Kết luận
- Vụ Đông mức nhiễm bệnh mốc sương trên
khoai tây ở vùng ven biển, trung du và miền núi cao
hơn so với vùng trung tâm ĐBSH. Vụ Xuân mức
nhiễm bệnh mốc sương nặng đến rất nặng (mức
5 - 9) ở hầu hết các vùng trồng khoai tây chính ở các
tỉnh phía Bắc do nhiệt độ thấp 15 - 17oC và ẩm độ
đạt mức bão hòa trong thời gian 7 - 10 ngày.
- Giống Solara và Marabel đời G2-3 nhiễm bệnh
virus từ 2 - 15,5%, đời G4 nhiễm 36,4% và đời G5
nhiễm đạt 65%, giống Trung Quốc nhiễm 14 - 72%,
các giống Atlantic, Aladin và Belarosa nhiễm 11,3
- 86,3% và các giống KT2, KT3 và VC38-6 nhiễm
bệnh virus rất cao từ 78 - 100%.
- Tại các vùng trồng khoai tây có diện tích xen lẫn
các cây trồng họ bầu bí, đậu đỗ, hoa cây cảnh làm
cho mật độ rệp, nhện/bọ trĩ cao hơn so với trồng
thuần khoai tây.
- Chọn lọc quần thể cây bệnh trên khoai tây giống
làm giảm tỷ lệ bệnh virus từ 96% xuống còn 30% và
tăng năng suất 34,5%. Là một trong biện pháp quan
trọng trong sản xuất giống khoai tây.
- Phòng trừ bệnh mốc sương bằng thuốc hóa học
với 4 lần phòng trừ/vụ kể từ thời điểm phát hiện vết
bệnh đầu tiên trên đồng ruộng, năng suất tăng so
với không phun 107,6% và cao hơn so với phòng trừ
1 - 3 lần từ 8,8 - 69,5%.
- Quản lý tổng hợp (IPM) bệnh mốc sương,
virus trong sản xuất khoai tây bằng các biện pháp về
giống sạch bệnh, chọn lọc loại bỏ cây bệnh, phòng
trừ bệnh bằng thuốc hóa học hợp lý, chăm sóc đúng
quy trình canh tác sản xuất khoai tây, năng suất tăng
từ 48,6 - 51,6% so với sản xuất không áp dụng quy
trình IPM.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nghiên cứu quản lý tổng hợp (IPM) bệnh mốc sương, virus trong sản xuất khoai tây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(105)/2019
William W.W., 2007. Identification of whiteflies
(Hemiptera: Aleyzodidae) at APEC Workshop
on Whiteflies and Mealybugs in Kuala Lumpur,
Malaysia.
William D.J., 2004. Mealybugs of Southern Asia.
Southdene SPN. BHO.
Wilson, M.R. and M.F. Claridge, 1991. Handbook for
the Identification of leafhoppers and planthoppers of
rice. CABI.
Investigation of pest composition and natural enemies
on passion fruit in Vietnam in the period 2015 - 2016
Nguyen Van Tuat, Nguyen Van Liem, Le Thu Hien, Bui Thi Hai Yen,
Ha Minh Thanh, Tran Thanh Thap, Nguyen Kim Hoa, Nguyen Viet Ha
Abstract
This paper presents the investigation of key pests and diseases on passion fruit and their natural enemies in
7 locations representing 7 eco-zones of Vietnam. 12 species of insects, 9 natural enemies and 11 plant pathogens were
identified on passion fruit trees and in post-harvest condition. The list and the collection of standard samples of key
insect pests and diseases; natural enemies on passion fruit gardens and in storage were established and preserved at
PPRI museum. The database and guiding book of recognition of targeted insect pests, diseases and natural enemies,
characteristic of damage symptoms, life cycles, distribution and level of injury of passion fruit trees in the field and
storage conditions were established and used as reference for passion fruit development strategy in Vietnam.
Keywords: Passion fruit, insect pests and diseases, natural enemies, distribution
Ngày nhận bài: 4/7/2019
Ngày phản biện: 17/7/2019
Người phản biện: TS. Trần Thị Mỹ Hạnh
Ngày duyệt đăng: 9/8/2019
1 Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Cây có củ, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ TỔNG HỢP (IPM)
BỆNH MỐC SƯƠNG, VIRUS TRONG SẢN XUẤT KHOAI TÂY
Trịnh Văn Mỵ1, Đỗ Thị Bích Nga1, Nguyễn Thị Thu Hương1,
Nguyễn Thị Nhung1, Ngô Thị Huệ1
TÓM TẮT
Bệnh mốc sương và virus là những dịch hại nguy hiểm trong sản xuất khoai tây ở các tỉnh phía Bắc. Bệnh mốc
sương có thể bùng phát thành dịch trên diện tích lớn khi nhiệt độ 15 - 17oC và ẩm độ đạt 95 - 100% trong thời gian
7 - 10 ngày và tỷ lệ nhiễm bệnh virus tăng lên qua các đời của giống trong sản xuất. Ở các giống khoai tây Solara và
Marabel đời G2-3 là 2 - 15%, đời G4 là 36,4% và đời G5 là 65%, giống Trung Quốc là 14 - 72%; ở các giống Atlantic,
Aladin và Belarosa là 11,3 - 86,3% và các giống KT2, KT3, VC38-6 là 78 - 100%. Trên đồng ruộng trồng khoai tây xen
với các cây trồng khác như dưa chuột, bầu bí, các loại đậu đỗ (cô ve, cô bơ) sẽ phát triển môi giới truyền bệnh virus
như rệp, bọ trĩ, nhện cao hơn các ruộng trồng thuần khoai tây. Biện pháp chọn lọc quần thể cây bệnh virus trong sản
xuất khoai tây làm giảm bệnh virus từ 96% xuống còn 30% sau một năm chọn lọc và làm tăng năng suất 34,5%. Biện
pháp phòng chống bệnh mốc sương bằng thuốc hóa học đã làm tăng sản lượng đến 107,6% so với không phòng trừ
chỉ đạt 8,8 - 69,5%. Mô hình sản xuất khoai tây bằng phối hợp các biện pháp về sử dụng giống sạch bệnh, phòng trừ
bệnh mốc sương đúng cách, thời vụ thích hợp, loại bỏ ký chủ truyền bệnh mốc sương, virus (IPM) làm tăng năng
suất khoai tây từ 48,6 - 51,6% so với đại trà không áp dụng biện pháp IPM.
Từ khóa: Khoai tây, bệnh mốc sương, virus, môi giới truyền bệnh, hóa học, IPM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những hạn chế về năng suất và mở rộng diện tích
sản xuất khoai tây hiện nay ở các tỉnh phía bắc do
một số yếu tố về giống và các loại dịch hại như bệnh
mốc sương, héo xanh vi khuẩn, bệnh nấm hại trên
thân lá, củ trên đồng ruộng và trong kho bảo quản.
Trong đó bệnh mốc sương là bệnh quan trọng nhất
dễ phát triển thành dịch nguy hiểm cho sản xuất
khoai tây các tỉnh phía Bắc.
32
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(105)/2019
Các đối tượng rệp, nhện và bọ trĩ gây hại trên
khoai tây làm ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển
và giảm năng suất trực tiếp của khoai tây với mật độ
cao và là môi giới truyền bệnh virus cho khoai tây
theo 2 phương thức cơ học và sinh học gây thoái hóa
giống và giảm năng suất qua các năm.
Vì vậy, nghiên cứu biện pháp quản lý tổng hợp
(IPM) bệnh mốc sương, virus trong sản xuất khoai
tây dựa trên những hiểu biết về sự phát triển của
bệnh mốc sương, virus, các đối tượng môi giới
truyền bệnh virus, sử dụng giống sạch bệnh, thử
nghiệm phòng trừ bệnh mốc sương bằng thuốc hóa
học, loại bỏ bệnh virus trên đồng sản xuất giống để
xây dựng quy trình quản lý tổng hợp (IPM) bệnh
mốc sương, virus khoai tây là rất cần thiết trong sản
xuất khoai tây hiện nay.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Các giống khoai tây đang trồng phổ biến trong
sản xuất: Solara (đời G1 đến G4), Marabel (đời G1
đến G4), KT2, KT3, VC 38-6 (đời G10 đến G15),
Trung Quốc, Bellarosa, Atlantic, Aladin (đời G3-
đến G5).
- Giống khoai tây sạch bệnh được sản xuất trong
nhà khí canh (đời G1).
- Thuốc phòng trừ bệnh mốc sương: Aliete
800WG, Cruzate M8-32WP, Vidoc 30BTN.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra: Bệnh mốc sương, virus
và môi giới truyền bệnh virus (rệp, nhện, bọ trĩ)
trên các giống khoai tây tại các vùng sinh thái sản
xuất khoai tây chính theo International Potato
Center (1971-1995) và Quy chuẩn kỹ thuật Quốc
gia QCVN 01-38:2010/BNNPTNT của Bộ Nông
nghiệp và PTNT.
Phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây
trồng thì phân cấp sâu, bệnh trên lá theo 9 cấp với
các mức sau:
Bệnh mốc sương theo thang điểm 1- 9 cấp như
sau: Cấp 1: < 1% diện tích lá bị hại; cấp 3: 1 đến 5%
diện tích lá bị hại; cấp 5: > 5 đến 25% diện tích lá bị
hại; cấp 7: > 25 đến 50% diện tích lá bị hại; cấp 9:
> 50% diện tích lá bị hại.
Rệp, nhện, bọ trĩ theo thang điểm 1-9 cấp như
sau: Cấp 1: không bị nhiễm (rệp, nhện, bọ trĩ);
cấp 3: nhẹ (phân bố dưới 1/3 số lá/ khóm); cấp 5:
trung bình (phân bố trên 1/3 số lá/ khóm); Cấp 7:
nặng (phân bố 1/2 số lá/khóm); Cấp 9: rất nặng
(phân bố trên 1/2 số lá/khóm).
Bệnh virus: điều tra, đánh giá theo tỷ lệ (%) khóm
bị nhiễm/m2.
- Phương pháp chọn lọc quần thể cây bệnh virus
được chọn theo Roger Cortbaoui (1984) và Siert G.
Wiersema (1987). Chọn lọc 3 - 4 lần/vụ vào giai
đoạn khoai tây sinh trưởng 30 - 60 ngày sau trồng.
- Phương pháp thử nghiệm phòng chống bệnh
mốc sương bằng thuốc hóa học: Thí nghiệm được
thiết kế theo 5 công thức sau: Phun 1 lần; 2 lần; 3 lần;
4 lần/vụ và đối chứng không phun, phòng trừ bệnh
mốc sương tại các giai đoạn ngày sau trồng: 57 - 64 -
71 - 78 ngày (Quốc Cường, 2010).
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong vụ Đông, vụ
Xuân các năm 2013 - 2015 tại Hà Nội, Bắc Ninh, Thái
Bình, Nam Định, Bắc Giang, Lạng Sơn và Cao Bằng.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả điều tra, thu thập thông tin về cơ cấu
giống khoai tây và số liệu khí tượng tại 4 vùng sinh
thái thuộc 7 tỉnh sản xuất khoai tây ở phía Bắc
Nhiệt độ và ẩm độ từ tháng 10 tháng 4 năm 2012
- 2013 và 2014 theo số liệu khí tượng như sau: từ
tháng 10 đến tháng 1 nhiệt độ giảm dần từ 28 - 29oC
xuống còn 18 - 20oC và thấp nhất vào tháng 4 nhiệt
độ 10 - 15oC sau đó tăng dần lên 20 - 21oC vào tháng
4. Ẩm độ giảm dần từ tháng 10 từ 80 - 85% xuống
còn 70 - 75% vào giữa tháng 1 sau đó tăng lên trong
các tháng 1,2,3 và 4 đạt ẩm độ bão hòa 100%.
Các giống khoai tây được sản xuất trong vụ Đông
tại 4 vùng sinh thái phổ biến là Solara và Marabel,
ngoài ra tại Hà Nội và các tỉnh Bắc Ninh, Nam Định
còn diện tích đáng kể các giống KT2, KT3 và giống
Trung Quốc và diện tích nhỏ giống VC38-6 tại Vụ
Bản, Nam Định.
Chất lượng giống trong sản xuất qua điều tra cho
thấy các giống Solara và Marabel trong vụ Đông chủ
yếu sử dụng giống các đời G2 đến G3 là chủ yếu, đời
G4-5 diện tích nhỏ hơn, các giống khoai tây KT2,
KT3 và VC38-6 tồn tại khá lâu trên 10 năm trong sản
xuất, giống Trung Quốc không rõ nguồn gốc về tên
giống cũng như chất lượng củ giống, giống Atlantic
và Bellarosa, Aladin cũng tồn tại một số năm trong
sản xuất. Các giống sản xuất trong vụ Xuân chủ yếu
2 giống Solara và Marabel đời G1.
33
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(105)/2019
3.2. Kết quả điều tra bệnh mốc sương trên các giống
khoai tây trong sản xuất tại các vùng sinh thái
Bệnh mốc sương gây hại trên khoai tây phát triển
nhanh thành dịch hại nguy hiểm trong điều kiện
nhiệt độ 15 - 17o C và ẩm độ từ trên 95% đến bão
hòa trong thời gian 7 - 10 ngày kể từ khi phát hiện ổ
dịch đầu tiên.
Nguồn bệnh mốc sương có trong củ giống và
bệnh cũng luôn tồn tại trong tự nhiên dưới dạng bào
tử và ký sinh trên các cây ký chủ có mặt trên đồng
ruộng và sự phát triển của bệnh liên quan chặt chẽ
đến nhiệt và ẩm độ của thời vụ sản xuất khoai tây.
Kết quả điều tra bệnh mốc sương tại các vùng
sinh thái sản xuất khoai tây của 7 tỉnh đại diện cho
vùng thấp, vùng ven biển, vùng trung du và miền
núi trình bày tại bảng 1.
Bảng 1. Kết quả điều tra bệnh mốc sương của khoai tây trong sản xuất
vụ Đông 2012 - 2013 và Xuân 2013 - 2014 tại các vùng sinh thái
Vùng sinh thái/
tỉnh/ huyện
điều tra
Giống
Mốc sương (1 - 9)*
Vụ Đông Vụ Xuân
2012 2013 2013 2014
30 - 45
NST
60 - 75
NST
30 - 45
NST
60 - 75
NST
45 - 60
NST
60 - 75
NST
45 - 60
NST
60 - 75
NST
Vùng trung tâm ĐBSH
Hà Nội
(Thạch Thất,
Thường Tín)
và Bắc Ninh
(Quế Võ,
Yên Phong)
Solara G2-3 3 3 - 5 0 - 3 3
Marabel G2-3 3 0 - 3 3
KT2 3 5 3 3
KT3 3 5 0 3
Trung Quốc 3 3 0
Solara G1 3 7 3 5 - 9
Marabel G1 3 7 3 5 - 9
Vùng ven biển
Thái Bình
(Vũ Thư,
Kiến Xương)
và Nam Định
(Ý Yên, Vụ Bản)
Soalra G2-4 3 5 3 2 - 5
Marabel G2 3 5 3 5
Bellarosa - - 3 3
KT3 3 5 3 3
VC-38-6 1 3 3 3
Trung Quốc 1 3 - 5 3 5
Solara G1 1 3 3 9
Marabel G1 1 3 3 9
Vùng Trung du phía Bắc
Bắc Giang
(TP. Bắc Giang,
Hiệp Hòa)
Solara G2-3 3 5 3 3
Marabel G2 3 5 3 3
Atlantic 3
Trung Quốc 3 5
Solara G1 3 5 5 9
Marabel G1 3 5 5 9
Vùng cao phía Bắc
Lạng Sơn
(Cao lộc,
Lộc Bình)
và Cao Bằng
(Hòa An,
Trà Lĩnh)
Solara G2-4 3 5
Marabel G2-5 3 5 3 5
Atlantic 3 3
Aladin 3
Solara G1 3 5 3 9
Marabel G1 3 5 3 9
Ghi chú: Mốc sương (1 - 9)*: mức 1- không bị nhiễm bệnh; mức 9 - 100% diện tích tán lá bị nhiễm bệnh (rất nặng).
34
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(105)/2019
Bệnh mốc sương ở vụ Đông các năm 2012 - 2013:
Do nền nhiệt độ và ẩm độ từ tháng 10 đến giữa
tháng 1 năm sau không thích hợp cho bệnh mốc
sương phát triển nên giai đoạn sinh trưởng sau trồng
30 - 45 ngày ở mức nhẹ (mức 3) và giai đoạn sau
trồng 65 - 70 ngày mức nhiễm nhẹ tại vùng ĐBSH
(mức 3) và mức nhiễm nhẹ đến trung bình tại vùng
ven biển và trung, miền núi phía Bắc (mức 3 - 5).
Với mức nhiễm nhẹ đến trung bình vào giai đoạn
70 ngày sau trồng nên ảnh hưởng đến sinh trưởng
và giảm năng suất khoai tây vụ Đông không bị ảnh
hưởng nhiều.
Bệnh mốc sương ở vụ Xuân các năm 2013 - 2014:
Khoai tây sản xuất vụ Xuân 2013 - 2014 tại 7 tỉnh của
4 vùng sinh thái chủ yếu giống Solara và Marabel,
thời gian trồng chủ yếu vào cuối tháng 12, thu hoạch
cuối tháng 3 đầu tháng 4, trong thời gian có nền
nhiệt độ thấp và ẩm độ cao liên tục trong thời gian
nhiều ngày. Do vậy, mức nhiễm bệnh mốc sương
trên các giống khoai tây từ trung bình đến rất nặng
(mức 5 - 9), mức nhiễm trung bình ở diện tích nhỏ
do khoai tây được phòng trừ bệnh mốc sương có
hiệu quả bởi các lần thuốc bảo vệ thực vật đặc hiệu
trừ bệnh mốc sương. Do đó, bệnh ảnh hưởng đến
sinh trưởng phát triển và năng suất của khoai tây vụ
Xuân là rất lớn.
3.3. Kết quả điều tra bệnh và môi giới truyền bệnh
virus trên khoai tây sản xuất vụ Đông 2012 - 2013
tại vùng sinh thái trồng khoai tây chính
Sự phát triển quần thể của các đối tượng rệp,
nhện và bọ trĩ phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ dinh
dưỡng của cây trồng và các điều kiện nhiệt ẩm độ
của môi trường. Điều kiện phát triển thành dịch của
rệp hại khi khoai tây đang giai đoạn phát triển thân
lá, nhiệt độ mát từ 18 - 22oC và ẩm độ thích hợp 80
- 85%, trong khi đó sự phát triển quần thể của nhện
và bọ trĩ cùng ở điều kiện nhiệt độ cao trên 25oC và
ẩm độ thấp 60 - 70%.
Bảng 2. Kết quả điều tra bệnh và môi giới truyền bệnh virus
của khoai tây trong sản xuất vụ Đông 2012 - 2013 tại các vùng sinh thái
Vùng sinh thái/
tỉnh/ huyện
điều tra
Giống
Rệp (1 - 9) Nhện/bọ trĩ (1 - 9) Virus (%)
2012 2013 2012 2013 2012 2013
60 NST 60 NST 75 NST 75 NST 60 NST 60 NST
Vùng trung tâm ĐBSH
Hà Nội (Thạch Thất,
Thường Tín) và
Bắc Ninh (Quế Võ,
Yên Phong)
Solara G2-3 3 - 5 3 - 5 5-7 5 - 7 2 - 11,2 4 - 15
Marabel G2-3 3 - 5 3 - 5 5-7 5 - 7 3,3 - 8,6 4 - 11
KT2 3 - 5 3 - 5 5-7 5 - 7 78,0 100,0
KT3 3 - 5 3 - 5 5-7 5 - 7 65,0 92,0
Trung Quốc 3 - 5 3 - 5 5-7 5 - 7 - 72,0
Vùng ven biển
Thái Bình (Vũ Thư,
Kiến Xương) và
Nam Định (Ý Yên,
Vụ Bản)
Soalra G2-4 3 3 - 5 3 1 - 3 8,5 - 10,3 1 - 30
Marabel G2 3 3 - 5 3 1 - 3 7,7 - 14,7 -
Bellarosa 3 3 - 5 3 1 - 3 - 11,3
KT3 3 3 - 5 3 1 - 3 65,3 86,3
VC-38-6 3 3 - 5 3 1 - 3 55,0 78,0
Trung Quốc 3 3 - 5 3 1 - 3 89,0 40,0
Vùng Trung du phía Bắc
Bắc Giang (TP. Bắc
Giang, Hiệp Hòa)
Solara G2-3 3 3 3 3 9,0 15,5
Marabel G2 3 3 3 3 7,7 15,5
Atlantic 3 3 3 3 - 11,3
Trung Quốc 3 3 3 3 86,7 -
Vùng cao phía Bắc
Lạng Sơn (Cao lộc,
Lộc Bình) và
Cao Bằng (Hòa An,
Trà Lĩnh)
Solara G2-4 1 - 3 1 1 1 - 3 - 36,4
Marabel G2-5 1 - 3 1 1 1 - 3 5,6 65,0
Atlantic 1 - 3 1 1 1 - 3 - 5 - 40
Aladin 1 - 3 1 1 1 - 3 3 20,0
Trung Quốc 1 - 3 1 1 1 - 3 20 - 92 14 - 33,5
35
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(105)/2019
Kết quả điều tra bệnh và môi giới truyền bệnh
virus vụ Đông 2012 - 2013 được trình bày tại bảng 2.
Mức gây hại của rệp ở vụ Đông 2012 - 2013 trên các
giống khoai tây tại các tỉnh thuộc vùng trung tâm
ĐBSH mức hại nhẹ đến trung bình (mức 3 - 5).
Vùng ven biển, trung du và vùng cao phía Bắc ở mức
hại nhẹ đến trung bình (mức 1 - 3) và vùng cao quần
thể rệp thấp mức gây hại nhẹ hoặc nếu có ở mật độ
rất thấp (mức 1) không ảnh hưởng đến sinh trưởng
phát triển của khoai tây vụ Đông.
Nhện và bọ trĩ gây hại ở mức nhẹ vào giai đoạn
phát triển củ (sau trồng 75 ngày) (mức 3) tại các
vùng ven biển, trung du và vùng cao phía bắc. Tại
vùng trung tâm ĐBSH mức hại trung bình đến khá
nặng (mức 5 - 7), trong đó mức hại nặng ở tỉnh Bắc
Ninh do vùng trồng khoai tây có mặt nhiều loại cây
trồng cạn sớm như các loại đậu cô ve, cô bơ, đậu
đũa, bầu bí, hoa các loại là các ký chủ thích hợp cho
nhện và bọ trĩ phát triển.
Kết quả điều tra bệnh virus trên các giống khoai
tây tại các vùng sinh thái cho thấy mức độ nhiễm
bệnh virus phụ thuộc vào rõ rệt với chất lượng
giống. Nhóm giống chất lượng Solara và Marabel đời
G2-3 mức nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh virus từ
2 - 15,5%, đời G4 mức nhiễm 36,4% và đời G5 mức
nhiễm đạt 65%, giống Trung Quốc phụ thuộc vào
chất lượng giống nhập hàng năm có mức nhiễm đạt
14 - 72%, các giống Atlantic, Aladin, Belarosa duy
trì qua một số năm mức nhiễm 11,3 - 86,3% và các
giống KT2, KT3 và VC38-6 duy trì trong sản xuất
trong thời gian dài nên có mức nhiễm bệnh virus rất
cao từ 78 - 100%.
3.4. Kết quả chọn lọc quần thể bệnh virus trên
khoai tây giống KT3
Kết quả chọn lọc quần thể bệnh virus trên giống
KT3 được trình bày tại bảng 3, cho thấy qua chọn lọc
những khóm khoai tây nhiễm nhẹ bệnh virus từ sản
xuất đại trà để làm giống cho vụ trồng sau. Giống
khoai tây được chọn lọc sinh trưởng phát triển tốt có
chiều cao cây trung bình đạt 50 cm, trong cây trồng
trong đại trà có chiều cao cây là 42 cm, tỷ lệ khóm bị
nhiễm nhẹ bệnh virus là 30% so với đại trà là 96%,
năng suất đạt 19,5 tấn/ha tăng so với đại trà 34,5%
và tỷ lệ củ thương phẩm có giá trị cao đạt 60% so với
đại trà chỉ đạt 35%.
Bảng 3. Kết quả chọn lọc quần thể bệnh virus trên khoai tây giống KT3
Giống Cao cây(cm)
Virus
(%)
Mốc
sương
(1 - 9)
Năng suất Tỉ lệ cỡ củ (%)
Tấn/ha So với đ/c (%) > 5 cm 3 - 5 cm < 3 cm
KT3 chọn lọc 50 30 3 19,5 134,5 60 37 3
KT3 đại trà 42 96 3 14,5 100,0 35 60 5
3.5. Kết quả thử nghiệm phòng trừ bệnh mốc
sương bằng thuốc hóa học trên khoai tây, vụ
Xuân 2015
Phòng trừ bệnh mốc sương được thử nghiệm
trên 4 công thức với 2 loại thuốc đặc hiệu là Alite
800 WG và Cruzate-M8 32 WP tại 2 thời vụ Xuân
2014 và 2015.
Bảng 4. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của khoai tây
trên các công thức phòng trừ bệnh mốc sương bằng thuốc hóa học, vụ Xuân 2014 - 2015
Biện pháp
(Số lần
phun/CT)
Mức nhiễm
bệnh mốc
sương (1 - 9)*
85 NST
Số củ/
khóm
Năng suất và yếu tố cấu thành năng suất
Năng suất (tấn/ha) Tỉ lệ cỡ củ (%)
2014 2015 So với không phun (%) > 5 cm 3 - 5 cm < 3 cm
F1 (1 lần) 7 5,1 7,75 8,62 108,8 1,6 87,9 10,5
F2 (2 lần) 5 5,6 8,09 10,92 126,4 3,3 87,2 9,5
F3 (3 lần) 5 6,6 13,69 11,81 169,5 6,2 86,6 7,2
F4 (4 lần) 3 6,8 17,22 14,00 207,6 11,5 83,0 5,5
F5 (0 lần) 9 5,3 7,40 7,64 100,0 0,7 88,9 10,4
CV (%) 11,3 6,6
LSD0,05 2,29 1,31
36
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(105)/2019
Kết quả thử nghiệm được trình bày tại bảng 4
cho thấy với 4 lần phun phòng trừ bệnh mốc sương
từ khi phát hiện vết bệnh đầu tiên trên đồng ruộng,
khoai tây bị nhiễm nhẹ (mức 3) tại giai đoạn sinh
trưởng sau trồng 85 ngày và đạt năng suất cao nhất
17,22 tấn/ha năm 2014 và 14,0 tấn/ha năm 2015 tăng
so với không phun 107,6%. Trong đó, các công thức
phòng trừ 1 - 3 lần năng suất tăng so với đối chứng
từ 8,8 - 69,5%.
3.6. Kết quả nghiên cứu quản lý tổng hợp (IPM)
bệnh mốc sương, virus của mô hình sản xuất tại
một số vùng sinh thái, vụ Xuân 2015
Mô hình quản lý tổng hợp (IPM) bệnh mốc
sương, virus trong sản xuất khoai tây với nguồn
giống sử dụng trong và ngoài mô hình là giống sạch
bệnh không bị nhiễm bệnh virus, bệnh mốc sương
và các bệnh khác. Việc phòng trừ bệnh mốc sương
trong mô hình được thực hiện theo kết quả thử
nghiệm phòng trừ bệnh mốc sương bằng thuốc hóa
học, chọn lọc loại cây bị bệnh tại giai đoạn sau trồng
40 - 60 ngày, chon thời vụ có điều kiện khí tượng
không thích hợp cho rệp, nhện và bọ trĩ phát triển.
Tưới nước đủ ẩm, bón phân cân đối đủ cho khoai
tây sinh trưởng phát triển đúng thời thời gian sinh
trưởng và hạn chế sự phát triển của nhện/bọ trĩ.
Kết quả quản lý tổng hợp (IPM) bệnh mốc sương,
virus của mô hình sản xuất khoai tây tại một số vùng
sinh thái vụ Xuân 2015 được trình bày tại bảng 5.
Kết quả cho thấy điều kiện vụ Xuân 2015 nhiệt
độ và ẩm độ thích hợp cho bệnh mốc sương phát
triển, vì thế, trên diện tích đại trà khoai tây bị nhiễm
bệnh mốc sương từ mức trung bình đến rất nặng
(mức 5 - 9), sức sống của khoai tây trung bình (mức 3)
và năng suất chỉ đạt 48,6 - 51,6% so với mô hình IPM.
Bảng 5. Kết quả quản lý tổng hợp (IPM) bệnh mốc sương, virus
của mô hình sản xuất khoai tây tại một số vùng sinh thái, vụ Xuân 2015
Địa điểm Mô hình IPM
Sức sống
( 1 - 5)*
Virus
(%)
Mốc sương
(1 - 9)
Năng suất
( tấn/ha)
Năng suất
so với đ/c (%)
Thái Bình
IPM 5 0 1-3 15,5 100,0
SX đại trà (đ/c) 3 0 5-9 8,0 51,6
Lạng Sơn
IPM 5 0 1-3 15,0 100,0
SX đại trà (đ/c) 3 0 5-9 7.3 48,6
Hà Nội
IPM 5 0 1-3 16,5 100,0
SX đại trà (đ/c) 3 0 5-9 8,5 51,5
Ghi chú: Sức sống (1 - 5)*, trong đó 1- sức sống rất kém; 5- sức sống rất tốt.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Vụ Đông mức nhiễm bệnh mốc sương trên
khoai tây ở vùng ven biển, trung du và miền núi cao
hơn so với vùng trung tâm ĐBSH. Vụ Xuân mức
nhiễm bệnh mốc sương nặng đến rất nặng (mức
5 - 9) ở hầu hết các vùng trồng khoai tây chính ở các
tỉnh phía Bắc do nhiệt độ thấp 15 - 17oC và ẩm độ
đạt mức bão hòa trong thời gian 7 - 10 ngày.
- Giống Solara và Marabel đời G2-3 nhiễm bệnh
virus từ 2 - 15,5%, đời G4 nhiễm 36,4% và đời G5
nhiễm đạt 65%, giống Trung Quốc nhiễm 14 - 72%,
các giống Atlantic, Aladin và Belarosa nhiễm 11,3
- 86,3% và các giống KT2, KT3 và VC38-6 nhiễm
bệnh virus rất cao từ 78 - 100%.
- Tại các vùng trồng khoai tây có diện tích xen lẫn
các cây trồng họ bầu bí, đậu đỗ, hoa cây cảnh làm
cho mật độ rệp, nhện/bọ trĩ cao hơn so với trồng
thuần khoai tây.
- Chọn lọc quần thể cây bệnh trên khoai tây giống
làm giảm tỷ lệ bệnh virus từ 96% xuống còn 30% và
tăng năng suất 34,5%. Là một trong biện pháp quan
trọng trong sản xuất giống khoai tây.
- Phòng trừ bệnh mốc sương bằng thuốc hóa học
với 4 lần phòng trừ/vụ kể từ thời điểm phát hiện vết
bệnh đầu tiên trên đồng ruộng, năng suất tăng so
với không phun 107,6% và cao hơn so với phòng trừ
1 - 3 lần từ 8,8 - 69,5%.
- Quản lý tổng hợp (IPM) bệnh mốc sương,
virus trong sản xuất khoai tây bằng các biện pháp về
giống sạch bệnh, chọn lọc loại bỏ cây bệnh, phòng
trừ bệnh bằng thuốc hóa học hợp lý, chăm sóc đúng
quy trình canh tác sản xuất khoai tây, năng suất tăng
từ 48,6 - 51,6% so với sản xuất không áp dụng quy
trình IPM.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm thực hiện đề tài “Nghiên cứu quản lý
tổng hợp (IPM) bệnh mốc sương, virus trong sản
37
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(105)/2019
xuất khoai tây”, xin cám ơn Trung tâm Nông nghiệp
Quốc tế Hàn Quốc tại Việt Nam (KOPIA) và Ban
Quản lý dự án KOPIA Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010. QCVN 01-38:2010/
BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về phương
pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng.
Quốc Cường, 2010. Cẩm nang hướng dẫn quản lý thuốc
BVTV, phân bón ở Việt Nam - Danh mục thuốc BVTV
được phép sử dụng, hạn chế và cấm sử dụng. NXB Lao
động, 2010.
International Potato Center, 1971-1995: Major Potato
Desease, Insects and Nematodes.
Roger Cortbaoui, International Potato Center, 1984.
Roguing Potato.
Siert G. Wiersema, CIP, 1987. Effect of stem density on
Potato Production.
Study on IPM for late blight and virus in potato production
Trinh Van My, Do Thi Bich Nga, Nguyen Thi Thu Huong,
Nguyen Thi Nhung, Ngo Thi Hue
Abstract
Late blight and viruses are dangerous diseases in potato production in Northern provinces. Late blight can break
out at temperature of 15 - 17oC and humidity of 95 - 100% from 7 to 10 days. The virus disease has increased over
potato generations (G) in production. The ratio of virus infection in the Solara and Marabel varieties of second
and third generations (G2-3) reached 2 - 15%; G4 36.4% and G5 65%, respectively. This figure on Atlantic, Aladin
and Belarosa varieties was 11.3 - 86.3% and in KT2, KT3, VC38-6 varieties was 78 - 100% in production. On the
field, potato intercropped with other crops such as cucumbers, beans, pests vectors such as aphids, thrips, spiders
occurred higher than on monocrop field. Mass selection of potato reduced virus disease from 96% to 30% after the
first year and increased productivity by 34.5%. The control of late blight by chemical increased the yield to 107.6%
compared to non-control by 8.8 - 69.5%. IPM (seed of free disease, season, chemicals) could increase potato yield
from 48.6 to 51.6%.
Keywords: Potato, late blight, virus, chemical, IPM
Ngày nhận bài: 4/7/2019
Ngày phản biện: 11/7/2019
Người phản biện: TS. Trương Công Tuyện
Ngày duyệt đăng: 9/8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_nghien_cuu_quan_ly_tong_hop_ipm_benh_moc_suong_virus.pdf