Nghiên cứu Yazan, Darshan và cộng sự cho thấy
stent chuyển dòng đã được phát triển để điều trị phình
động mạch não, gây ra thay đổi huyết động trong lòng
động mạch mang và trong túi phình. Dần dần tạo huyết
khối trong phình mạch theo thời gian, tuy nhiên sự đáp
ứng viêm đầy đủ, sự liền lại cùng sự tăng trưởng nội mô
sẽ làm xẹp phình mạch và tái cấu trúc lòng động mạch
mang, biến chứng gặp là huyết khối trong stent, phù xung
quanh túi phình, xuất huyết muộn, và tắc các nhánh bên.
Nghiên cứu của Saatci trong nghiên cứu điều trị
phình động mạch não bằng PED thay đổi dòng chảy với
chỉ định là các phình mạch cổ rộng (≥4 mm), hay hệ số
vòm túi phình/ cổ (≤1,5), phình lớn và khổng lồ, phình
hình thoi, phình bóc tách, phình dạng lồi nhẹ, phình với
những góc chọn lọc khó cho thấy các biến chứng hẹp
trong stent chiếm 0,5%, tỷ lệ biến chứng chung 14,1%,
trong đó khuyết tật vĩnh viễn chiếm 1%, tử vong 0,5%,
tắc hoàn toàn túi phình đạt 91,2% trong 6 tháng theo dõi.
Nghiên cứu của Brinjikji Waleed, Murad Mohammad và
cộng sự khi tổng kết điều trị phình động mạch não bằng
stent thay đổi dòng chảy của các nghiên cứu lớn trên
thế giới với 1451 bệnh nhân với 1654 túi phình. Tỷ lệ tắc
hoàn toàn túi phình là 76%, các biến chứng về khuyết
tật thần kinh là 5% và tử vong là 4%, xuất huyết dưới
nhện sau thủ thuật là 3%, xuất huyết nhu mô não là 3%,
nhồi máu não lỗ khuyết 3%, đột qụy nhồi máu não 6%.
Loại stent chuyển dòng được chúng tôi sử dụng là loại
Pipeline (EV3) và Fred Stent (MicroVention).
Kết luận chung của các nghiên cứu lớn trên thế
giới cho thấy điều trị phình lớn và khổng lồ động mạch
não bằng stent thay đổi dòng chảy cho thấy đây là kỹ
thuật an toàn, hiệu quả và lâu bền, tử vong và khuyết
tật thấp, tỉ lệ tắc phình cao theo thời gian theo dõi.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu can thiệp nội mạch điều trị phình động mạch não lớn và khổng lồ bằng stent thay đổi dòng chảy tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201854
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CAN THIỆP
NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH
NÃO LỚN VÀ KHỔNG LỒ BẰNG STENT
THAY ĐỔI DÒNG CHẢY TẠI BỆNH VIỆN
CHỢ RẪY
Initial results of endovascular neurointervention using
flow - diversion stent for treatment of large and giant
intracranial aneurysms at Choray Hospital
Lê Văn Phước*, Nguyễn Huỳnh Nhật Tuấn*, Lê Văn Khoa*
SUMMARY
* Khoa CĐHA bệnh viện
Chợ Rẫy
Objectives: Currently, interventional neuroradiology using coiling
technique for embolization of intracranial aneurysms has been becoming
a standard method, can be an alternative method for surgical clipping.
However, for wide-necked, fusiform, dissecting and giant aneurysms,
incomplete occlusion and recanalization were still main limitations for
long-termed outcomes. The development of flow-diversion stents has
been leading to the possibility of complete occlusion of aneurysms due to
change of blood flow into aneurysms, resulting in thrombogenesis inside
the aneurysms.
Subjects and methods: Interventional neuroradiology using flow-
diversion stent performed at Department of Radiology, Choray Hospital,
from 01/2015 to 06/2017, the technique as follows: digital subtraction
angiography, inserting of mirocatheter over the aneurysm neck, deploying
the flow-diversion stent over the aneurysm neck. The efficacy and safety
were evaluated by variants: complete and partial occlusion rates, procedural
success rate, clinical improvement, procedural complication.
Results: 24 cases of large and giant intracranial aneurysms treated
with flow-diversion stents, technical success rate 21/24 (87.5%), 03 cases
failed to be performed had to change to other treatment or follow-up, 01
case of abrupt death during follow-up. Conclusion: Using flow – diversion
stent is a new technique, may be effectively alternative method compared to
conventional aneurysmal coiling, especially in treatment of large and giant
intracranial aneurysms.
Key words: Large and giant intracranial aneurysms, flow – diversion
stent, interventional neuroradiology
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 55
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phình động mạch não là bệnh lý mạch máu thần
kinh khá thường gặp do suy yếu thành mạch dẫn đến
sự giãn ra khu trú dạng hình túi hay hình thoi, chiếm tỷ
lệ trung bình 4-6 % trong đại thể. Đa số phình mạch là
nhỏ và thường không có triệu chứng, bệnh nhân thường
vào viện khi phình mạch vỡ, các trường hợp phình động
mạch não lớn và khổng lồ ít gặp hơn và đa số bệnh nhân
đến khám vì do triệu chứng của khối choán chổ. Nguy cơ
tử vong đặc biệt rất cao (40%) nếu vỡ túi phình, và để lại
di chứng nặng nề, nguy cơ tử vong và di chứng cao hơn
khi phình mạch lớn và khổng lồ động mạch não [3], [4].
Hiện nay, can thiệp nội mạch tắc phình động mạch não
bằng vòng xoắn kim loại (coil) đã trở thành một phương
pháp điều trị tiêu chuẩn, có thể thay thế phẫu thuật kẹp
túi phình bằng clip. Tuy nhiên, đối với các phình cổ rộng,
phình dạng hình thoi, phình bóc tách, đặc biệt là các
phình lớn và phình khổng lồ, thì phương pháp này nút
tắc không hoàn toàn và tái thông vẫn còn là giới hạn
chính trong dự phòng mức độ ổn định lâu dài. Cùng với
sự ra đời và phát triển các thế hệ mới của stent thay đổi
dòng chảy bước đầu đã có một số báo cáo đánh giá hiệu
quả khá tốt trong điều trị phình mạch não [5], [9]. Hiện
nay ở Việt Nam phương pháp này đã được áp dụng và
điều trị ở các bệnh viện lớn như bệnh viện Bạch Mai,
Chợ Rẫy, Đại học Y Dược, ...
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục
đích đánh giá hiệu quả và tính an toàn của can thiệp
nội mạch trong điều trị bệnh nhân phình động mạch não
lớn và khổng lồ bằng stent thay đổi dòng chảy
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp: nghiên cứu tiến cứu, can thiệp,
không đối chứng, theo dõi dọc để đánh giá hiệu quả
theo thời gian.
- Tiêu chuẩn chọn bệnh: Tất cả bệnh nhân được
chẩn đoán phình động mạch não chưa vỡ, phình động
mạch não lớn (≥10 mm) và phình động mạch não
khổng lồ (≥25 mm), được thực hiện can thiệp nội mạch
tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh, bệnh viện Chợ Rẫy từ
1/2015 đến 06/2017.
- Phương pháp thu thập số liệu: Các đặc điểm cá
nhân, lâm sàng, tỷ lệ thành công thủ thuật, biến chứng
và tử vong, phân loại mức độ tắc theo Roy – Raymond,
gồm: loại I là tắc hoàn toàn, loại II là tắc gần hoàn toàn
còn một phần cổ phình, loại III là tắc bán phần.
- Phương tiện nghiên cứu:
Thực hiện trên máy DSA Artis Zee hãng Siemens,
Bệnh viện Chợ Rẫy.
Máy chụp cắt lớp vi tính 64 -128 dãy và Máy chụp
cộng hưởng từ 1.5T- 3T.
- Dụng cụ can thiệp nội mạch: stent thay đổi dòng
chảy Pipeline, Fred stent.
- Đạo đức nghiên cứu: Bệnh nhân được giải thích
về tình trạng bệnh, phương pháp, nguy cơ, biến chứng
của thủ thuật và ký vào biên bản đồng ý can thiệp và tự
nguyện tham gia vào nhóm nghiên cứu.
Hình 1. Minh họa mức độ tắc túi phình theo
Raymond-Roy [3]
Kỹ thuật thực hiện:
- BN được chụp cắt lớp vi tính và/ hoặc MRI và/
hoặc DSA để đánh giá đặc điểm phình mạch
- Bệnh nhân được uống thuốc kháng ngưng tập
tiểu cầu kép ít nhất 5 ngày trước can thiệp với Aspirin
81mg 1 viên/ ngày/ uống, Plavix 75 mg 1 viên/ ngày/
uống.
- Đặt ống thông Neuron Max 088 Long
sheath, vào gốc động mạch cảnh trong hoặc gốc động
mạch đốt sống, và Neuron 070 tịnh tiến đến gần phình
mạch.
- Luồn vi ống thông (Marksman - EV3 hoặc
Headway 27 - MicroVention) cùng vi dây dẫn (Transend
0.014” 205cm hoặc 300cm - Stryker, hoặc vi dây dẫn
Chikai 0.014” 200cm – Asahi Intecc) ngang qua cổ túi
phình và đi xa vào động mạch não giữa hoặc não sau
đoạn xa.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201856
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Tiến hành bung stent (Pipeline Embolization
Device – EV3 hoặc Fred stent – Microvention) ngang
qua cổ túi phình
- Đảm bảo stent phải mở hết và áp sát thành
mạch với các kỹ thuật đẩy stent, kéo và đẩy vi ống
thông hay stent hay cả hệ thống.
- Chụp DSA kiểm tra sau can thiệp
- Theo dõi bệnh nhân bằng CLVT hoặc MRI
trong 1 tháng, 3 tháng và DSA trong 6 tháng.
- Thuốc sau điều trị: duy trì Aspirin 81mg/ngày/
uống và Plavix 75mg/ngày /uống trong 6 tháng và sau
đó duy trì Aspirin 81mg/ngày/uống.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm mẫu: Với 24 bệnh nhân được chọn,
có 24 túi phình, đặt được 21/24 trường hợp, với 23
stent chuyển dòng được đặt trong đó có 2 bệnh nhân
được đặt 2 stent chuyển dòng, tuổi trung bình 51,4 ±
13,4 tuổi trẻ nhất 27, lớn nhất là 73 tuổi. Tỉ lệ nữ/nam:
3,5/1. Triệu chứng lâm sàng trước can thiệp: đau đầu là
66,7%, liệt vận nhãn 20,8%, không triệu chứng 12,5%.
2. Đặc điểm hình ảnh phình mạch: Tuần hoàn
trước có 20 ca chiếm 83,3%, tuần hoàn sau có 4 ca
chiếm 16,7%, các phình mạch não đều là phình mạch
chưa vỡ. Trong quá trình đặt stent chuyển dòng chúng
tôi cố gắng không che phủ stent ngang qua các nhánh
bên cạnh túi phình vì nguy cơ nhồi máu não, tuy nhiên
do phình mạch kích thước lớn và khổng lồ vì vậy bắt
buộc chúng tôi phải che phủ một số nhánh cạnh túi
phình. Tuy nhiên không có trường hợp nào nhồi máu
sau đặt stent.
Nhánh bên của cổ túi phình bị che phủ bởi stent
chuyển dòng gồm động mạch thông sau 45,8%; động
mạch mắt 29,1%; động mạch não giữa đoạn M1 12,4%;
động mạch mạch mạc trước 37,5%; động mạch tiểu
não sau dưới và trước dưới 8,3%; các nhánh cầu não
của động mạch thân nền 4,1%.
3. Điều trị can thiệp nội mạch: Đa số ngay sau đặt
stent mức độ tắc hoàn toàn và gần hoàn toàn thấp, thấy
được hình ảnh đọng thuốc trong phình mạch chiếm
18/21 ca chiếm 85,7%.
Bảng 1. Mức độ tắc được phân loại theo thang
điểm Raymond – Roy
Thời gian
tắc
n
(Số
bệnh
nhân
có tái
khám)
Tắc
hoàn
toàn
n (%)
Tắc
gần
hoàn
toàn
n(%)
Tắc bán
phần
n/(%)
Ngay sau
can thiệp
21 2(9,5) 3(14,3) 5(23,8)
Sau tháng
thứ 3
18 4(22,2) 6(33,3) 8(44,4)
Sau tháng
thứ 6
13
9(69,2) 2(15,4) 2(15,4)
- Thành công kỹ thuật với kỹ thuật đặt stent ngang
qua cổ túi phình chiếm 21/24 trường hợp là 87,5%.
- Đa số bệnh nhân hồi phục tốt ngay sau đặt stent
18/21 trường hợp với 85,7%, m-RS từ 0-1.
- Biến chứng: 01 ca tử vong do vỡ phình trong
quá trình theo dõi ở tháng thứ 3 chiếm 1/21 trường hợp
(4,7%), khuyết tật thần kinh 2/21 trường hợp, chiếm
9,5%, không ghi nhận trường hợp nào hẹp trong stent
hay huyết khối trong stent.
- Vật liệu thuyên tắc: Stent chuyển dòng chúng tôi
dùng hai loại Pipeline stent với 15 trường hợp, trong đó
có 2 bệnh nhân đặt 2 stent cho 1 phình, Fred stent với
6 trường hợp. Có 3 trường hợp không đặt thành công
Stent được ghi nhận.
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu chúng tôi với 24 bệnh nhân phình lớn
và khổng lồ, tuổi trung bình là 51,4 ± 13,4 tuổi trẻ nhất
27, lớn nhất là 73 tuổi. Nữ hay gặp hơn nam với tỷ
lệ nữ/nam: 3,5/1.Về triệu chứng lâm sàng trước can
thiệp: Đau đầu là 66,7%, liệt vận nhãn 20,8%, không
triệu chứng 12,5%. Đa số trong nghiên cứu của chúng
tôi bệnh nhân vào viện vì đau đầu hoặc hiệu ứng khối
choán chổ gây triệu chứng liệt vận nhãn. Nghiên cứu
Chandan Krishna và cộng sự, tỷ lệ hiện mắc túi phình
động mạch não ước tính 5-10% dân số. Hiện nay, hầu
hết các túi phình được phát hiện khi khám sức khỏe
hay tầm soát bằng các kỹ thuật hình ảnh như CT, MRI.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 57
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Ở Việt Nam, đa số bệnh nhân đến khám vì xuất huyết
do vỡ túi phình mạch não, còn các túi phình lớn và
khổng lồ thường đến khám do triệu chứng chèn ép.
Phân bố vị trí phình mạch não với tuần hoàn trước
có 20 ca chiếm 83,3%, tuần hoàn sau có 4 ca chiếm
16,7%, các phình mạch não đều là phình mạch chưa vỡ.
Trong quá trình đặt stent chuyển dòng chúng tôi cố
gắng không che phủ stent ngang qua các nhánh bên cạnh
túi phình vì nguy cơ nhồi máu não cao, tuy nhiên do phình
mạch kích thước lớn và khổng lồ, vì vậy bắt buộc chúng
tôi phải che phủ một số nhánh cạnh túi phình, tuy nhiên
không có trường hợp nào nhồi máu não sau đặt stent.
Các nhánh động mạch được chúng tôi đặt stent che phủ
qua là động mạch mắt, động mạch mạc trước và động
mạch thông sau là hay gặp nhất. Các trường hợp khác là
các nhánh cầu não của động mạch thân nền, động mạch
tiểu não sau dưới và trước dưới. Tuy nhiên trong quá trình
theo dõi ghi nhận không có trước hợp nào đột quỵ nhồi
máu não các nhánh liên quan đến stent phủ qua.
Thành công về mặt kỹ thuật có 21/24 trường hợp
là 87,5%. Kiểm tra DSA sau khi đặt stent thấy rằng mức
độ tắc hoàn toàn và gần hoàn toàn thấp, thấy được hình
ảnh đọng thuốc trong phình mạch chiếm 18/21 ca chiếm
85,7%. Điều này cũng dễ hiểu vì trong nghiên cứu của
chúng tôi đa số là các phình lớn và khổng lồ, cần một
thời gian tạo huyết khối để tắc. Bởi vậy mức độ tắc hoàn
toàn (69,2%) và gần hoàn toàn (15,4%) cao đạt 94,6%
trong 6 tháng theo dõi tiếp theo. Chỉ tắc được bán phần
túi phình đạt 15,4%. Nghiên cứu Yazan, Darshan cho
thấy mức độ sau 6 tháng đạt 73,6 % với các phình lớn
và khổng lồ. Nghiên cứu của Adam M Brouilard và cộng
sự với tỉ lệ tắc hoàn toàn đạt 76% với stent thay đổi dòng
chảy trong khi nhóm dùng coils thì mức độ tắc hoàn toàn
chỉ đạt 21%, mRS đạt 0-2 chiếm 95%.
Đa số bệnh nhân hồi phục tốt ngay sau đặt stent,
với 18/21 trường hợp (85,7%), m-RS từ 0-1. Trong quá
trình theo dõi 01 ca tử vong do vỡ phình ở tháng thứ 3,
chiếm 1/21 trường hợp đặt được stent (4,7%), nguyên
nhân là xuất huyết dưới nhện do vỡ phình mạch. Đây
là một trường hợp phình khổng lồ được đặt stent thành
công. tuy nhiên đến tháng thứ 3 được ghi nhận vỡ khi
phình mạch chưa được tắc hoàn toàn. Các nghiên cứu
khác cũng ghi nhận tỷ lệ biến chứng tương tự, nguyên
nhân được giải thích đó là sự thay đổi dòng chảy trong
và ngoài phình mạch cùng với các yếu tố viêm của thuốc
kháng đông tác động, làm tổn thương thành mạch dẫn
đến vỡ khi mà phình mạch chưa được tắc hoàn toàn.
Biến chứng khuyết tật thần kinh 2/21 trường hợp đặt
thành công stent chiếm 9,5%, liên quan đến phù mô
não cạnh stent chuyển dòng sau khi đặt. Tuy nhiên mức
độ phù được cải thiện với điều trị nội khoa. Nghiên cứu
của Adam M Brouilard và cộng sự điều trị stent thay đổi
dòng chảy cho các phình mạch lớn và cổ rộng với kết
quả lâm sàng khá tốt mRS đạt 0-2 chiếm 95%.
Nghiên cứu Yazan, Darshan và cộng sự cho thấy
stent chuyển dòng đã được phát triển để điều trị phình
động mạch não, gây ra thay đổi huyết động trong lòng
động mạch mang và trong túi phình. Dần dần tạo huyết
khối trong phình mạch theo thời gian, tuy nhiên sự đáp
ứng viêm đầy đủ, sự liền lại cùng sự tăng trưởng nội mô
sẽ làm xẹp phình mạch và tái cấu trúc lòng động mạch
mang, biến chứng gặp là huyết khối trong stent, phù xung
quanh túi phình, xuất huyết muộn, và tắc các nhánh bên.
Nghiên cứu của Saatci trong nghiên cứu điều trị
phình động mạch não bằng PED thay đổi dòng chảy với
chỉ định là các phình mạch cổ rộng (≥4 mm), hay hệ số
vòm túi phình/ cổ (≤1,5), phình lớn và khổng lồ, phình
hình thoi, phình bóc tách, phình dạng lồi nhẹ, phình với
những góc chọn lọc khó cho thấy các biến chứng hẹp
trong stent chiếm 0,5%, tỷ lệ biến chứng chung 14,1%,
trong đó khuyết tật vĩnh viễn chiếm 1%, tử vong 0,5%,
tắc hoàn toàn túi phình đạt 91,2% trong 6 tháng theo dõi.
Nghiên cứu của Brinjikji Waleed, Murad Mohammad và
cộng sự khi tổng kết điều trị phình động mạch não bằng
stent thay đổi dòng chảy của các nghiên cứu lớn trên
thế giới với 1451 bệnh nhân với 1654 túi phình. Tỷ lệ tắc
hoàn toàn túi phình là 76%, các biến chứng về khuyết
tật thần kinh là 5% và tử vong là 4%, xuất huyết dưới
nhện sau thủ thuật là 3%, xuất huyết nhu mô não là 3%,
nhồi máu não lỗ khuyết 3%, đột qụy nhồi máu não 6%.
Loại stent chuyển dòng được chúng tôi sử dụng là loại
Pipeline (EV3) và Fred Stent (MicroVention).
Kết luận chung của các nghiên cứu lớn trên thế
giới cho thấy điều trị phình lớn và khổng lồ động mạch
não bằng stent thay đổi dòng chảy cho thấy đây là kỹ
thuật an toàn, hiệu quả và lâu bền, tử vong và khuyết
tật thấp, tỉ lệ tắc phình cao theo thời gian theo dõi.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201858
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MINH HỌA TRƯỜNG HỢP
Hình 2. BN Dư Thị H. Nữ, 65 tuổi, phình khổng lổ động mạch cảnh trong trái. Hình DSA trước và trong can thiệp
(hình A, B, C) và MRI sau 6 tháng, DSA sau 12 tháng: tắc hoàn toàn phình động mạch cảnh trong trái. (Nguồn: Bệnh
viện Chợ Rẫy)
A
D
A B C D
E
B C
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 3. BN Lê Thị Ngọc Ph.. nữ 32 tuổi, phình khổng lồ động mạch đốt sống trái – thân nền. Hình DSA tư thế thẳng
và nghiêng trước can thiệp (hình A, B), trong khi can thiệp (hình C, D) và sau can thiệp (hình E, F, G). (Nguồn: Bệnh
viện Chợ Rẫy).
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 24 trường hợp can thiệp nội
mạch điều trị phình động mạch não lớn và khổng lồ,
chúng tôi thấy rằng đây là một phương pháp điều trị
hiệu quả, an toàn, tỉ lệ tai biến và biến chứng thủ thuật
thấp. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu sâu hơn để
đánh giá tốt hiệu quả lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brinjikji Waleed, Murad Mohammad (2013). Endovascular Treatment of Intracranial Aneurysms With Flow
Diverters. Stroke. 44:442-447.
2. Chandan Krishna (2014). The Expanding Realm of Endovascular Neurosurgery: Flow Diversion for Cerebral
Aneurysm Management. Cardiovascular journal. 10(4): 214–219.
3. Cognard C, Gobin P, Pierol L et al (2010). Cerebral dural arteriovenous fistulas: clinical and angiographic
correlation with a revised classification of venous drainage. Journal of Neurosurgery, 58, 62-68.
4. Fischer S., Vajda Z, Aguilar Perez (2012). Pipeline embolization device (PED) for neurovascular reconstruction:
initial experience in the treatment of 101 intracranial aneurysms and dissections. Neuroradiology journal. 54(4):
369–382.
5. Lê Văn Phước, Nguyễn Huỳnh Nhật Tuấn, Lê Văn Khoa (2017). Điều trị phình lớn và khổng lồ động mạch não
bằng stent thay đổi dòng chảy. Tạp chí y học Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Phạm Minh Thông, Vũ Đăng Lưu (2015). Kết quả điều phình phình động mạch não phức tạp bằng Stent thay
đổi dòng chảy. Tạp chí nghiên cứu y học. 93 (1).
7. Saatci, Yavuz, (2012). Treatment of Intracranial Aneurysms Using the Pipeline Flow-Diverter Embolization
Device: A Single-Center Experience with Long-Term Follow-Up Results. American Journal of
Neuroradiology. 33 (8) 1436-1446.
8. Simon Chun-Ho Yu, Ching-Kwong Kwok, Pui-Wai Cheng (2012). Intracranial Aneurysms: Midterm Outcome of
Pipeline Embolization Device—A Prospective Study in 143 Patients with 178 Aneurysms. Radiology journal,
265 (3).
9. Yazan, Darshan (2014). Flow Diverters for Intracranial Aneurysms. Stroke journal.
E F G
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201860
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mở đầu: Hiện nay, can thiệp nội mạch tắc phình động mạch não bằng vòng xoắn kim loại (coil) đã trở thành một phương
pháp điều trị tiêu chuẩn, có thể thay thế phẫu thuật kẹp túi phình bằng clip. Tuy nhiên, đối với các phình cổ rộng, phình dạng
hình thoi, phình bóc tách và phình khổng lồ, nút tắc không hoàn toàn và tái thông vẫn còn là giới hạn chính trong dự phòng mức
độ ổn định lâu dài. Sự phát triển của stent thay đổi dòng chảy tạo tiềm năng tắc hoàn toàn túi phình do cơ chế gây thay đổi dòng
chảy mạch máu vào trong túi phình, từ đó khởi phát quá trình hình thành huyết khối trong túi phình.
Đối tượng và phương pháp: Can thiệp nội mạch đặt stent thay đổi dòng chảy thực hiện tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2015 đến tháng 06/2017, với kỹ thuật thực hiện: chụp mạch máu xóa nền xác định phình mạch
não, luồn vi ống thông ngang qua phình mạch, và tiến hành đặt stent thay đổi dòng chảy ngang qua phình mạch não. Hiệu quả
và độ an toàn được đánh giá dựa vào các biến: tắc hoàn toàn hay bán phần túi phình, tỉ lệ thành công thủ thuật, cải thiện lâm
sàng, biến chứng thủ thuật.
Kết quả: 24 ca phình động mạch não lớn và khổng lồ điều trị bằng stent thay đổi dòng chảy, thành công kỹ thuật 21/24 ca
(87,5%), 03 ca không đặt được stent phải chuyển sang phương pháp khác, 01 ca đột tử trong quá trình theo dõi.
Kết luận: Sử dụng stent thay đổi dòng chảy là một kỹ thuật mới, thay thế hiệu quả so với can thiệp tắc túi phình thường
qui, đặc biệt ở bệnh nhân có phình động mạch não lớn hay khổng lồ.
Từ khóa: Phình động mạch não lớn và khổng lồ, Stent thay đổi dòng chảy, Can thiệp nội mạch thần kinh
Người liên hệ: Lê Văn Phước, khoa CĐHA bệnh viên Chợ Rẫy, email: phuocbvcr@yahoo.com
Ngày nhận bài: 20.6.2017. Ngày chấp nhận in: 20.7.2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_buoc_dau_can_thiep_noi_mach_dieu_tri_phinh_dong_mach.pdf