy nhiên, sự hiện
diện của đô thị Vị Hoàng như một trung
tâm tập kết, trao đổi và sản xuất hàng hóa ở
nơi giao điểm của các tuyến đường thủy
bộ, các luồng hàng hải từ thượng du xuống
miền duyên hải ven biển, từ miền Trung ra
khu vực Bắc Bộ đã tạo ra những chấm phá
quan trọng trên bức tranh kinh tế Việt Nam
giai đoạn tiền thuộc địa. Ở mức độ nào đó,
có thể coi thực trạng kinh tế ở Vị Hoàng là
sự phản ánh trung thực tình hình kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn đang diễn ra
những chuyển biến quan trọng, khi chế độ
phong kiến với quan hệ sản xuất lỗi thời
đang phải tiếp nhận và chịu nhiều thử thách
từ những biến động xã hội đế sự xuất hiện
của hàng loạt các nhân tố mới trong lĩnh
vực thương mại và sản xuất hàng hóa,
bước đầu hướng đến nhu cầu thị trường nội
địa và khu vực.
TRẦN THỊ THÁI HÀ
33
Chú thích
1. Tuyến thứ hai đi vào cửa sông Thái Bình, còn
gọi là sông Đàng Ngoài, qua Domea và Batsha.
2. Thuyền hiệu Ba: Dài 6 trượng 6 thước 1 tấc;
ngang 1 trượng 6 thước, sâu 8 thước 2 tấc;
không có mái chèo.
Thuyền hiệu Lãng: Dài 5 trượng 8 thước 7
tấc; ngang 1 trượng 5 thước, sâu 8 thước 2
tấc, 44 mái chèo.
Thuyền lê hạng lớn: Dài 5 trượng 2 thước
6 tấc; ngang 7 thước 2 tấc; sâu 3 thước 1 tấc,
36 mái chèo.
Thuyền ô, thuyền son, thuyền sai: Đều dài
4 trượng 8 thước; ngang 8 thước 4 tấc, sâu 3
thước 2 tấc, 30 mái chèo.
Thuyền sam bản: Dài 3 trượng 6 thước 5
tấc; ngang 8 thước 5 tấc; sâu 2 thước 2 tấc 5
phân; 32 mái chèo.
Thuyền khoái: Dài 3 trượng 3 thước,
ngang 3 thước 3 tấc, sâu 1 thước 3 phân; 12
mái chèo.
Thuyền sam bản nhỏ: Dài 1 trượng 8
thước, ngang 3 thước 3 tấc, sâu 1 thước 7 tấc,
10 mái chèo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Bang (1999), Kinh tế thương nghiệp Việt
Nam dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
2. Châu bản, Minh Mệnh năm thứ 4 (1823),
Xuất xứ: Trấn Nam Định, tờ 111, tập 6, Trung
tâm lưu trữ quốc gia I.
3. Châu bản, Minh Mệnh năm thứ 5(1824), Xuất
xứ: Bắc thành, tờ 41, tập 8, Trung tâm lưu trữ
quốc gia I.
4. Hoàng Chương Dương (2013), “Phố cổ thành
Nam”, Văn hiến Nam Định, Nxb Văn hóa
thông tin, Nam Định.
5. Ngô Giáp Đậu (2007), Nam Định địa dư chí,
Bản dịch của Dương Văn Vượng, bản đánh
máy lưu tại Bảo tàng Nam Định.
6. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất
thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, Trung tâm
văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, Huế.
7. Đồng Khánh dư địa chí (2006), Nxb Thế giới,
Hà Nội.
8. Trần Thị Thái Hà (2017), Từ hành cung Tức
Mặc – Thiên Trường đến đô thị Vị Hoàng,
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
9. Nguyễn Thừa Hỷ (1993), Thăng Long –
Hà Nội thế kỉ XVII-XVIII-XIX, Hội sử học
Việt Nam.
10. Trần Nhật Hanh, Quê hương tôi có dòng sông
Vị. Tài liệu chép tay, do ông Trần Nhật Tân,
quân nhân hưu trí tại đường Nguyễn Tri
Phương, Thành phố Đà Nẵng cung cấp.
11. Trương Vĩnh Kí (1881), Chuyến đi Bắc Kì
năm Ất hợi (1876), Bản in Nhà hàng
C.Guilland et Martinon, Sài Gòn.
12. Ch.Lemire (1899), Ch. Lemire (1899), Les
cinq pays l’Indo-chine fraçaise.
L’établissement de Kouang-Tchéou. Le Siam
(leur situation économique par Ch. Lemire.
Résident honoraire de France). A.Challamel,
Editeur libraire coloniale, 17, rue Jacob, Paris.
13. John Kleinen (2012), Làng Việt, Đối diện
tương lai hồi sinh quá khứ, Nxb Lao động,
Hà Nội.
14. Nguyễn Quang Ngọc (1993), Về một số làng
buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỉ XVIII – XIX,
Hội sử học Việt Nam, Hà Nội.
15. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004a), Đại Nam
thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004b), Đại Nam
thực lục, tập V, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006a), Đại Nam
thực lục, tập VI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Quốc sử quan triều Nguyễn (2006b), Đại Nam
nhất thống chí, tập III, Nxb Thuận Hóa, Huế.
19. Khiếu Năng Tĩnh (1999), Tân biên Nam Định
tỉnh địa dư chí lược, Tài liệu do phòng Địa
chí – Thư mục Thư viện tỉnh Nam Định sưu
tầm, chỉnh lí và chế bản theo bản dịch của
Dương Văn Vượng.
Ngày nhận bài: 18/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_cau_kinh_te_cua_do_thi_vi_hoang_the_ki_xix.pdf