Với sự ra đời của CCLĐT đa lát cắt với
tốc độ nhanh hơn và độ phân giải cao hơn
kèm với các kỹ thuật tái tạo ba chiều là một
bước tiến khác tạo ra hình ảnh chi tiết và
phối hợp giữa việc khảo sát mạch máu mạc
treo và thành ruột, làm tăng giá trị của
CCLĐT trong chẩn đoán bệnh thiếu máu
ruột cấp(9). Kirkpatrick và cộng sự(4) đã sử
dụng chụp cắt lớp điện toán đa lát cắt có
khảo sát mạch máu (computed tomographic
angiography) để chẩn đoán cho 62 bệnh
nhân có triệu chứng lâm sàng nghi ngờ
thiếu máu mạc treo cấp. Bệnh nhân được
chia làm hai nhóm: nhóm nghiên cứu và
nhóm đối chứng. Nhóm nghiên cứu gồm 26
bệnh nhân có chẩn đoán cuối cùng là thiếu
máu mạc treo cấp bằng phẫu thuật, giải
phẫu bệnh lý hoặc cả hai (loại trừ những
trường hợp có hình ảnh chẩn đoán hợp lý
nhưng được điều trị bảo tồn không mổ).
Các dấu hiệu được khảo sát trên hình ảnh
CCLĐT có thể là những triệu chứng đặc
hiệu và không đặc hiệu. CCLĐT được xem
là khẳng định chẩn đoán khi trong kết luận
chẩn đoán của bác sĩ chẩn đoán hình ảnh có
các từ như”phù hợp với”, liên quan
đến”hay”triệu chứng của”thiếu máu mạc
treo cấp, mặc dù tiêu chuẩn cho việc phân
loại này là không rõ ràng. Kết quả có được
là độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 89%. Tuy
nhiên, khi dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán
thiếu máu mạc treo cấp từ những triệu
chứng đặc hiệu trên hình ảnh CCLĐT thì
kết quả đạt được cũng rất khả quan, với độ
nhạy 96% và độ đặc hiệu 94%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu sử dụng chụp cắt lớp điện toán trong chẩn đoán tắc mạch mạc treo cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008 Nghiên cứu Y học
1
KẾT QUẢ BƢỚC ĐẦU SỬ DỤNG CHỤP CẮT LỚP ĐIỆN TOÁN
TRONG CHẨN ĐOÁN TẮC MẠCH MẠC TREO CẤP
Nguyễn Tuấn*, Nguyễn Tấn Cường**, Võ Tấn Long**, Nguyễn Minh Hải***, Nguyễn Văn Hải**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu sử dụng chụp cắt lớp điện toán trong chẩn đoán tắc mạch mạc
treo.
Phương pháp: Hồi cứu phim chụp cắt lớp điện toán bụng trước mổ của tất cả các bệnh nhân tắc
mạch mạc treo điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 02/2005 đến tháng 05/2007. Dấu hiệu chụp cắt
lớp được đối chiếu với thương tổn khi mổ.
Kết quả: Có 13 bệnh nhân gồm 10 nam và 3 nữ, tuổi trung bình 59 (từ 22 đến 87 tuổi). 10 bệnh
nhân tắc động mạch và 3 bệnh nhân tắc tĩnh mạch mạc treo. Tỉ lệ chụp cắt lớp chẩn đoán đúng thực tế là
30,8% (4/13 bệnh nhân) nhưng 6/13 bệnh nhân (46,2%) có ít nhất 1 dấu hiệu đặc hiệu. Chỉ 4 bệnh nhân
(30,8%) có dấu hiệu của tắc mạch (3 tắc động mạch và 1 huyết khối tĩnh mạch mạc treo tràng trên). Hơi
trong tĩnh mạch cửa gặp ở 1 bệnh nhân (7,7%). Các dấu hiệu không đặc hiệu khác là: ruột dãn (69,2%),
thành ruột dày (38,5%), dịch tự do trong ổ bụng (38,5%).
Kết luận: Chụp cắt lớp điện toán nên được áp dụng thường xuyên hơn trong chẩn đoán tắc mạch
mạc treo vì nó có thể xác định vị trí, nguyên nhân và độ nặng của thương tổn.
SUMMARY
PRELIMINARY RESULTS OF USING CT SCAN IN DIAGNOSIS
OF ACUTE MESENTERIC ISCHEMIA
Nguyen Tuan, Nguyen Tan Cuong, Vo Tan Long, Nguyen Minh Hai, Nguyen Van Hai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 2 - 2008: 70 – 75
Aims: To evaluate preliminary results of using CT scan in diagnosis of acute mesenteric ischemia.
Methods: Preoperative abdominal CT scans of patients who had acute mesenteric ischemia treated at
Cho Ray’s hospital between February 2005 and May 2007 were reviewed. CT signs were controlled by
operative findings.
Results: There were 13 patients including 10 males and 3 females with the mean age of 59 years
(range 22 to 87 years). 10 patients had mesenteric arterial occlusion and 3 patients had mesenteric venous
thrombosis. Practically, CT gave correct diagnosis in 4 patients (30.8%) but 6 patients (46.2%) had at
least 1 specific CT sign of acute mesenteric ischemia. Only 4 patients (30.8%) had sign of vascular
occlusion (3 superior mesenteric arterial occlusion and 1 superior mesenteric venous thrombosis). Portal
venous gas was noticed in 1 patient (7.7%). Nonspecific CT signs included: bowel dilation (69.2%), bowel
wall thickening (38.5%), ascites (38.5%).
Conclusions: CT scan should be used more often in diagnosis of acute mesenteric ischemia because it
can confirm site, cause and severity of lesions.
* BV Hoàn Mỹ; **Bộ môn Ngoại, ĐHYD; ***BV Chợ Rẫy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008 Nghiên cứu Y học
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu mạc treo là một bệnh lý
phức tạp, xảy ra khi dòng máu đến ruột
(động mạch hoặc tĩnh mạch) bị tổn thương.
Mặc dù chụp mạch máu được xem như là
tiêu chuẩn để chẩn đoán thiếu máu mạc
treo, nhưng đó là phương pháp xâm hại,
mất thời gian và tốn kém(2,3,7).
Từ khi ra đời vào cuối những năm 1970,
chụp cắt lớp điện toán (CCLĐT) đã được
dùng để chẩn đoán ở những bệnh nhân có
nghi ngờ thiếu máu hoặc nhồi máu ruột.
CCLĐT giúp phát hiện những thay đổi do
thiếu máu ở ruột và mạc treo. Những thay
đổi này gồm có thành ruột dày và phù nề,
xuất huyết dưới niêm mạc, tăng hoặc giảm
bắt cản quang của thành ruột, thâm nhiễm
của mô mỡ mạc treo, dịch ổ bụng và hơi
trong thành ruột. CCLĐT đôi khi giúp xác
định nguyên nhân của thiếu máu như đánh
giá mảng xơ vữa động mạch, huyết khối, sự
tắc nghẽn, chèn ép hoặc xâm lấn của khối u
và chấn thương(1,3). Trong một nghiên cứu
của Taourel và cộng sự(8), các tác giả đưa ra
được các dấu hiệu đặc hiệu (có độ chuyên
biệt trên 95%) của CCLĐT trong chẩn đoán
thiếu máu mạc treo cấp là: huyết khối động
mạch mạc treo tràng trên (ĐMMTTT) hoặc
tĩnh mạch mạc treo tràng trên (TMMTTT),
hơi trong thành ruột, thành ruột không bắt
cản quang, và dấu hiệu thiếu máu tạng đặc;
độ nhạy và độ đặc hiệu của CCLĐT trong
chẩn đoán thiếu máu mạc treo cấp lần lượt
là 64% và 92%.
Sự ra đời và việc sử dụng rộng rãi
CCLĐT đa lát cắt cùng với các kỹ thuật tái
tạo hình ảnh ba chiều đã giúp ích nhiều cho
việc chẩn đoán tắc mạch mạc treo(3).
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này để
đánh giá kết quả bước đầu sử dụng CCLĐT
trong chẩn đoán tắc mạch mạc treo tại BV.
Chợ Rẫy.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện trên tất
cả những bệnh nhân có chẩn đoán ra viện là
hoại tử ruột hoặc nhồi máu ruột do tắc
mạch mạc treo và có CCLĐT bụng trước mổ
tại Bệnh viện Chợ Rẫy ở mọi lứa tuổi,
không phân biệt về giới, từ tháng 02/2005
đến tháng 05/2007.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân không được CCLĐT vùng
bụng.
- Chẩn đoán tắc mạch mạc treo mà
không được điều trị phẫu thuật.
- Hoại tử ruột do thiếu máu mạc treo
không có tắc nghẽn.
- Hoại tử ruột do nguyên nhân khác:
viêm ruột hoại tử, tắc ruột, xoắn ruột<
Phƣơng pháp nghiên cứu
Hồi cứu lại phim CCLĐT bụng trước
mổ ở từng bệnh nhân. Các dấu hiệu CCLĐT
đặc hiệu và không đặc hiệu của tắc mạch
mạc treo được đối chiếu với thương tổn khi
mổ.
Các dấu hiệu sau đây được lưu ý:
huyết khối động mạch tạng, huyết khối
tĩnh mạch tạng, hơi trong tĩnh mạch cửa,
ruột dãn, tắc ruột cơ học, thành ruột dày,
thành ruột không bắt cản quang, phù nề
mạc treo, dịch ổ bụng, và nhồi máu các
tạng trong ổ bụng khác (như gan, lách,
hoặc thận).
- Chẩn đoán tắc nghẽn động mạch hoặc
tĩnh mạch tạng khi thân chính của động
mạch thân tạng, động mạch hoặc tĩnh mạch
mạc treo tràng trên, động hoặc tĩnh mạch
mạc treo tràng dưới không tăng quang sau
khi chích thuốc cản quang tĩnh mạch.
- Chẩn đoán hơi trong thành ruột khi có
hơi tập trung trong thành ruột dạng bóng,
đường thẳng, hoặc đường cong phân bố
theo chu vi của thành ruột.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008 Nghiên cứu Y học
3
- Tiêu chuẩn để chẩn đoán dãn ruột non
khi đường kính vượt quá 2,5 cm, dãn đại
tràng khi đường kính vượt quá 8,0 cm.
- Chẩn đoán tắc ruột cơ học khi có một
vùng chuyển tiếp rõ ràng, với các quai ruột
dãn ở phần gần và các quai ruột xẹp ở phần
xa của vị trí tắc.
- Chẩn đoán dày thành ruột khi có độ
dày thành ruột ít nhất là 3 mm ở vị trí
lòng ruột đủ căng.
- Thành ruột không bắt thuốc cản quang
khu trú hoặc lan tỏa được chẩn đoán khi
quan sát không thấy có sự tăng quang của
thành ruột so với trước lúc chích thuốc cản
quang tĩnh mạch.
- Phù nề mạc treo được xác định khi có
giảm đậm độ lan tỏa mạc treo làm khó nhận
ra các cấu trúc mạch máu trong đó.
Các dấu hiệu đặc hiệu bao gồm: huyết
khối ĐMMTTT hoặc TMMTTT, hơi trong
thành ruột, thành ruột không bắt cản
quang, và dấu hiệu thiếu máu tạng đặc(8).
Xử lý số liệu
Dùng phương pháp thống kê mô tả để
xác định tần suất của các dấu hiệu của
CCLĐT, và khả năng chẩn đoán tắc mạch
mạc treo của CCLĐT khi áp dụng các dấu
hiệu đặc hiệu.
KẾT QUẢ
Có 13 bệnh nhân thỏa mãn điều kiện
của nghiên cứu, trong đó có 10 nam (76,9%)
và 3 nữ (23,1%). Tuổi trung bình là 59 tuổi
(từ 22 đến 87 tuổi). Về nguyên nhân thiếu
máu ruột, có 10 bệnh nhân (76,9%) tắc động
mạch và 3 bệnh nhân (23,1%) tắc tĩnh mạch.
Có 7 bệnh nhân (53,8%) thiếu máu ruột non,
6 bệnh nhân (46,2%) thiếu máu cả ruột non
và đại tràng phải trong đó có một bệnh
nhân (7,7%) thiếu máu đoạn cuối hồi tràng
và đại tràng phải. Tỉ lệ tử vong sau mổ
(trong vòng 30 ngày sau mổ) là 46,2% (6
trong 13 bệnh nhân). Tất cả các bệnh nhân
tử vong đều có nguyên nhân tắc động mạch
mạc treo, chiếm 60% trong nhóm này (6
trong 10 bệnh nhân). Nhóm bệnh nhân tắc
tĩnh mạch mạc treo không có tử vong.
Bảng 1: Kết quả chẩn đoán của chụp cắt lớp
điện toán
Số bệnh
nhân
Tỉ lệ
(%)
Chẩn đoán đúng 4 30,8
Không kết luận được chẩn đoán 7 53,8
Chẩn đoán sai 1 7,7
Không thấy hình ảnh bất thường 1 7,7
Bảng 2: Các dấu hiệu của chụp cắt lớp điện toán
ở 13 bệnh nhân
Tắc ĐM
(n = 10)
Tắc TM
(n = 3)
Tổng số
(n = 13)
Huyết khối ĐMMTTT 3 (30,0) 0 (0) 3 (23,1)
Huyết khối TMMTTT 0 (0) 1 (33,3) 1 (7,7)
Hơi trong tĩnh mạch cửa 1 (10,0) 0 (0) 1 (7,7)
Ruột dãn 7 (70,0) 2 (66,7) 9 (69,2)
Tắc ruột 1 (10,0) 0 (0) 1 (7,7)
Thành ruột dày 3 (30,0) 2 (66,7) 5 (38,5)
Phù nề mạc treo 1 (10,0) 1 (33,3) 2 (15,4)
Dịch ổ bụng 2 (20,0) 3 (100,0) 5 (38,5)
Thiếu máu cơ quan khác 2 (20,0) 0 (0) 2 (15,4)
Có ít nhất 1 dấu hiệu đặc
hiệu
5 (50,0) 1 (33,3) 6 (46,2)
(ĐM: động mạch, TM: tĩnh mạch; số ở trong ngoặc
đơn ( ) là chỉ tỉ lệ phần trăm trong nhóm).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008 Nghiên cứu Y học
4
Hình 1: Hình tái tạo ba chiều của tắc
ĐMMTTT (dấu mũi tên).
Hình 2: Dấu dày thành ruột (mũi tên dài) và
hơi trong tĩnh mạch cửa (mũi tên ngắn).
Tỉ lệ chẩn đoán đúng thực tế là 30,8% (4
trong 13 bệnh nhân). Trong 4 trường hợp
này, có 3 trường hợp tắc ĐMMTTT và 1
trường hợp tắc TMMTTT. Cả 3 trường hợp
tắc động mạch đều tử vong sau mổ.
Khả năng chẩn đoán đúng dựa trên các
dấu hiệu được cho là đặc hiệu của cắt lớp
điện toán là 46,2% (6 trong 13 bệnh nhân).
Hai trường hợp có thể chẩn đoán thêm
đều do tắc động mạch mạc treo, trong đó
1 trường hợp có tổn thương một phần
phía sau thận phải và ổ tổn thương nhỏ ở
lách do thiếu máu, và 1 trường hợp có hơi
trong nhánh trái tĩnh mạch cửa.
BÀN LUẬN
Một trong những mục tiêu của y học
hiện đại là để đạt được một chẩn đoán sớm
và chính xác, cũng như quyết định điều trị
tối ưu và để giảm tỉ lệ tử vong của các loại
bệnh trong đó có nhồi máu mạc treo cấp.
Tuy nhiên, đây là vấn đề khó khăn, bởi vì
biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng.
Thật vậy, sự thấu hiểu về bệnh cảnh thiếu
máu ruột cấp, các nguyên nhân đa dạng của
nó, bệnh sinh và những thông tin chi tiết về
tình trạng của mỗi bệnh nhân là những yếu
tố quan trọng góp phần vào việc thiết lập
một chẩn đoán chính xác của cắt lớp điện
toán.
Theo Alpern và cộng sự(1), trong giai
đoạn mới sử dụng CCLĐT để chẩn đoán tắc
mạch mạc treo với những tiêu chuẩn chẩn
đoán khắt khe như có dấu hiệu hơi trong
thành ruột, hơi trong tĩnh mạch cửa, có dấu
ấn ngón tay (“thumbprinting”sign) của
thành ruột, hoặc có huyết khối trong lòng
mạch thì khả năng chẩn đoán được ghi
nhận chỉ ở 26% trường hợp. Trong nghiên
cứu của chúng tôi kết luận chẩn đoán của
bác sĩ chẩn đoán hình ảnh chỉ khẳng định
khi thấy có huyết khối trong lòng mạch
máu nên tỉ lệ chẩn đoán đúng là 30,8%
trường hợp. Một nhược điểm khác của
CCLĐT là thường chỉ thấy được huyết khối
trong lòng mạch máu ở nhánh chính, do đó
khi xảy ra huyết khối ở những nhánh nhỏ
của mạch máu mạc treo thì không thể chẩn
đoán được. Trong nhóm bệnh nhân của
chúng tôi có 53,8% trường hợp chỉ thiếu
máu ở ruột non và 7,7% trường hợp thiếu
máu ở đoạn cuối hồi tràng và đại tràng
phải. Một khó khăn khác ở những bệnh
nhân thiếu máu hoặc nhồi máu ruột cấp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008 Nghiên cứu Y học
5
thường có nhiều bệnh kèm phức tạp, đôi
khi có rối loạn tri giác nên không thể uống
đủ nước trước khi khảo sát CCLĐT và khó
giữ được sự dừng thở trong khi chụp nên
hình ảnh khó đạt được chất lượng tối đa.
Hơn nữa, nhiều bệnh nhân thiếu máu ruột
cấp về căn bản đã có giảm chức năng thận
nên không thể dùng thuốc cản quang tĩnh
mạch. Những cản trở này sẽ làm giảm độ
chính xác của CCLĐT.
Tuy nhiên, CCLĐT không chỉ chứng tỏ
những tắc nghẽn mạch máu mà còn cho
thấy những thay đổi thành ruột, bên cạnh
đó nó còn giúp khẳng định hay loại trừ
nhiều nguyên nhân đau bụng cấp khác cần
chẩn đoán phân biệt với tình trạng thiếu
máu ruột cấp(1).
Trong một nghiên cứu khác, Taourel và
cộng sự đã ứng dụng CCLĐT động học có
cản quang thì khả năng chẩn đoán của
CCLĐT trong tắc mạch mạc treo được cải
thiện rõ nét với độ nhạy là 64% và độ đặc
hiệu là 92%(8), đồng thời tác giả cũng đưa ra
được các dấu hiệu có độ đặc hiệu trên 95%
là: huyết khối ĐMMTTT hoặc TMMTTT,
hơi trong thành ruột, thành ruột không bắt
cản quang, và dấu hiệu thiếu máu tạng đặc.
Tuy nhiên, độ nhạy của các dấu hiệu này
thấp, thường dưới 30%.
Bảng 3: Tần suất của các dấu hiệu của CCLĐT
Taourel
(%)
Alpern
(%)
Chúng tôi
(%)
Huyết khối ĐMMTTT 18,0 4,3 23,1
Huyết khối TMMTTT 15,0 0 7,7
Hơi trong thành ruột 28,0 21,7 0
Hơi trong tĩnh mạch cửa 5,0 13,0 7,7
Thành ruột không bắt cản
quang
18,0 0 0
Thiếu máu cơ quan khác 18,0 0 15,4
Chúng tôi không có trường hợp nào
phát hiện được dấu hiệu có hơi trong thành
ruột và dấu hiệu thành ruột không bắt cản
quang, hai dấu hiệu này thường biểu hiện
rất tinh tế và khó phát hiện, do đó cần có
hình ảnh có chất lượng cao và sự đánh giá
cẩn thận, tỉ mỉ của bác sĩ chẩn đoán hình
ảnh. Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu
của Alpern đều được khảo sát trên màn
hình với cửa sổ khí nên đã cải thiện được
khả năng phát hiện được hơi trong thành
ruột và trong tĩnh mạch cửa(1).
Ngoài các dấu hiệu của CCLĐT trong
thiếu máu ruột cấp kể trên, còn có thể phát
hiện thêm những thay đổi khác như ruột
dãn, thành ruột dày có tăng hoặc giảm đậm
độ, thâm nhiễm mô mỡ mạc treo
(mesenteric stranding), ứ máu trong lòng
mạch, dịch ổ bụng, hơi tự do ổ bụng, hoặc
tắc ruột. Các dấu hiệu này thường gặp,
nhưng có độ chuyên biệt thấp(1,5,6,8,9).
Với các dấu hiệu đã được đề cập trên, ta
thấy hình ảnh CCLĐT trong thiếu máu ruột
cấp cũng như các dấu hiệu lâm sàng và xét
nghiệm thường là không đồng nhất và
không đặc hiệu làm dễ lầm lẫn với các bệnh
khác. Các hình ảnh này phụ thuộc vào
nguyên nhân; độ nặng, độ lan rộng và sự
phân bố vùng bị thiếu máu; sự hiện diện và
mức độ xuất huyết dưới niêm mạc, hoặc
trong niêm mạc; bội nhiễm ở thành ruột và/
hoặc thủng ruột.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, với
việc khảo sát CCLĐT chỉ trong 13 bệnh
nhân có chẩn đoán ra viện là tắc mạch mạc
treo, khả năng chẩn đoán đúng của CCLĐT
là 30,8%. Điều này có thể được giải thích là
do cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi nhỏ (n
= 13), hầu hết các bệnh nhân được chỉ định
CCLĐT là có tình trạng đau bụng cấp
nhưng biểu hiện lâm sàng không rõ ràng.
Các trường hợp vào viện với triệu chứng rõ
ràng là bụng cấp ngoại khoa thường được
chỉ định mổ ngay, nên có thể bỏ qua, không
khảo sát CCLĐT những bệnh nhân tắc
mạch mạc treo có hoại tử ruột, hoặc có nhồi
máu. Như đã trình bày ở trên, CCLĐT tỏ ra
có giá trị chẩn đoán thiếu máu mạc treo cao
hơn trong giai đoạn trễ, khi đã có nhồi máu
ruột hoặc hoại tử ruột. Một lý do khác, các
kết luận chẩn đoán trên CCLĐT của chúng
tôi là khi thấy được huyết khối trong động
mạch mạc treo tràng trên (3 bệnh nhân)
hoặc tĩnh mạch mạc treo tràng trên (1 bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008 Nghiên cứu Y học
6
nhân). Tuy nhiên, khi áp dụng các dấu hiệu
đặc hiệu của CCLĐT là: huyết khối động
mạch mạc treo tràng trên (ĐMMTTT) hoặc
tĩnh mạch mạc treo tràng trên (TMMTTT),
hơi trong thành ruột, thành ruột không bắt
cản quang, và dấu hiệu thiếu máu tạng
đặc(8) để chẩn đoán thiếu máu mạc treo thì
độ nhạy được nâng lên thành 46,2%.
Với sự ra đời của CCLĐT đa lát cắt với
tốc độ nhanh hơn và độ phân giải cao hơn
kèm với các kỹ thuật tái tạo ba chiều là một
bước tiến khác tạo ra hình ảnh chi tiết và
phối hợp giữa việc khảo sát mạch máu mạc
treo và thành ruột, làm tăng giá trị của
CCLĐT trong chẩn đoán bệnh thiếu máu
ruột cấp(9). Kirkpatrick và cộng sự(4) đã sử
dụng chụp cắt lớp điện toán đa lát cắt có
khảo sát mạch máu (computed tomographic
angiography) để chẩn đoán cho 62 bệnh
nhân có triệu chứng lâm sàng nghi ngờ
thiếu máu mạc treo cấp. Bệnh nhân được
chia làm hai nhóm: nhóm nghiên cứu và
nhóm đối chứng. Nhóm nghiên cứu gồm 26
bệnh nhân có chẩn đoán cuối cùng là thiếu
máu mạc treo cấp bằng phẫu thuật, giải
phẫu bệnh lý hoặc cả hai (loại trừ những
trường hợp có hình ảnh chẩn đoán hợp lý
nhưng được điều trị bảo tồn không mổ).
Các dấu hiệu được khảo sát trên hình ảnh
CCLĐT có thể là những triệu chứng đặc
hiệu và không đặc hiệu. CCLĐT được xem
là khẳng định chẩn đoán khi trong kết luận
chẩn đoán của bác sĩ chẩn đoán hình ảnh có
các từ như”phù hợp với”, liên quan
đến”hay”triệu chứng của”thiếu máu mạc
treo cấp, mặc dù tiêu chuẩn cho việc phân
loại này là không rõ ràng. Kết quả có được
là độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 89%. Tuy
nhiên, khi dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán
thiếu máu mạc treo cấp từ những triệu
chứng đặc hiệu trên hình ảnh CCLĐT thì
kết quả đạt được cũng rất khả quan, với độ
nhạy 96% và độ đặc hiệu 94%.
KẾT LUẬN
Với kinh nghiệm bước đầu còn ít ỏi, khả
năng chẩn đoán đúng tắc mạch mạc treo
bằng CCLĐT trong nghiên cứu của chúng
tôi còn thấp; tuy nhiên, CCLĐT tỏ ra hữu
ích trong việc xác định vị trí, nguyên nhân
và mức độ thương tổn của tắc mạch mạc
treo. Vì vậy, CCLĐT nên được sử dụng
thường xuyên hơn trong chẩn đóan tắc
mạch mạc treo để giúp điều trị kịp thời,
giảm bớt tử vong và biến chứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alpern MB, Glazer GM, Francis IR. (1988). Ischemic or
infarcted bowel: CT findings. Radiology. 166: 149-152.
2. Boley SJ, Kaleya RN. Mesenteric ischemic disorders. In:
Maingot’s abdominal operations. 10th ed: 655-689.
3. Horton KM, Fishman EK. (2001) Multi-detector row CT
of mesenteric ischemia: Can it be done?
RadioGraphics.; 21: 1463-1473.
4. Kirkpatrick IDC, Kroeker MA, Greenberg HM. (2003)
Biphasic CT with mesenteric ischaemia: initial
experience. Radiology.; 229: 91-98.
5. Klein M-H, Lensing R, Klosterhalfen B, et al. (1995)
Diagnostic imaging of mesenteric infarction.
Radiology.; 197: 79-82.
6. Lund EC, Han SY, Holley HC, et al. (1988) Intestinal
ischemia: comparison of plain radiographic and
computed tomographic findings. RadioGraphics. 8:
1083-1108.
7. Sternbach Y, Perler BA. Acute mesenteric ischemia. In:
Zuidema D, Yeo CJ. Shackelford’s surgery of the
alimentary tract. 5th ed: 17-31.
8. Taourel PG, Deneuville M, Pradel JA, et al. (1996)
Acute mesenteric ischemia: diagnosis with contrast-
enhanced CT. Radiology. 199: 632-636.
9. Wiesner W, Khurana B, Ji H, et al. (2003) CT of acute
bowel ischemia. Radiology; 226: 635-650.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_buoc_dau_su_dung_chup_cat_lop_dien_toan_trong_chan_d.pdf