Trong nhóm bệnh nhân đau dây V được
chúng tôi điều trị bằng các can thiệp ngoại khoa,
số lượng bệnh nhân còn khá ít với 26 ca phẫu
thuật giải ép vi mạch và 7 ca nhiệt đông hạch
Gasser qua da. Tuy nhiên về đặc điểm lâm sàng
khá điển hình như tính chất cơn đau, phân bố
giới tính với chủ yếu là nữ giới và vị trí đau
thường gặp nhất là nhánh V2V3(1,3,9). Và vì đây
là một rối loạn về chức năng, không gây nguy
hiểm đến tính mạng và đáp ứng ban đầu rất tốt
với thuốc nên các bệnh nhân thường có bệnh sử
khá lâu trước khi phải can thiệp bằng ngoại khoa
(trung bình là 61 tháng).
Về phân bố độ tuổi, nhóm bệnh nhân thực
hiện thủ thuật nhiệt đông hạch Gasser có độ tuổi
trung bình cao hơn nhóm bệnh nhân phẫu thuật
(57 so với 48), vì một trong những khuyết điểm
của phương pháp giải ép vi mạch là phải chịu
nguy cơ của cuộc mổ, nguy cơ này tăng theo tuổi
cũng như các bệnh lý nội khoa đi kèm(1).
Mặc dù số lượng bệnh nhân của chúng tôi
không nhiều, tuy nhiên ban đầu cũng cho thấy
được đây là phương pháp điều trị hiệu quả, với
85% bệnh nhân hết đau lúc xuất viện cả ở nhóm
phẫu thuật cũng như thủ thuật. Các biến chứng
bệnh nhân gặp phải thường gặp nhất là chóng
mặt sau phẫu thuật giải ép vi mạch và tê bì mặt
sau khi thực hiện thủ thuật nhiệt đông hạch
Gasser. Ngoài ra còn có một bệnh nhân bị nhiễm
trùng vết mổ và 2 bệnh nhân bị dò dịch não tủy,
tuy nhiên các bệnh nhân này đều được điều trị
ổn và không để lại di chứng nào. Điều này cũng
cho thấy độ an toàn của cả 2 phương pháp trên
cũng như ưu khuyết điểm của từng phương
pháp, nếu như bệnh nhân thực hiện giải ép vi
mạch có thể giải quyết được nguyên nhân của
bệnh đau dây V đồng thời phải chịu các nguy cơ
của phẫu thuật thì thủ thuật nhiệt đông hạch
Gasser qua da lại rất nhẹ nhàng dễ thực hiện,
tuy nhiên sau đó thường hay kèm rối loạn cảm
giác mặt sau đó, và tỉ lệ tái phát cao, trong nhóm
bệnh nhân của chúng tôi là 43%(3,9).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả can thiệp ngoại khoa điều trị đau dây thần kinh V tại bệnh viện nhân dân Gia Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 350
KẾT QUẢ CAN THIỆP NGOẠI KHOA ĐIỀU TRỊ ĐAU
DÂY THẦN KINH V TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Lê Trọng Nghĩa*, Trần Hoàng Ngọc Anh**, Trịnh Xuân Hậu*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị đau dây thần kinh V bằng phương pháp vi phẫu thuật giải
ép vi mạch và nhiệt đông hạch Gasser qua da thực hiện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả các trường hợp đau dây thần kinh V nhập Bệnh viện Nhân Dân
Gia Định để điều trị bằng phẫu thuật hoặc thủ thuật từ 05/2010 đến 10/2014. Bệnh nhân được ghi nhận triệu
chứng lâm sàng, đánh giá kết quả cải thiện triệu chứng lúc xuất viện, các biến chứng và theo dõi bằng tái khám
hoặc qua điện thoại.
Kết quả: Tổng số 33 trường hợp, tỉ lệ nam/nữ: 1/3; tuổi trung bình 50 tuổi; thời gian đau trước mổ trung
bình 61 tháng; 100% cơn đau điển hình; 29 (88%) đau bên phải; 4 (12%) đau bên trái; 26 (79%) bệnh nhân được
phẫu thuật; 7 (21%) bệnh nhân được nhiệt đông hạch Gasser. Thời gian theo dõi trung bình 23 tháng đối với
phẫu thuật và 4 tháng đối với bệnh nhân nhiệt đông hạch Gasser. Sau phẫu thuật: 22 (85%) bệnh nhân hết đau,
đối với bệnh nhân nhiệt đông hạch Gasser: 6 (86%) bệnh nhân hết đau. Hiện tại, tỉ lệ này là 21 (81%) hết, 2 (8%)
tái phát đối với phẫu thuật, và đối với nhiệt đông là 3 (43%) hết, 3 (43%) tái phát. Sau mổ, các bệnh nhân thường
hay bị chóng mặt, hầu hết đều hồi phục, biến chứng thường gặp là tê bì mặt sau nhiệt đông hạch Gasser.
Kết luận: Phẫu thuật giải ép vi mạch và nhiệt đông hạch Gasser qua da là lựa chọn điều trị hiệu quả tiếp
theo sau khi thất bại với điều trị nội. Mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng và tại bệnh viện chúng tôi,
bệnh nhân có thể lựa chọn cho mình phương pháp phù hợp.
Từ khóa: Đau dây thần kinh V, vi phẫu giải ép vi mạch, nhiệt đông hạch Gasser qua da, chèn ép mạch máu
thần kinh.
ABSTRACT
RESULTS OF SURGICAL THERAPY TREATING TRIGEMINAL NEURALGIA
AT NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL
Le Trong Nghia, Tran Hoang Ngoc Anh, Trinh Xuan Hau
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 350 – 354
Objectives: Evaluate results of treatment of trigeminal neuralgia by microvascular decompression and
percutaneous radiofrequency rhizotomy at Nhan Dan Gia Dinh Hospital.
Method: Retrospective study of trigeminal neuralgia cases, which were treated by surgical therapy at Nhan
Dan Gia Dinh Hospital from 05/2010 to 10/2014. The patients were recorded clinical symtoms, evaluated the
improvement, the complication and observed by follow‐up examination or by phone.
Results: There were totally 33 cases, male/female ratio is 1/3, mean age: 50, mean times of history: 61
months, 100% patients had typical pain, 29 (88%) were right, 4 (12%) were left. 26 (79%) patients underwent
microvascular decompression, 7 (21%) patients were performed radiofrequency rhizotomy. Mean times of follow
up of operated cases were 23 months and of radiofrequency rhizotomy cases 4 months. 22 (85%) cases post
operated and 6 (86%) cases after percutaneous procedure achieved pain free. At the moment, success rate is 21
(81%) in operated cases, 3 (43%) in radiofrequency rhizotomy cases, and recurrence rate is 2 (8%) in operated
* Khoa Ngoại thần kinh BV Nhân Dân Gia Định ** Bộ Môn Ngoại Thần Kinh ĐHYDược TP. HCM
Tác giả liên lạc: BS CK I Lê Trọng Nghĩa, ĐT:0913404549 Email: nghiale001@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 351
cases, 3 (43%) in radiofrequency rhizotomy cases. Many of patients sufer from postoperated dizziness, all of them
were recover, the popular complication of surgery was hemifacial paresis.
Conclusion: Microvascular decompression and percuatneous radiofrequency rhizotomy are the next options
for trigeminal neuralgia patients who can’t treated by medical therapy. Each method has pros and con, and at
Nhan Dan Gia Dinh Hospital, patients can choose a suitable treatment for them.
Key words: Trigeminal neuralgia, microvascular decompression, percutaneous radiofrequency rhizotomy,
neurovascular compression.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những cơn đau kịch phát ở mặt đã được biết
đến từ rất lâu, nhưng người được xem là đầu
tiên mô tả về nó là một bác sĩ Ả rập vào thế kỷ
XI. Sau này đến năm 1829, Charles Bell đãmô tả
được giải phẫu của dây thần kinh V và ông đã
chỉ ra dây thần kinh V chịu trách nhiệm chi phối
cảm giác vùng mặt cũng như vận động của các
cơ nhai(7). Kể từ đó người ta chuyển sang nghiên
cứu dây thần kinh V nhằm đưa ra phương pháp
điều trị hiệu quả cho các cơn đau vùng mặt.
Các phương pháp điều trị đau dây V bằng
thủ thuật qua da được giới thiệu đầu tiên năm
1853 bởi Patruban. Nhưng cho đến năm 1960
Sweet mới tiến hành thực hiện các thương tổn
bằng sóng và đến năm 1974 kỹ thuật này được
hiện để điều trị đau dây V(7). Y văn cho đến nay
cũng đã ghi nhận nhiều công trình chứng minh
hiệu quả của phương pháp này(3,9). Ngày nay, sự
tiến bộ về kỹ thuật của các thủ thuật qua da kèm
với sự hỗ trợ của các phương tiện hiện đại như
C‐arm, navigation, làm cho kỹ thuật này càng an
toàn hơn.
Bên cạnh phương pháp can thiệp bằng thủ
thuật thì phẫu thuật giải ép vi mạch cũng là một
phương pháp điều trị hiệu quả đau dây V.
Jannetta là người có công mô tả chi tiết giả
thuyết chèn ép mạch máu thần kinh, được chấp
nhận là nguyên nhân gây ra cơn đau mặt và kỹ
thuật phẫu thật giải ép vi mạch. Từ đó phương
pháp này được phổ biến rộng rãi và đã có nhiều
công trình nghiên cứu chứng minh được hiệu
quả của nó(2,4,5,6).
Năm 2010, với sự hỗ trợ của kính vi phẫu
mới trang bị, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định đã
triển khai mổ vi phẫu giải ép vi mạch điều trị
đau dây V(5). Đến năm 2014 chúng tôi bắt đầu
thực hiện thủ thuật nhiệt đông hạch Gasser qua
da. Với cả hai phương pháp chúng tôi đã đạt
được những kết quả ban đầu tương đối tốt trong
điều trị bệnh lý đau dây thần kinh V.
Trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi muốn
đánh giá lại đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học cũng
như kết quả đạt được trên những bệnh nhân được
chúng tôi thực hiện can thiệp ngoại khoa điều trị đau
dây V tại BV Nhân Dân Gia Định.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu mô
tả hàng loạt ca. Địa điểm tại Bệnh Viện Nhân
Dân Gia Định. Thời gian thu thập số liệu từ
tháng 5/2010 đến tháng 10/2014.
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các bệnh nhân
đau dây thần kinh V, thất bại với điều trị nội
khoa bằng carbamazepine, đã được chúng tôi
điều trị bằng vi phẫu thuật giải ép vi mạch và
nhiệt đông hạch Gasser qua da. Mỗi bệnh nhân
được khám lâm sàng, chụp cộng hưởng từ khảo
sát mối tương quan mạch máu thần kinh vùng
góc cầu tiểu não. Bệnh nhân sẽ được tư vấn về
các phương pháp điều trị bằng can thiệp ngoại
khoa, ưu, khuyết điểm và nguy cơ của từng
phương pháp để bệnh nhân chọn lựa cách điều
trị. Sau đó bệnh nhân được đánh giá lại lúc xuất
viện, ghi nhận các biến chứng của điều trị nếu có
và đánh giá lại lúc tái khám. Kết quả được chúng
tôi khảo sát theo cảm giác chủ quan của bệnh
nhân, chia làm 3 mức độ hết, giảm, hoặc không
thay đổi so với ban đầu. Đối với các bệnh nhân
sau một thời gian hết đau, nếu đau trở lại vị trí cũ
cần phải dùng thuốc thì được ghi nhận là tái phát.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 352
KẾT QUẢ
Dịch tễ học
Trong vòng 53 tháng chúng tôi đã tiến hành
điều trị bằng các can thiệp ngoại khoa cho 33
bệnh nhân đau dây thần kinh V. Trong nhóm
này có 26 (79%) bệnh nhân được phẫu thuật giải
ép vi mạch; 7 (21%) bệnh nhân được nhiệt đông
hạch Gasser qua da. Tuổi trung bình là 51, trẻ
nhất là 22 và già nhất là 78 tuổi, trong đó, tuổi
trung bình của nhóm bệnh nhân phẫu thuật là
48, còn của nhóm bệnh nhân nhiệt đông hạch
Gasser qua da là 57. Tỉ lệ nam/nữ khoảng 1/3.
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học
Phẫu thuật Nhiệt đông Tổng số
Số BN 26 (79%) 7 (21%) 33
Tuổi TB 48 57 50
Giới hạn tuổi 22 - 78 26 - 67 22–78
Nam 7 (27%) 1 (14%) 8 (24%)
Nữ 19 (73%) 6 (86%) 25 (76%)
Lâm sàng và hình ảnh học
Bệnh sử trung bình các bệnh nhân đau dây
thần kinh V diễn tiến khoảng 61 tháng. Tất cả các
bệnh nhân đều có triệu chứng lâm sàng điển
hình với cơn đau nhói như điện giật, phân bố
theo các nhánh của dây thần kinh V, cơn đau
thường khởi phát khi sờ chạm vào một điểm nào
đó trên mặt hay khi ăn hoặc đánh răng thậm chí
chỉ là một cơn gió thổi vào mặt. Tất cả các bệnh
nhân đều đáp ứng với điều trị bằng
carbamazepine trước đó, tuy nhiên hiện tại đã
thất bại. Đa số bệnh nhân bị bên phải (88%). Vị
trí đau thường gặp nhất là nhánh V2‐V3 (42%),
các vị trí đau hiếm gặp là V1, V1‐V3, hay V1‐V2‐
V3.
Bảng 2: Phân bố vị trí đau
Vị trí đau Phẫu thuật Nhiệt đông Tổng số
Bên phải 25 (96%) 4 (57%) 29 (88%)
Bên trái 1 (4%) 3 (43%) 4 (12%)
V2-V3 12 (46%) 2 (29%) 14 (42%)
V2 6 (23%) 3 (43%) 9 (27%)
V1-V2 4 (15%) 0 4 (12%)
V3 2 (8%) 1 (14%) 3 (9%)
V1 0 1 (14%) 1 (3%)
V1-V3 1 (4%) 0 1 (3%)
V1-V2-V3 1 (4%) 0 1 (3%)
Tất cả các bệnh nhân sau đó được thực hiện
chụp cộng hưởng từ não không có thuốc tương
phản, trong đó có một chuỗi xung hình ảnh với
độ phân giải cao nhằm khảo sát mối tương quan
mạch máu thần kinh vùng góc cầu tiểu não. Trên
hình ảnh phim MRI, không có trường hợp nào
có thương tổn của não, chúng tôi ghi nhận
khoảng 60% các trường hợp có hình ảnh mạch
máu tiếp xúc với dây thần kinh V đoạn trong sọ.
Kết quả điều trị
Vi phẫu thuật giải ép vi mạch
Trong các bệnh nhân phẫu thuật, chúng tôi
tiếp cận vào góc cầu tiểu não bằng đường mổ
retrosigmoid, mở sọ hố sau sát xoang ngang và
xoang sigma, mở màng cứng hình chữ Y, bóc
tách màng nhện để tiếp cận được dây thần kinh
V(6,7). Chúng tôi luôn tìm thấy ít nhất một mạch
máu chèn vào dây thần kinh V. Thông thường
chúng tôi luôn hạn chế tối đa đốt tĩnh mạch đá,
tuy nhiên có 4 (15%) trường hợp buột phải đốt
cắt tĩnh mạch này mới có thể tiến hành tách
mạch máu ra khỏi dây V. Có 17 (65%) bệnh nhân
dây V bị chèn bởi 1 mạch máu; 9 (35%) bệnh
nhân dây V bị chèn bởi 2 mạch máu khác nhau.
Đặc biệt có 8 (31%) dây V bị chèn bởi tĩnh mạch.
Bảng 3: Đặc điểm trong mổ
Đặc điểm trong mổ Số BN
Đốt TM đá 4 (15%)
Có 1 mạch máu 17(65%)
Có 2 mạch máu 9(35%)
Mạch máu chèn là TM 8(31%)
MM ép tại gốc dây V 11(42%)
MM ép tại phần xa dây V 6(23%)
MM ép ở cả 2 vị trí 9(35%)
Sau mổ không có bệnh nhân nào tử vong,
biến chứng thường gặp sau mổ là chóng mặt
gặp trên 10 bệnh nhân (30%), lý do là lúc phẫu
thuật rút bớt dịch não tủy làm xẹp tiểu não để dễ
thao tác. Không có bệnh nhân nào bị tổn thương
dây thần kinh sọ. Có 2 (6%) trường hợp bị dò
dịch não tủy, 1 bệnh nhân điều trị ổn với dẫn
lưu thắt lưng và kháng sinh, một bệnh nhân bị
dò dịch não tủy qua mũi sau khi xuất viện,
nguyên nhân là do màng cứng không được vá
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 353
kín và xoang chủm không được xử lý tốt nên
dịch não tủy theo xoang chủm vào tai giữa rồi
theo vòi Eustache ra xoang mũi họng, bệnh nhân
này phải nhập viện để phẫu thuật vá lỗ dò. Có 1
trường hợp (4%) bị nhiễm trùng vết mổ, tuy
nhiên sau đó bệnh nhân vẫn được điều trị ổn
bằng kháng sinh.
Kết quả phẫu thuật lúc xuất viện có 22 (85%)
bệnh nhân hết đau mặt không cần phải dùng
thêm carbamazepine, 4 (15%) bệnh nhân chỉ
giảm đau và cần dùng thêm thuốc. Sau thời gian
theo dõi trung bình khoảng 23 tháng đến nay, có
thêm 1 trường hợp hết đau, nhưng có 2 trường
hợp tái phát trở lại, như vậy hiện tại tỉ lệ bệnh
nhân hết đau với phẫu thuật là 21 (81%) bệnh
nhân. Các trường hợp còn lại vẫn phải tiếp tục
dùng thuốc, và đáp ứng tốt với carbamazepine.
Nhiệt đông hạch Gasser qua da
Bệnh nhân được đặt tư thế nằm ngửa, xác
định điểm vào của điện cực cách khóe miệng
bên đau khoảng 2,5cm, dưới mặt phẳng nhai
khoảng 1cm. Tiến hành gây tê tại chỗ bằng
lidocaine 2%. Đưa điện cực vào lỗ bầu dục theo
hướng giao nhau giữa 2 mặt phẳng, mặt phẳng
đứng dọc đi qua điểm giữa của đồng tử bên đau,
mặt phẳng trán đi qua điểm bờ dưới cung gò má
3cm phía trước ống tai ngoài(Error! Reference
source not found.). Sau khi điện cực đã đi vào lỗ
bầu dục, tiến hành kích thích điện xác định vị trí
gây ra rối loạn cảm giác đúng vùng phân bố đau
của bệnh nhân. Tiếp theo tiến hành nhiệt đông
với nhiệt độ vừa đủ gây ra cảm giác nóng bệnh
nhân chịu đựng được. Chúng tôi thực hiện 3 lần
như vậy với thời gian mỗi lần khoảng 60s.
Sau khi được trang bị máy kích thích điện,
trong vòng 6 tháng chúng tôi tiến hành nhiệt
đông 7 trường hợp. Kết quả có 6 (86%) trường
hợp hết đau lúc xuất viện, 1 (14%) trường hợp
giảm đau. Sau nhiệt đông, 7 bệnh nhân đều có
cảm giác tê bì nhẹ vùng mặt bên làm thủ thuật
do thương tổn nhiệt gây ra là thương tổn không
chọn lọc, ngoài ra, các bệnh nhân cũng bị sưng
nhẹ má bên thực hiện. Không có trường hợp nào
bị dò dịch não tủy, khô kết mạc hay có biến
chứng khác.
Sau thời gian theo dõi trung bình khoảng 4
tháng, trường hợp giảm đau ban đầu vẫn tiếp
tục đáp ứng với carbamazepine. Có 3 (43%)
trường hợp tái phát đau, phải tiếp tục dùng
thuốc, như vậy hiện tại chỉ còn 3 (43%) trường
hợp hết đau sau nhiệt đông.
Bảng 4: Kết quả can thiệp
Kết quả Phẫu thuật Nhiệt đông
Xuất viện hết đau 22 (85%) 6 (85%)
Thời gian theo dõi trung bình 23 tháng 4 tháng
Hiện tại hết đau 21 (81%) 3 (43%)
Tái phát 2 (8%) 3 (43%)
Tử vong 0 0
Chóng mặt 10 (38%) 0
Tê bì mặt 1 (4%) 7 (100%)
Nhiễm trùng 1 (4%) 0
Dò dịch não tủy (8%) 0
BÀN LUẬN
Bệnh lý đau dây thần kinh V đã được mô tả
từ rất lâu. Đến nay, việc điều trị bệnh lý này đã
đạt được nhiều tiến bộ nhờ sự hỗ trợ của trang
thiết bị y khoa tiên tiến. Hiện nay, tại bệnh viện
chúng tôi, điều trị đau dây V có 2 hướng, ban
đầu là điều trị nội khoa dùng thuốc với chủ yếu
là carbamazepine(3). Sau khi thất bại với thuốc,
do thuốc không còn hiệu quả hay gây ra các tác
dụng phụ nặng nặng nề, chúng tôi sẽ tư vấn
bệnh nhân chuyển sang phương pháp can thiệp
ngoại khoa bao gồm nhiệt đông hạch Gasser qua
da và vi phẫu thuật giải ép vi mạch.
Trong nhóm bệnh nhân đau dây V được
chúng tôi điều trị bằng các can thiệp ngoại khoa,
số lượng bệnh nhân còn khá ít với 26 ca phẫu
thuật giải ép vi mạch và 7 ca nhiệt đông hạch
Gasser qua da. Tuy nhiên về đặc điểm lâm sàng
khá điển hình như tính chất cơn đau, phân bố
giới tính với chủ yếu là nữ giới và vị trí đau
thường gặp nhất là nhánh V2V3(1,3,9). Và vì đây
là một rối loạn về chức năng, không gây nguy
hiểm đến tính mạng và đáp ứng ban đầu rất tốt
với thuốc nên các bệnh nhân thường có bệnh sử
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 354
khá lâu trước khi phải can thiệp bằng ngoại khoa
(trung bình là 61 tháng).
Về phân bố độ tuổi, nhóm bệnh nhân thực
hiện thủ thuật nhiệt đông hạch Gasser có độ tuổi
trung bình cao hơn nhóm bệnh nhân phẫu thuật
(57 so với 48), vì một trong những khuyết điểm
của phương pháp giải ép vi mạch là phải chịu
nguy cơ của cuộc mổ, nguy cơ này tăng theo tuổi
cũng như các bệnh lý nội khoa đi kèm(1).
Mặc dù số lượng bệnh nhân của chúng tôi
không nhiều, tuy nhiên ban đầu cũng cho thấy
được đây là phương pháp điều trị hiệu quả, với
85% bệnh nhân hết đau lúc xuất viện cả ở nhóm
phẫu thuật cũng như thủ thuật. Các biến chứng
bệnh nhân gặp phải thường gặp nhất là chóng
mặt sau phẫu thuật giải ép vi mạch và tê bì mặt
sau khi thực hiện thủ thuật nhiệt đông hạch
Gasser. Ngoài ra còn có một bệnh nhân bị nhiễm
trùng vết mổ và 2 bệnh nhân bị dò dịch não tủy,
tuy nhiên các bệnh nhân này đều được điều trị
ổn và không để lại di chứng nào. Điều này cũng
cho thấy độ an toàn của cả 2 phương pháp trên
cũng như ưu khuyết điểm của từng phương
pháp, nếu như bệnh nhân thực hiện giải ép vi
mạch có thể giải quyết được nguyên nhân của
bệnh đau dây V đồng thời phải chịu các nguy cơ
của phẫu thuật thì thủ thuật nhiệt đông hạch
Gasser qua da lại rất nhẹ nhàng dễ thực hiện,
tuy nhiên sau đó thường hay kèm rối loạn cảm
giác mặt sau đó, và tỉ lệ tái phát cao, trong nhóm
bệnh nhân của chúng tôi là 43%(3,9).
KẾT LUẬN
Thông qua những kết quả ban đầu chúng tôi
đạt được khi điều trị đau dây V bằng phẫu thuật
giải ép vi mạch và nhiệt đông hạch Gasser qua
da, mặc dù với số lượng bệnh nhân không
nhiều, nhưng vẫn cho thấy đây là những
phương pháp điều trị hiệu quả an toàn, là lựa
chọn điều trị tiếp theo sau khi thất bại với điều
trị nội. Mỗi phương pháp đều có ưu, nhược
điểm riêng và bệnh nhân có thể lựa chọn cho
mình phương pháp phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ferguson GG, Brett DC, Peerless SJ, Barr HW, Girvin
JP(1981). Trigeminal neuralgia:a comparison of the results of
percutaneous rhizotomy and microvascular decompression.
Can J Neurol Sci 8:207‐214. 2
2. Fromm GH (1991): Pathophysiology of trigeminal neuralgia,
pp 179–192, in Fromm GH, Sessle BJ (eds): Trigeminal
Neuralgia. Boston, Butterworth Heneman. 3
3. Greenberg MS (2010). Trigeminal neuralgia, handbook of
neurosurgery – Seven edition, pp 551‐562. 7
4. Jannetta PJ (1980): Neurovascular compression in cranial
nerve and systemic disease. Ann Surg, 192:518‐525. 4
5. Lê Trọng Nghĩa (2011). Đánh giá kết quả phẫu thuật giải ép vi
mạch điều trị co giật nửa mặt và đau dây V tại Bệnh Viện
Nhân Dân Gia Định. Y học thực hành, số 779:280‐288. 6
6. Mark R McLaughlin (1998). Microvascular decompression of
cranial nerves: lessons learned after 4400 operations.
Neurosurgery focus. 8
7. Ray DK (2011). Percutaneous Procedures for Trigeminal
Neuralgia. In: Youmans Neurological Surgery, Vol 2, 5th edition,
pp 1781‐1787. 1
8. Rhoton AL (2007). Cerebellopontone angle and retrosigmoid
approach. Neurosurgery, 61(S4):175‐192. 9
9. Taha JM (1995). A prospective 15‐year follow up of 154
consecutive patients with trigeminal neuralgia treated by
percutaneous stereotactic radiofrequency thermal rhizotomy.
J Neurosurg, 83:989–993 5
Ngày nhận bài báo: 20/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 2/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 5/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_can_thiep_ngoai_khoa_dieu_tri_dau_day_than_kinh_v_ta.pdf