Đặc biệt trong quần hệ rừng trên đỉnh núi
đá vôi ở Phiêng Luông (Bắc Mê), Thái An và
Bát Đại Sơn (Quản Bạ) mọc tập trung nhiều
loài thuộc Ngành Thông - Hạt trần. Trong đó có
các loài đáng chú ý như: Thông tre lá dài
(Podocarpus neriifolius D. Don), Thông tre lá
ngắn (Podocarpus pilgeri Foxw.); Bách xanh
(Calocedrus macrolepis); Bách vàng
(Cupressus vietnamensis); Thiết sam đông bắc
(Tsuga chinensis); Thông đỏ (Taxus
chinensis). Có thể nói, hiếm có nơi nào ở Việt
Nam có số loài Hạt trần tập trung như ở các
điểm này. Tuy nhiên, hầu hết các loài kể trên do
phạm vi phân bố hẹp, số lượng cá thể ít nên khả
năng khai thác hạn chế. Thậm chí có thể coi là
những loài cây thuốc quí hiếm, cần bảo vệ và
phát triển thêm ở Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 646 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc của tỉnh Hà Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81
73
Kết quả điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc
của tỉnh Hà Giang
Phạm Thanh Huyền1,*, Nguyễn Quỳnh Nga1, Phan Văn Trưởng1,
Hoàng Văn Toán1, Nguyễn Xuân Nam1, Nguyễn Văn Dân1, Phạm Thị Ngọc2
1Viện Dược liệu, Bộ Y tế, 3B Quang Trung, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Hà Giang là một tỉnh nằm ở phía Đông Bắc của nước ta. Với những đặc trưng về địa hình, địa chất và khí
hậu, Hà Giang có thảm thực vật tự nhiên phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều loài thực vật có giá trị. Trong
thời gian từ 2013 - 2015, nhóm nghiên cứu của Viện Dược liệu đã tiến hành điều tra tại 84 xã thuộc 11 huyện và
thành phố của tỉnh Hà Giang, gồm: Xín Mần, Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Tp. Hà Giang,
Đồng Văn, Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc. Kết quả đã ghi nhận được ở Hà Giang hiện có 1565 loài thuộc 824
chi, 202 họ và 6 ngành, 2 giới Thực vật và Nấm có công dụng làm thuốc. Đồng thời phát hiện thêm được 4 loài
cây thuốc mới bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam. Nguồn tài nguyên cây thuốc của Hà Giang không chỉ có sự đa
dạng về dạng sống, sự phong phú ở các bậc taxon mà còn có giá trị lớn về mặt bảo tồn.
Nhận ngày 18 tháng 9 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 07 tháng 10 năm 2015, Chấp nhận đăng ngày 05 tháng 12 năm 2016
Từ khóa: Tài nguyên, cây thuốc, dược liệu, Hà Giang.
1. Đặt vấn đề*
Hà Giang là tỉnh miền núi nằm ở phía Đông
Bắc của Việt Nam. Với điều kiện tự nhiên và
khí hậu tương đối đa dạng đã tạo ra ở đây
nguồn tài nguyên động - thực vật độc đáo, trong
đó có nhiều loài cây được dùng làm thuốc. Tỉnh
Hà Giang có tới 22 cộng đồng các dân tộc khác
nhau cùng cư trú và sinh sống. Bởi vậy, vốn tri
thức bản địa về sử dụng cây thuốc, động vật
làm thuốc trong nhân dân vô cùng phong phú.
Với đặc điểm địa hình, địa chất thổ nhưỡng, khí
hậu đặc trưng nên Hà Giang có thảm thực vật tự
nhiên phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều
loài dược liệu quý [1- 4].
_______
* Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-39363377
Email: huyenptnimm@gmail.com
Công tác điều tra đánh giá tiềm năng và
hiện trạng nguồn tài nguyên dược liệu ở Hà
Giang những năm trước đây đã có những kết
quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn những
mặt hạn chế do mới chỉ điều tra được ở 4 huyện
vùng cao núi đá (Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ
và Yên Minh); còn 7 huyện/thị (Vị Xuyên, Bắc
Mê, Bắc Quang, Quang Bình, Hoàng Su Phì,
Xín Mần và thành phố Hà Giang) vẫn chưa
được điều tra [5, 6]. Do vậy chưa có được các
dữ liệu đầy đủ về tiềm năng và hiện trạng
nguồn cây thuốc trên toàn tỉnh Hà Giang.
Chính vì vậy , trong giai đoạn 2013 - 2015,
Viện Dược liệu được Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà
Giang phê duyệt đề tài “Nghiên cứu, điều tra,
khảo sát và xây dựng chiến lược phát triển cây
dược liệu tỉnh Hà Giang”. Mục tiêu của đề tài
là nắm được về tiềm năng, hiện trạng và đề
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81
74
xuất các giải pháp quản lý, khai thác và sử
dụng bền vững nguồn tài nguyên cây dược
liệu tỉnh Hà Giang.
2. Đối tượng, địa điểm và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Các loài thực vật và nấm có công dụng
làm thuốc.
2.2. Địa điểm điều tra nghiên cứu
Điều tra, khảo sát nguồn tài nguyên cây
thuốc ở 7 huyện và thành phố chưa được điều
tra (Xín Mần, Hoàng Su Phì, Quang Bình, Bắc
Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Thành phố Hà
Giang) và tái điều tra 4 huyện đã được điều tra
trước đây để cập nhật số liệu (Quản Bạ, Yên
Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc). Tại các huyện, lựa
chọn những vùng rừng tiêu biểu để tiến hành
điều tra. Tổng số đã điều tra 84 xã và thị trấn
thuộc 11 huyện trên toàn tỉnh, cụ thể như sau:
- Huyện Xín Mần: 10 xã, 1 thị trấn: Nấm
Dẩn, Khuôn Lùng, Quảng Nguyên, Nà Chì, Chí
Cà, Thu Tà, Xín Mần, Chế Là, Bản Ngò, Ngán
Chiên, thị trấn Cốc Bài.
- Huyện Hoàng Su Phì: 11 xã, 1 thị trấn:
Nàng Đôn, Pờ Ly Ngài, Sán Xả Hồ, Hồ Thầu,
Nậm Ty, Thông Nguyên, Nậm Dịch, Nậm
Khòa, Nậm Ty, Nam Sơn, Tả Sử Choóng, thị
trấn Vinh Quang.
- Huyện Quang Bình: 7 xã và 1 thị trấn:
Tiên Nguyên, Nà Khương, Bằng Lang, Xuân
Giang, Bản Rịa, Tân Trinh, Tân Bắc, thị trấn
Yên Bình.
- Huyện Bắc Quang: 7 xã và 1 thị trấn:
Quang Minh, Liên Hiệp, Đức Xuân, Kim
Ngọc, Bằng Hành, Đồng Tâm, Đồng Tiến, thị
trấn Tân Quang.
- Huyện Vị Xuyên: 15 xã và 2 thị trấn:
Thượng Sơn, Cao Bồ, Quảng Ngần, Trung
Thành, Việt Lâm, Thanh Thủy, Thanh Đức,
Lao Chải, Xín Chải; Khu bảo tồn thiên nhiên
Tây Côn Lĩnh: xã Quảng Ngần, Cao Bồ; Khu
bảo tồn thiên nhiên Phong Quang: xã Phong
Quang, Thuận Hoà, Minh Tân; Khu bảo tồn
vọoc Khau Ca: xã Tùng Bá; thị trấn Vị Xuyên,
thị trấn nông trường Việt Lâm.
- Huyện Bắc Mê: 8 xã và 1 thị trấn: Khu bảo
tồn thiên nhiên Bắc Mê: xã Lạc Nông, Minh
Ngọc, Phiêng Luông, Thượng Tân; Khu bảo tồn
vọoc Khau Ca: xã Minh Sơn, Yên Định, Yên
Cường, Yên Phong; thị trấn Yên Phú.
- Thành phố Hà Giang: 4 xã: Phương Thiện,
Phương Độ, Ngọc Đường, Phong Quang.
Điều tra nhanh nguồn tài nguyên cây thuốc
ở 4 huyện vùng cao núi đá đã điều tra trước đây
để cập nhật số liệu điều tra :
- Huyện Quản Bạ: 5 xã: Bát Đại Sơn, Cán
Tỷ, Quyết Tiến, Tam Sơn và Quản Bạ.
- Huyện Yên Minh: 2 xã thuộc Khu bảo tồn
thiên nhiên Du Già: xã Du Già, Du Tiến.
- Huyện Đồng Văn: 5 xã: Phó Bảng, Lũng
Thầu, Phố Cáo, Phố Là và Vần Chải.
- Huyện Mèo Vạc: thị trấn Mèo Vạc và 2
xã: Tả Lủng, Nậm Ban.
2.3. Phương pháp
- Phương pháp chung để điều tra cây thuốc
áp dụng theo “Quy trình điều tra dược liệu” của
Bộ Y tế, 1973 và 2006 có sửa chữa, bổ sung.
- Điều tra theo tuyến: Trên thực địa để xác
định và thu thập được đầy đủ nhất số loài cây
thuốc hiện có ở khu vực nghiên cứu: tại mỗi
điểm điều tra, lập tuyến đi qua các kiểu địa hình
và dạng sinh thái đặc trưng để thu thập số liệu
về các loài theo yêu cầu.
- Sử dụng bản đồ và máy định vị vệ tinh
(GPS) để xác định các tuyến và điểm điều tra.
- Xác định tên khoa học các loài cây thuốc
theo phương pháp so sánh hình thái cổ điển và
sử dụng khóa phân loại trong các bộ thực vật
chí hiện có.
- Các tiêu bản cây thuốc được làm theo
phương pháp làm mẫu thực vật khô, và được
lưu giữ tại phòng tiêu bản khoa Tài nguyên
Dược liệu, Viện Dược liệu.
3. Kết quả điều tra
3.1. Tổng số loài cây thuốc ghi nhận được
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81 75
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã được
công bố và các kết quả điều tra trong giai đoạn
2013 - 2015, đã ghi nhận được ở Hà Giang có
tổng số 1565 loài cây thuốc thuộc 824 chi, 202
họ và 6 ngành của 2 giới Thực vật và Nấm.
Trong ngành Ngọc lan phần lớn các loài thuộc
lớp Ngọc lan - Hai lá mầm và một số ít thuộc
lớp Hành - Một lá mầm.
Kết quả cho thấy, với tổng số 1565 loài
thực vật và Nấm làm thuốc mọc tự nhiên và
trồng đã ghi nhận được, đem so sánh với tổng
số 665 loài cây thuốc đã ghi nhận được trong
các giai đoạn điều tra trước đây (1968 - 1975 và
1999 - 2000) thì số loài cây thuốc ghi nhận
trong cuộc điều tra lần này (2013-2015) là
nhiều hơn đáng kể [2, 5, 6, 7, 8]. Có thể thấy
rằng, Hà Giang là một trong những tỉnh có
nguồn tài nguyên thực vật nói chung và nguồn
tài nguyên cây thuốc nói riêng phong phú vào
dạng bậc nhất nước ta.
Bảng 1. Kết quả điều tra về thành phần loài thực vật và nấm làm thuốc ở tỉnh Hà Giang
STT Giới, Ngành và Lớp Số họ Số chi Số loài
Mọc tự
nhiên
Trồng
I Giới Nấm (Fungi) 2 2 2 2 0
1 Ngành Nấm đảm (Basidiomycota) 2 2 2 2 0
1.1 Lớp Nấm đảm (Basidiomycetes) 1 1 1 1 0
1.2 Lớp Nấm tán (Agaricomycetes) 1 1 1 1 0
II Giới Thực vật 200 822 1563 1432 131
1
Ngành Mộc tặc/Tháp bút
(Equisetophyta)
1 1 2 2 0
2
Ngành Thông đất/Thạch tùng
(Lycopodiophyta)
2 5 8 8 0
3 Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) 14 22 31 31 0
4
Ngành Thông/Hạt trần
(Pinophyta/Gymnospermae)
7 15 20 20 0
5
Ngành Ngọc lan/Hạt kín
(Magnoliophyta/Angiospermae)
176 779 1502 1371 131
5.1
Lớp Ngọc lan/lớp Hai lá mầm
(Magnoliopsida/Dicotyledon)
147 663 1277
5.2
Lớp Hành/lớp Một lá mầm
(Liliopsida/Monocotyledon)
29 116 225
Tổng số 202 824 1565 1434 131
K
* Sự phong phú về dạng sống:
Ngoài các đại diện thuộc nhóm Nấm, ngành
Dương xỉ không phân chia về dạng sống, số còn
lại là 1522 loài bao gồm các dạng sống:
- Thân cỏ/thảo (T): 604 loài (≈ 39,68 %)
- Cây bụi và cây bụi trườn (B): 366 loài
(≈ 24,05 %)
- Thân leo (thảo và gỗ) - (L): 214 loài
(≈ 14,06 %)
- Thân gỗ (G): 331 loài (≈ 21,75 %)
- Thân cột (C): 7 loài (≈ 0,46 % chủ yếu
thuộc họ Arecaceae).
Như vậy, cây thuốc tỉnh Hà Giang chủ yếu là
cây thân cỏ (39,68 %); nhóm cây bụi (24,05 %).
Cây thuốc là dây leo, thân gỗ và thân cột chiếm
tỷ lệ không nhiều. Tổng hợp với các đại diện
thuộc giới Nấm, ngành Mộc tặc, ngành Thông
đất và ngành Dương xỉ cho thấy, nguồn cây
thuốc tỉnh Hà Giang phong phú về các dạng
sống tự nhiên.
* Sự phong phú và đa dạng ở các bậc taxon
Như trên đã đề cập, tổng số 1565 loài thực
vật và nấm làm thuốc đã ghi nhận tại Hà Giang
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81
76
thuộc 824 chi và 202 họ, trong đó có 10 họ giàu
loài, có từ 20 đến 109 loài.
Bảng 2. Các họ thực vật có nhiều loài
cây thuốc tại Hà Giang
STT Họ thực vật Số loài
1 Asteraceae 109
2 Rubiaceae 63
3 Orchidaceae 45
4 Lamiaceae 39
5 Moraceae 34
6 Rutaceae 33
7 Apocynaceae 25
8 Araceae 24
9 Solanaceae 23
10 Acanthaceae 20
Tổng số 413
Trong số 10 họ có số loài nhiều nhất chiếm
tới 26,4% tổng số loài ghi nhận được. Trong đó
họ Cúc (Asteraceae) có số loài nhiều nhất,
nhiều loài trong họ này là những cây thuốc
phân bố khá phổ biến và có khả năng khai thác
lớn như Hy thiêm (Siegesbeckia orientalis),
Ngải cứu dại (Artemisia indica), Cỏ cứt lợn
(Ageratum conyzoides) . hay là cây trồng có
giá trị kinh tế như Actisô: Cynara cardunculus
L.. Họ Cà phê (Rubiaceae) đứng thứ hai với đa
phần là các loài cây thảo và cây bụi làm thuốc
phổ biến như: các loài Bướm bạc (Mussaenda
spp.), Câu đằng (Uncaria spp.), Dạ cẩm
(Hedyotis spp.)
Một số họ giàu loài có các cây thuốc vừa có
giá trị khai thác sử dụng lại vừa có giá trị về
mặt bảo tồn như họ Phong lan (Orchidaceae) có
9 loài nằm trong diện bảo tồn. Đó là 3 loài lan
Kim tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.)
Lindl.; A. Calcareous Aver., Anoectochilus
elwesii King & Pantl.); 4 loài Thạch hộc
(Dendrobium nobile Lindl., Dendrobium
longicornu Lindl., Dendrobium chrysanthum
Lindl., Dendrobium fimbriatum Hook.) và 2
loài lan Một lá (Nervilia aragoana Gaudich.;
Nervilia fordii (Hance) Schltr.); Họ Bạc hà
(Lamiaceae) với nhiều loài cây trồng phổ biến
vừa được dùng làm gia vị lại vừa có tác dụng
làm thuốc như Hương nhu tía (Ocimum
tenuiflorum L.), Húng (Ocimum basilicum L.),
Kinh giới (Elsholtzia ciliata (Thunb.) Hyl.), Tía
tô (Perilla frutescens (L.) Britton); bên cạnh đó
nhiều loài mọc tự nhiên có giá trị khai thác như
Hạ khô thảo (Prunella vulgaris L.) là vị thuốc
phổ biến trong Y học cổ truyền, một số loài
“Bạc hà” mọc tự nhiên (Agastache spp.,
Elsholtzia spp.; ) là nguồn thức ăn (phấn hoa)
cho ong mật tạo nên thương hiệu mật ong bạc
hà nổi tiếng của Hà Giang ... ngoài ra còn có 1
loài thuộc diện bảo tồn là Chùa dù (Elsholtzia
penduliflora W.W. Sm.).
Số còn lại 192 họ, mỗi họ mới chỉ ghi nhận
được từ 1 đến 19 loài cây thuốc. Trong số này,
một số họ mặc dù chỉ có vài loài, nhưng lại là
những cây thuốc rất có giá trị. Ví dụ họ Trạch tả
(Alismataceae): 1 loài là Trạch tả (Alisma
plantago-aquatica); họ Cẩu tích (Dicksoniaceae)
có 1 loài là Cẩu tích (Dicksonia barometz); họ
Bách bộ (Stemonaceae) có 1 loài là cây Bách bộ
(Stemona tuberosa); họ Mã đề (Plantaginaceae)
có 2 loài Mã đề (Plantago major) và Mã đề á
(Plantago asiatica); họ Bầu bí (Cucurbitaceae):
trong số các loài đã biết đáng chú ý nhất là loài
Dền toòng/Giảo cổ lam (Gynostemma
pentaphyllum (Thunb.) Makino) Đây là những
cây thuốc có giá trị sử dụng, kinh tế cao và rất có
tiềm năng phát triển ở tỉnh Hà Giang. Riêng họ
Taxaceae: có 3 loài trong đó 2 loài thuộc diện bảo
tồn là Dẻ tùng sọc trắng vân nam (Amentotaxus
yunnanensis H.L.Li) và Thông đỏ bắc
(Taxus wallichiana var. chinensis (Pilg.) Florin.),
loài còn lại là Dẻ tùng sọc trắng (Amentotaxus
argotaenia (Hance) Pilg.) cũng là loài hiếm gặp.
Ở bậc chi, các chi đã biết có nhiều cây thuốc
bao gồm: Chi Ficus (Moraceae) có 24 loài; chi
Ardisia (Myrsinaceae) có 13 loài; chi Polygonum
(Polygonaceae) có 12 loài; chi Smilax
(Smilacaceae) có 12 loài; chi Piper (Piperaceae)
có 11 loài, chi Solanum (Solanaceae) có 10 loài.
Các chi Alpinia (Zingiberaceae), Clematis
(Ranunculaceae), Desmodium (Fabaceae),
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81 77
Dendrobium (Orchidaceae), Cinnamomum
(Lauraceae) và đều có 9 loài/chi. Một vài họ
chỉ có 1 chi nhưng các loài đã biết có ở Hà
Giang đều có ý nghĩa về mặt đa dạng sinh học
và giá trị sử dụng, như: họ Taccaceae chỉ có 1
chi Tacca với 2 loài là Râu hùm (Tacca
chantrieri André), Hồi đầu thảo (T. Plantaginea
Drenth) và Phá lủa (Tacca subflabellata
P.P.Ling & C.T.Ting); họ Costaceae chỉ có 1
chi Costus với 2 loài Mía dò (Costus speciosus
(J.Koenig) Sm.) và Mía dò hoa gốc
(C.tonkinensis Gagnep.), hay họ Trilliaceae chỉ
có 1 chi Paris gồm 5 loài cây thuốc rất có giá
trị. Một số chi chỉ có 2-3 loài nhưng đều là
những cây thuốc có khả năng khai thác và có
giá trị bảo tồn cao: Chi Gynostemma
(Cucurbitaceae) có 3 loài đều có công dụng làm
thuốc như Giảo cổ lam (Gynostemma
pentaphyllum (Thunb.) Makino, G. Laxum
(Wall.) Cogn.), Chi Acanthopanax với 2 loài là
Ngũ gia bì gai (A. Gracilistylus W.W.Sm.) và
Ngũ gia bì hương (Acanthopanax trifoliatus
(L.) Voss) vừa có giá trị làm thuốc lại vừa
thuộc diện bảo tồn; Chi Panax với 3 loài đều có
giá trị làm thuốc cao trong đó ngoại trừ loài
Tam thất (Panax notoginseng (Burkill) F. H.
Chen) là cây thuốc trồng, 2 loài Tam thất hoang
(Panax stipuleanatus H.T.Tsai & K.M.Feng) và
Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidus Seem.) là
những cây thuốc quí hiếm cần bảo vệ.
* Một số phát hiện mới, ghi nhận bổ sung
cho hệ thực vật Việt Nam:
Trong các đợt điều tra tại Hà Giang, nhóm
nghiên cứu đã phát hiện thêm được 4 loài cây
thuốc, là những loài ghi nhận mới cho hệ thực
vật Việt Nam, gồm có:
- Trọng lâu thìa - Paris xichouensis (H. Li)
Y. H. Ji, H. Li & Z. K. Zhou phân bố tại xã Sủng
Là huyện Đồng Văn [9].
- Trọng lâu lá đốm - Paris cronquistii (Takht.)
H. Li được tìm thấy tại Sủng Là huyện Đồng
Văn [10].
- Kim ngân cựa - Lonicera
calcarata Hemsley phát hiện thấy tại Phó Bảng
huyện Đồng Văn [11].
- Qua lâu lá nguyên - Trichosanthes
truncata C. B. Clarke in J. D. Hooker được tìm
thấy tại Phó Bảng, Đồng Văn [12].
- Đáng lưu ý rằng, cả 4 loài ghi nhận mới
này đều là những loài có vùng phân bố hẹp, mới
chỉ ghi nhận được từ 1 đến 2 điểm phân bố trên
cả nước. Đây là những loài cây thuốc có giá trị
cao và là những đối tượng nằm trong diện bảo
tồn ở nước ta. Phát hiện mới này cho thấy rằng
Hà Giang có nguồn tài nguyên thực vật phong
phú và hiện còn ẩn chứa nhiều tiềm năng sinh
vật có ý nghĩa cho khoa học.
3.2. Đa dạng các loài cây thuốc theo độ cao và
các vùng rừng tập trung nhiều loài cây thuốc
tại Hà Giang
* Phân bố các loài theo độ cao:
Hà Giang là điểm cực Bắc của Việt Nam,
với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đặc biệt đã
tạo nên ở đây một khu hệ thực vật mà trong đó
không chỉ có những loài cây thuốc nhiệt đới mà
còn có nhiều loài của vùng ôn đới ấm và á nhiệt
đới núi cao. Nhiều loài có phân bố ở Hà Giang
cũng được tìm thấy ở nhiều vùng khác ở Việt
Nam nhưng ở độ cao lớn hơn như Bách xanh
(Calocedrus macrolepis Kurz.), Thông đỏ
(Taxus wallichiana var. chinensis Florin.)...
Một số loài mới chỉ có ghi nhận ở Hà Giang
như loài Hoàng liên ô rô (Mahonia bealei
(Fortune) Pynaert)... Không những thế, hai loài
thuộc chi Panax là Tam thất hoang
(P. stipuleanatus H.T.Tsai & K.M.Feng) và
Sâm vũ diệp (P. bipinnatifidus Seem.) vốn có
phân bố hẹp (Hoàng Liên Sơn - Lào Cai) cũng
được ghi nhận có tại Hà Giang trong đợt điều
tra khảo sát lần này.
- Ở độ cao từ 1.000m trở lên: bắt gặp nhiều
loài cây thuốc đặc trưng cho vùng núi cao thuộc
một số họ như: Họ Ngũ gia bì (Araliaceae):
Ngũ gia bì hương (Acanthopanax gracilistylus),
Thông thảo (Tetrapanax papyriferus), Đu đủ
rừng (Trevesia palmata), Dây thường xuân
(Hedera nepalensis); Họ Hoàng liên gai
(Berberidaceae): Hoàng liên ô rô (Mahonia
nepalensis), Hoàng liên ô rô lá dày
(M. bealei); Họ Mao lương (Ranunculaceae):
Hoàng liên bắc (Coptis chinensis), Thổ hoàng
liên (Thalictrum foliolosum)...; Họ Nữ lang
(Valerianaceae): Nữ lang (Valeriana
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81
78
hardwicki), Sì to (V. jatamansi); Họ Bách
hợp (Liliaceae): Bách hợp (Lilium brownii var.
colchesteri)...; Họ Đỗ quyên (Ericaceae): Châu
thụ (Gaultheria fragrantissima)...; Họ Hồi
(Illiciaceae): Hồi tsai (Illicium tsaii); Họ Lan
(Orchidaceae): Lan kim tuyến (Anoectochilus
roxburghii), Kim tuyến đá vôi (Anoectochilus
calcareus);
Đặc biệt trong quần hệ rừng trên đỉnh núi
đá vôi ở Phiêng Luông (Bắc Mê), Thái An và
Bát Đại Sơn (Quản Bạ) mọc tập trung nhiều
loài thuộc Ngành Thông - Hạt trần. Trong đó có
các loài đáng chú ý như: Thông tre lá dài
(Podocarpus neriifolius D. Don), Thông tre lá
ngắn (Podocarpus pilgeri Foxw.); Bách xanh
(Calocedrus macrolepis); Bách vàng
(Cupressus vietnamensis); Thiết sam đông bắc
(Tsuga chinensis); Thông đỏ (Taxus
chinensis)... Có thể nói, hiếm có nơi nào ở Việt
Nam có số loài Hạt trần tập trung như ở các
điểm này. Tuy nhiên, hầu hết các loài kể trên do
phạm vi phân bố hẹp, số lượng cá thể ít nên khả
năng khai thác hạn chế. Thậm chí có thể coi là
những loài cây thuốc quí hiếm, cần bảo vệ và
phát triển thêm ở Việt Nam.
- Ở độ cao từ 700m trở lên: Ở vành đai thấp
hơn tập trung nhiều cây thuốc á nhiệt đới và
nhiệt đới. Trong số này, những loài có thể tiếp
tục khai thác như: Chè dây (Ampelopsis
cantoniensis); Hạ khô thảo (Prunella vulgaris);
Bách bộ (Stemona tuberosa), Ngũ gia bì chân
chim (Schefflera spp.); Nga truật (Curcuma
spp.); Ngải cứu dại (Artemisia indica), Thảo
đậu khấu nam (Alpinia spp.), Giảo cổ lam
(Gynostemma spp.).
- Ở độ cao dưới 700m bắt gặp nhiều loài
cây thuốc phổ biến có khả năng khai thác như
Hy thiêm (Sigesbeckia orientalis), Thảo quyết
minh (Senna tora), Cỏ cứt lợn (Ageratum
conyzoides), Câu đằng (Uncaria spp.), Nhân
trần (Adenosma caeruleum)
* Các vùng rừng tập trung nhiều loài cây
thuốc
Cùng với sự phân bố các loài cây thuốc
theo độ cao thì ở mỗi vùng rừng khác nhau
cũng có những đặc trưng riêng với sự khác
nhau về thành phần các loài, trong đó bao gồm
cả các loài có tiềm năng khai thác và những loài
quý hiếm cần được bảo vệ. Các vùng rừng tập
trung nhiều loài cây thuốc như:
(1) Huyện Vị Xuyên: vùng rừng thuộc 2 xã
Cao Bồ và Thượng Sơn
(2) Huyện Hoàng Su Phì: vùng rừng thuộc
xã Pờ Ly Ngài và xã Hồ Thầu.
(3) Huyện Bắc Quang: vùng rừng tại thị
trấn Việt Quang, xã Đức Xuân.
(4) Huyện Xín Mần: vùng rừng tại 4 xã Nấm
Dẩn, Khuôn Lùng, Quảng Nguyên, Thu Tà.
(5) Huyện Quang Bình: vùng rừng tại 4 Bằng
Lang, Nà Khương, Tân Nam, Xuân Giang.
(6) Huyện Bắc Mê: vùng rừng tại thị trấn
Yên Phú, xã Phiêng Luông và xã Minh Sơn.
(7) Huyện Quản Bạ
Vùng Bát Đại Sơn: Nằm trên khối núi Bát
Đại Sơn thuộc địa phận 3 xã Bát Đại Sơn, Cán
Tỷ và Thanh Vân.
Vùng núi Ba tiên: Thuộc thôn Lô Thàng 2,
xã Thái An, huyện Quản Bạ. Vùng rừng này có
liên quan tới vùng Du Già (Yên Minh).
Vùng rừng thuộc địa phận thôn Lô Thàng 1
- xã Thái An và xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ.
Hiện tại rừng chỉ còn ở phần đỉnh núi.
(8) Huyện Yên Minh: vùng rừng Du Già
thuộc xã Du Già.
(9) Huyện Mèo Vạc: Thuộc xã Mèo Vạc,
kéo dài sang đến xã Lũng Pù
(10) Huyện Đồng Văn: vùng rừng thứ sinh
thuộc xã Phố Là.
3.3. Xác định các loài cây thuốc quí hiếm có
nguy cơ bị tuyệt chủng và các loài có tiềm năng
khai thác tại tỉnh Hà Giang
Kết quả điều tra đã xác định được 97 loài
cây thuốc thuộc 70 chi và 48 họ - là những cây
thuốc thuộc diện bảo tồn ở Việt Nam hiện nay
[13-16]. Trong đó đáng chú ý có 5 loài đang ở
mức cực kỳ nguy cấp - CR (Sách Đỏ Việt Nam
- 2007) gồm các loài: Hoàng liên (Coptis
chinensis Franch.), Sâm vũ diệp (Panax
bipinnatifidus Seem.), Tam thất hoang (Panax
stipuleanatus Tsai & Feng), Bách vàng
(Cupressus vietnamensis (Farjon &
T.H.Nguyên) Silba), Re hương (Cinnamomum
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81 79
parthenoxylon Meisn.). Và có tới 37 loài quý
hiếm đang ở mức nguy cấp - EN (Sách Đỏ Việt
Nam, 2007) như: Ba gạc vòng (Rauvolfia
verticillata), Bát giác liên (Podophyllum
tonkinense), Bảy lá một hoa (Paris chinensis),
Lan một lá (Nervilia fordii Schlechter), Lan
kim tuyến (Anoectochilus calcareus Aver.),
Hoàng tinh vòng (Polygonatum kingianum
Coll. ex Hemsl.), Hoàng thảo (Dendrobium
nobile var. alboluteum Huyen & Aver), Nghiến
(Excentrodendron tonkinense (Gagnep.) Chang
& Miau), Trầm hương (Aquilaria crassna
Pierre ex Lecomte), Hoàng liên ô rô (Mahonia
bealii Pynaert)... Như vậy nguồn tài nguyên cây
thuốc của tỉnh Hà Giang còn có ý nghĩa rất lớn
về đa dạng sinh học.
Đã ghi nhận được ở Hà Giang có 40
loài/nhóm loài cây thuốc đang được khai thác
thu mua phổ biến. Trong đó có đến 15 loài là
những cây thuốc thuộc diện bảo tồn (có tên
trong Sách Đỏ Việt Nam (2007), Danh lục đỏ
cây thuốc Việt Nam (2006), Nghị định 32 của
Chính phủ về hạn chế khai thác, buôn bán vì
mục đích thương mại, Danh lục đỏ IUCN...).
Để tránh tình trạng các nguồn gen quí của tỉnh
bị suy giảm và thất thoát qua biên giới, cần có
sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan quản lý
và nhiều ban ngành có liên quan.
Trong số 40 loài/nhóm loài được khai thác
phổ biến kể trên thì có 26 loài/nhóm loài được
coi là có tiềm năng khai thác, với khối lượng
ước tính từ 10 tấn/năm trở lên. Trong đó đáng
chú ý có thể kể đến Cỏ ngũ sắc (Ageratum
conyzoides L.) 100 - 150 tấn, Cẩu tích
(Cibotium barometz (L.) J.Smith) 50 - 70 tấn,
hay Nghệ vàng (Curcuma longa L.) 50 - 60 tấn.
Có thể thấy rằng, nhiều loài trước đây có
khả năng khai thác ở 4 huyện vùng cao núi đá
với khối lượng lớn như Bổ cốt toái, Bình vôi,
Hà thủ ô đỏ, Thạch hộc, Hoàng tinh, Kim
ngân... [17] thì đến nay đã không còn nằm trong
danh sách cây thuốc có khả năng khai thác của
toàn tỉnh. Thậm chí một số loài còn được đưa
vào diện bảo tồn như Hà thủ ô đỏ (Fallopia
multiflora), Thạch hộc (Dendrobium nobile),
Bổ cốt toái (D. bonii). Một số loài trước đây có
khả năng khai thác với khối lượng lớn ở 4
huyện vùng cao (1999-2000), đến nay đã suy
giảm về khối lượng khai thác trên toàn tỉnh như
Kê huyết đằng (200-300 tấn/năm giảm xuống còn
50-60 tấn/năm), Ngũ gia bì chân chim (300-500
tấn/năm giảm xuống còn 5-10 tấn/năm)... Những
loài vẫn duy trì khả năng khai thác qua nhiều năm
phần lớn là những cây thảo có phân bố rộng, khả
năng tái sinh và phục hồi sau khai thác tốt như:
Cỏ cứt lợn, Chè dây, Hy thiêm, Long nha thảo,
Nga truật, Nghệ vàng...
4. Kết luận
Qua điều tra nghiên cứu tại 84 xã và thị trấn
thuộc 11 huyện và thành phố của tỉnh Hà Giang
trong giai đoạn 2013 - 2015, cùng với tổng hợp
tư liệu từ các tài liệu đã công bố, ghi nhận được
ở Hà Giang có 1565 loài cây thuốc mọc tự
nhiên và trồng, thuộc 824 chi, 202 họ của 6
ngành, 2 giới Thực vật và Nấm. Cùng với đó đã
ghi nhận được 4 loài mới, bổ sung cho hệ thực
vật Việt Nam. Điều này cho thấy Hà Giang là
một tỉnh có sự đa dạng về tài nguyên cây thuốc
bậc nhất ở Việt Nam.
Đã xác định được đặc điểm phân bố các
loài cây thuốc theo độ cao và các vùng rừng tập
trung nhiều loài cây thuốc trên địa bàn tỉnh.
Đồng thời qua điều tra cũng xác định được 26
loài có tiềm năng khai thác và 97 loài cây thuốc
quí hiếm thuộc diện bảo tồn tại tỉnh Hà Giang.
Đây là cơ sở để định hướng cho công tác bảo
tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên
cây thuốc ở tỉnh Hà Giang.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn sự tài
trợ kinh phí của Sở Khoa học và Công nghệ
tỉnh Hà Giang để thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu, điều tra, khảo sát và xây dựng chiến
lược phát triển dược liệu tỉnh Hà Giang”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, xin trân
trọng cảm ơn sự hỗ trợ và tư vấn về chuyên
môn của 2 chuyên gia là PGS.TS. Nguyễn
Văn Tập và GS.TS. Phan Kế Lộc.
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81
80
Tài liệu tham khảo
[1] Cục thống kê tỉnh Hà Giang, Niên giám thống kê
tỉnh Hà Giang năm 2015, NXB. Thống Kê, Hà
Giang, 2015.
[2] Nguyễn Tiến Bân (chủ biên), Danh lục các loài
thực vật Việt Nam, tập 2, 3. NXB. Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ Hà Nội, 2003, 2006.
[3] Đỗ Huy Bích và cộng sự (2004 và 2013), Cây
thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam; NXB.
KH & KT, Hà Nội; T.I & T.II (2004), T.III (2013).
[4] Võ Văn Chi (2011 & 2012), Từ Điển Cây thuốc
Việt Nam; NXB. Y học, TP. Hồ Chí Minh.
[5] Viện Dược liệu, Kết quả các đợt điều tra Dược
liệu ở Việt Nam (1961-nay) (Tài liệu lưu hành
nội bộ).
[6] Viện Dược liệu Danh lục cây thuốc Việt Nam
(Tài liệu cập nhật hàng năm, lưu hành nội bộ).
[7] Viện Dược liệu, Danh lục cây thuốc mọc tự
nhiên đang được khai thác sử dụng phổ biến ở
Việt Nam (tài liệu cập nhật hàng năm, lưu hành
nội bộ), 2013.
[8] Viện Dược Liệu, Báo cáo kết quả điều tra nguồn
tài nguyên dược liệu tỉnh Hà Giang (Lưu hành
nội bộ), 1975.
[9] Nguyen Quynh Nga, Pham Thanh Huyen, Phan
Van Truong, Hoang Van Toan, Nguyen Ngoc
Cong, “Paris xichouensis (H. Li) Y. H. Ji & Z.
K. Zhou - A newly recorded species - in the flora
of Vietnam”, Journal of Medicinal Materials,
No.5, Vol.20 (2015) 264.
[10] Nguyễn Quỳnh Nga, Phạm Thanh Huyền,
Phan Văn Trưởng, Hoàng Văn Toán, Nguyễn
Xuân Nam, “Bổ sung loài Trọng lâu lá đốm -
Paris cronquistii (Takht.) H. Li cho hệ thực
vật Việt Nam”, Tạp chí Dược liệu, số 4, tập 20
(2015) 203.
[11] Hoàng Văn Toán, Phạm Thanh Huyền, Nguyễn
Quỳnh Nga, Nguyễn Xuân Nam, Phan Văn
Trưởng, “Bổ sung loài Lonicera calcarata
Hemsl. (họ Kim Ngân - Caprifoliaceae) cho hệ
thực vật Việt Nam”, Tạp chí Dược liệu, tập 18,
số 6/2013 (2013) 351.
[12] Phan Văn Trưởng, Phạm Thanh Huyền, Nguyễn
Quỳnh Nga, Hoàng Văn Toán, Nguyễn Xuân
Nam, “Nghiên cứu đặc điểm hình thái và xây
dựng khóa phân loại các loài thuộc chi Qua lâu
(Trichosanthes L.) ở Việt Nam”, Hội nghị khoa
học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật
lần thứ 6, tr. 378 - 382, NXB Khoa học Tự nhiên
và Công nghệ, Hà Nội, 2015.
[13] Văn phòng Chính phủ, Nghị định số
32/2006/NĐ-CP của Thủ tướng chính phủ,
31/3/2006; v/v Quản lý các loài Động-Thực vật
hoang dã nguy cấp quí hiếm ở Việt Nam, 2006.
[14] Triệu Văn Hùng (chủ biên) và cộng sự, Lâm sản
ngoài gỗ Việt Nam. Dự án hỗ trợ chuyên ngành
LSNG pha II xuất bản, Hà Nội, 2007.
[15] Nguyễn Tập, Danh lục Đỏ cây thuốc Việt
Nam, năm 2006; Tạp chí Dược liệu, tập 11 số
3 (2006) 97.
[16] Nguyễn Tiến Bân (chủ biên), Sách đỏ Việt Nam,
phần II: Thực vật. NXB Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ Hà Nội, 2007.
[17] Nguyễn Bá Hoạt, Nguyễn Tập, Báo cáo kết quả
đề tài Đánh giá tiềm năng dược liệu bốn huyện
vùng cao tỉnh Hà Giang - Xây dựng đề án qui
hoạch và phát triển (Bốn huyện vùng cao Đồng
Văn, Yên Minh, Mèo Vạc, Quản Bạ), 1999.
Investigational Results of Medicinal Plant Resources
in Ha Giang Province, Vietnam
Pham Thanh Huyen1, Nguyen Quynh Nga1, Phan Van Truong1,
Hoang Van Toan1, Nguyen Xuan Nam1, Nguyen Van Dan1, Pham Thi Ngoc2
1National Institute of Medicinal Materials, Ministry of Health, 3B Quang Trung, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
2VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
Abstract: Ha Giang is a province in Northeast of Vietnam. Along with the unique characteristics
of topography, geology and climate, Ha Giang province has abundant and diverse natural vegetation,
including valuable plants. For the period of 2013-2015, the research team were conducted many
P.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 73-81 81
surveys on 84 communes of 11 districts and a city in Ha Giang province. As a result, 1565 species of
medicinal plants and fungi, belonging to 824 genera, 202 families, 5 divisions of vascular plants and 1
division of fungi were recorded. At the same time, 4 new species of medicinal plants were recorded
for the flora of Vietnam including: Paris cronquistii (Takht.) H. Li; Paris xichouensis (H. Li) Y. H. Ji,
H. Li & Z. K. Zhou; Lonicera calcarata Hemsl. and Trichosanthes truncata C.B.Clarke. Besides, this
survey was recorded the forest areas concentrated many medicinal plants and listed in Ha Giang
province has currently 97 medicinal plant species subject to national-level conservation. Medicinal
plant resources of Ha Giang province are not only diverse in terms of life forms, richness of taxa but
also have great value in terms of conservation.
Keywords: Medicinal plant, resources, Ha Giang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3585_1_6440_1_10_20170103_9486.pdf