Kết quả phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh dưới đòn cùng bên trong bằng ống ghép mạch máu PTFE
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có tử
vong, chỉ có 2 trường hợp (9,5%) có biến chứng
nhẹ.
Một trong những vấn đề cần nghiên cứu
trong phẫu thuật cầu nối động mạch là việc chọn
lựa ống ghép làm cầu nối. Trong cả 16 trường
hợp phẫu thuật phục hồi lưu thông động mạch
dưới đòn chúng tôi sử dụng ống PTFE thay thế
mạch máu.
Theo AbuRahma và cs.( 1) PTFE cho kết quả
lâu dài tốt nhất so với ống Dacron và tĩnh mạch
tự thân khi làm cầu nối động mạch cảnh dưới
đòn. Tỉ lệ ống ghép còn thông sau 5 năm là
95,2% cho ống PTFE, 83,9% cho ống Dacron, và
64,8% cho tĩnh mạch tự thân.
Kết quả lâu dài của cầu nối động mạch cảnh
– dưới đòn trái cùng bên rất khả quan, tỉ lệ bệnh
nhân không còn triệu chứng lâm sàng sau 1, 3, 5,
10 năm lần lượt là: 100%, 96%, 82%, và 47%.(8,12)
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1
trường hợp bị tắc ống ghép sau 3 tháng, các
trường hợp khác ống ghép vẫn thông tốt qua
thời gian theo dõi từ 7 tới 120 tháng.
Cần lưu ý những bệnh nhân có bệnh mạch
vành đã mổ cầu nối động mạch vành khi có hội
chứng lấy cắp máu của động mạch dưới đòn có
the gây cơn đau thắt ngực(3).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 146 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh dưới đòn cùng bên trong bằng ống ghép mạch máu PTFE, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 295
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẦU NỐI ĐỘNG MẠCH CẢNH DƯỚI ĐÒN
CÙNG BÊN TRONG BẰNG ỐNG GHÉP MẠCH MÁU PTFE
Đỗ Kim Quế*, Nguyễn Đỗ Nhân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh dưới đòn cùng bên là phương pháp điều trị hiệu quả cho
những trường hợp hẹp động mạch dưới đòn, hoặc động mạch cảnh đơn độc. Phẫu thuật này còn ít được áp dụng
tại việt nam do tính chất hiếm gặp của bệnh lý các nhánh của cung động mạch chủ.
Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá kết quả trước mắt cũng như lâu dài của phẫu thuật cầu
nối động mạch cảnh dưới đòn cùng bên trong điều trị hẹp động mạch dưới đòn đơn thuần.
Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ bệnh nhân bị hẹp động mạch dưới đòn đơn độc được phẫu thuật cầu nối
động mạch cảnh dưới đòn cùng bên tại bệnh viện Thống nhất trong thời gian 10 năm từ 2004 - 2014.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu. Đánh giá các đặc điểm về tuổi, giới tính, biểu hiện lâm sàng. Chẩn
đoán thương tổn dựa trên siêu âm Doppler và X quang động mạch. Phẫu thuật cầu nối động mạch dưới đòn
cùng bên với ống ghép PTFE 6 mm cho những trường hợp tắc động mạch dưới đòn hoặc tắc động mạch cảnh
chung có triệu chứng lâm sàng và không có chỉ định can thiệp nội mạch. Đánh giá kết quả dựa trên lâm sàng và
siêu âm doppler động mạch và MS CT động mạch khi xuất viện, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm sau mổ.
Kết quả: Trong thời gian từ 1/2004 đến 1/2014 chúng tôi đã thực hiện phẫu thuật cầu nối cảnh dưới đòn
cùng bên cho 14 trường hợp tắc động mạch dưới đòn trái và 2 trường hợp hẹp động mạch cảnh chung. Tất cả các
trường hợp đều được gây mê nội khí quản. Đường mổ trên xương đòn trái 5 cm. Cắt cơ bậc thang. Động mạch
cảnh chung được kẹp thành bên và ống ghép được khâu nối tận bên với động mạch cảnh chung với chỉ prolene 6-
0 mũi liên tục. Ống ghép luồn sau tĩnh mạch cảnh trong, và khâu nối với động mạch dưới đòn. Tất cả các trường
hợp đều hết triệu chứng lâm sàng sau mổ. Không tử vong, không biến chứng nặng sau mổ. Tụ máu vùng mổ 1
trường hợp. Theo dõi từ 7 tháng – 120 tháng có 1 trường hợp tắc cầu nối sau 3 tháng, các trường hợp còn lại
trong tình trạng ổn định.
Kết luận: Phẫu thuật cầu nối cảnh dưới đòn cùng bên với ống ghép PTFE là một phẫu thuật an toàn và
hiệu quả trong điều trị hẹp động mạch dưới đòn hoặc hẹp động mạch cảnh chung đơn độc.
Từ khoá: Hẹp động mạch dưới đòn, hẹp động mạch cảnh, Cầu nối động mạch cảnh dưới đòn.
ABSTRACT
LONG TERM RESULTS OF CAROTIDOSUBCLAVIAN ARTERY BYPASS
Do Kim Que, Nguyen Do Nhan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 295-299
Background: Carotidosubclavian bypass with PTFE graft is the best of choice operation for single
subclavian or carotid artery stenosis. This operation is uncommon in Vietnam. The purpose of this study was
review our experience with carotidosubclavian artery bypass for treatment of subclavian artery stenosis or
common carotid stenosis.
Methods: Prospective. Eveluate the clinical characteristics of stenosis of the subclavian artery. Diagnosis
was based on Duplex scanning and angiography. Ipsilateral carotidosubclavian bypass were performed for all of
* Bệnh viện Thống Nhất
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Đỗ Kim Quế ĐT: 0913977628 Email: dokimque@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 296
cases.
Result: From 1/2004 to 1/2014, 16 ipsilateral carotidosubclavian bypass were done in Thong nhat hospital.
14 of cases have total occlusion of the suclavian artery, 2 cases had common carotid stenosis. Arteriosclerosis are
the cause of it in 6 cases. All of patients were diagnosed by Duplex scan and arteriography.
Result: No procedure-related mortality was observed. There are 1 wound infection, 1 bleeding in the incision
among 16 operations. Only one case had occluded after 3 month, the others are in good condition after 7 –43
months follow up.
Conclusions: Ipsilateral carotido-subclavian bypass are the simple and effective methods for treatment
stenosis of subclavian artery or common carotid stenosis.
Key words: Ipsilateral carotido-subclavian bypass, stenosis of subclavian artery, common carotid stenosis
MỞ ĐẦU
Phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh dưới
đòn cùng bên được Diethrich đã lần đầu tiên
giới thiệu năm 1967 nhằm điều trị tắc động
mạch dưới đòn.(1) Từ đó tới nay phẫu thuật này
được xem như một phương pháp ưu tiên được
chọn lưạ trong điều trị những trường hợp hẹp /
tắc động mạch cảnh hay dưới đòn đơn độc. Các
phẫu thuật phục hồi lưu thông động mạch thân
tay đầu và động mạch dưới đòn qua đường mở
ngực được De Bakey áp dụng từ năm 1957 đã bị
thu hẹp chỉ định.
Mặc dù tạo hình động mạch dưới đòn xuyên
lòng mạch qua da (PTA) có hoặc không đặt stent
đã được xem như một phương pháp lý tưởng
trong điều trị hẹp/tắc động mạch dưới đòn từ
sau khi Bachman và Kim lần đầu tiên áp dụng
thành công vào năm 1980, (1) tuy nhiên những
trường hợp tắc đoạn dài hoặc không có túi cùng
động mạch thì phẫu thuật cầu nối cảnh dưới
đòn cùng bên được xem là phương pháp lý
tưởng trong điều trị tắc động mạch dưới đòn.
Trong thời gian hơn 10 năm qua chúng tôi
đã thực hiện phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh
dưới đòn cùng bên điều trị cho 16 trường hợp
tắc động mạch dưới đòn đơn thuần và 2 trường
hợp tắc động mạch cảnh chung.
Nhằm đánh giá đặc điểm lâm sàng, phương
pháp chẩn đoán và hiệu quả của phẫu thuật cầu
nối động mạch cảnh dưới đòn cùng bên chúng
tôi đã tiến hành nghiên cứu này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi nghiên cứu tiền cứu tất cả những
bệnh nhân được chẩn đoán hẹp / tắc động mạch
dưới đòn đơn thuần hoặc hẹp động mạch cảnh
chung đơn độc được điều trị phẫu thuật cầu nối
cảnh dưới đòn cùng bên tại bệnh viện Thống
nhất TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ 1/2004 –
1/ 2014.
Chẩn đoán dựa trên siêu âm Duplex mạch
máu và MS CT động mạch hoặc chụp X quang
động mạch số hoá xoá nền (DSA).
Chỉ định phẫu thuật bắc cầu nối động mạch
cảnh dưới đòn cùng bên với ống ghép PTFE cho
những trường hợp tắc hoàn toàn trên 2 cm, hẹp
không đồng trục.
Đánh giá tỉ lệ tử vong, tần suất các biến
chứng liên quan tới phẫu thuật. Kết quả phẫu
thuật được đánh giá dựa trên lâm sàng với sự
xuất hiện trở lại của mạch quay, hết chênh lệch
huyết áp, và kết quả siêu âm Doppler kiểm tra
khi xuất viện, vào các lần tái khám sau 3 tháng, 6
tháng, và mỗi năm sau đó.
SỐ LIỆU VÀ KẾT QUẢ
Tuổi và giới
Có 14 bệnh nhân bị tắc động mạch dưới đòn
và 2 bệnh nhân tắc động mạch cảnh chung được
điều trị với cầu nối động cảnh dưới đòn cùng
bên. trong đó 12 bệnh nhân nam, tuổi trung bình
là 41,2 nhỏ tuổi nhất là 21 và lớn tuổi nhất là 65.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 297
Triệu chứng lâm sàng
Phần lớn bệnh nhân vào viện vì triệu chứng
thiếu máu nuôi tay mạn tính hoặc bởi chóng
mặt, ngất xỉu do thiếu máu não.
Bảng 1: Triệu chứng lâm sàng.
Triệu chứng Số trường hợp %
Đau cách hồi 10 62,5
Hoai tử đầu ngón 2 12,5
Chóng mặt 10 62,5
Mất mạch 14 87,5
Đau cách hồi là triệu chứng thường gặp nhất
với tần suất 62,5% , hoại tử đầu chi chỉ thấy ở 2
trong 16 trường hợp. 62,5% các trường hợp hẹp
động mạch dưới đòn có biểu hiện thiếu máu não
thoáng qua.
Vị trí và mức độ thương tổn
Chúng tôi đánh giá mức độ thương tổn dựa
trên X quang động mạch và đối chiếu với đánh
giá tổn thương trong mổ.
Cả 14 trường hợp hẹp động mạch dưới đòn
chúng tôi gặp đều bị tắc hoàn toàn, 8 trường hợp
có hội chứng lấy cắp máu từ động mạch cột
sống. Hai trường hợp tắc động mạch cảnh trong
có biểu hiện cơn thiếu máu não thoáng qua.
Bảng 2: Vị trí thương tổn.
Vị trí Số trường hợp %
Dưới đòn trái 12 75,0
Dưới đòn phải 2 12,5
Động mạch cảnh chung 2 12,5
Tổn thương phối hợp:
Bảng 3: Tổn thương phối hợp
Tổn thương phối hợp Số T.hợp %
Hẹp đ-mạch cột sống 2 12,5
TẮC Đ-MẠCH CHI DƯỚI 5 31,3
Cao huyết áp 6 37,5
Nguyên nhân
Trong 14 trường hợp tắc động mạch dưới đòn
chúng tôi gặp có 7 trường hợp do xơ vữa động
mạch được xác định qua giải phẫu bệnh lý.
2 bệnh nhân tắc động mạch dưới đòn do
chấn thương cũ.
5 trường hợp còn lại do Takayashu dựa trên
tuổi bệnh nhân, đặc điểm thương tổn động
mạch và kết quả giải phẫu bệnh lý có biểu hiện
viêm động mạch không đặc hiệu.
Hai bệnh nhân hẹp động mạch cảnh chung
đều do xơ vữa động mạch.
Phương pháp điều trị
Phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh dưới đòn
cùng bên được áp dụng trong cả 16 trường hợp.
Tất cả các trường hợp được mổ với đường
mổ trên xương đòn, với phương pháp vô cảm
mê nội khí quản.
Động mạch cảnh chung và động mạch dưới
đòn được bộc lộ và đặt dây thắt tạm.
Tất cả các trường hợp đều được chúng tôi sử
dụng ống ghép mạch máu PTFE làm vật liệu
thay thế.
Tất cả các trường hợp cầu nối đều được đặt
sau tĩnh mạch cảnh trong.
Miệng nối tận bên cầu nối với động mạch
cảnh chung được thực hiện trước với kẹp tạm
thời động mạch cảnh chung.
Miệng nối giữa cầu nối và động mạch dưới
đòn theo kiểu tận tận trong 3 trường hợp, 13
trường hợp còn lại được nối theo kiểu tận bên.
Kết quả điều trị
Tất cả các trường hợp đều hết triệu chứng
lâm sàng sau điều trị. Không bệnh nhân nào tử
vong, không trường hợp nào phải đoạn chi.
Có 1 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, một
trường hợp chảy máu vết mổ.
Chúng tôi theo dõi bệnh nhân từ 7 tháng -
120 tháng có một trường hợp tắc cầu nối sau 3
tháng, một trường hợp nhồi máu cơ tim sau
phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh dưới đòn
trái cùng bên 17 tháng. Các trường hợp còn lại
không xuất hiện dấu hiệu hẹp / tắc tái phát.
BÀN LUẬN
Mặc dù ít gây hoại tử chi do có nhiều vòng
nối động mạch nhưng tắc mạch chi trên gây ảnh
hưởng chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Giống như các nghiên cứu khác triệu chứng
thiếu máu nuôi chi và thiếu máu não thoáng qua
là các biểu hiện lâm sàng thương gặp của hẹp /
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 298
tắc động mạch dưới đòn. Trong nghiên cứu của
chúng tôi tất cả các trường hợp tới nhập viện
đều đã có triệu chứng lâm sàng.
Trong nghiên cứu của Bergamini(2) 5% các
trường hợp không có triệu chứng lâm sàng, các
triệu chứng lâm sàng thường gặp là:
Bảng 4:
Triệu chứng Tần suất
Thiếu máu nuôi tay
Thiếu máu não ( Steal sydrome)
Phối hợp
Không TCLS.
24 / 80
28 / 80
24 / 80
04 / 80
Ali F. AbuRhama và cs. (1) đã tổng kết kinh
nghiệm 20 năm tại Đại học Y West Virginia với
109 bệnh nhân bị hẹp / tắc động mạch dưới đòn.
67% các trường hợp có biểu hiện thiếu máu nuôi
tay, 53% các trường hợp có biểu hiện thiểu năng
tuần hoàn hệ động mạch cột sống thân nền và
9% các trường hợp có hội chứng “ lấy cắp máu”.
Động mạch dưới đòn trái thường bị
thương tổn hơn, trong nghiên cứu của chúng
tôi 90.0% các trường hợp tổn thương ở bên
trái. Nghiên cứu của AbuRhama cũng có tỉ lệ
tương tự: 86% tổn thương ở bên trái và 14%
tổn thương bên phải.
Nguyên nhân của tắc động mạch mạn tính
chi trên thường gặp nhất vẫn là XVĐM, các
nguyên nhân khác ít gặp hơn như viêm động
mạch Takayashu, viêm sợi cơ động mạch, viêm
nút động mạch, các bất thường về gải phẫu,
chấn thương (Thoracic outlet syndrome).( 5)
50% các trường hợp tắc động mạch dưới đòn
trong nghiên cứu của chúng tôi có nguyên nhân
xơ vữa động mạch, 30.0% các trường hợp do
bệnh Takayashu, chấn thương cũ là nguyên
nhân của các trường hợp còn lại.
Chẩn đoán tắc động mạch dưới đòn
Chủ yếu dựa trên siêu âm Duplex mạch
máu, CT scan, MRI. X quang động mạch vẫn là
phương pháp lý tưởng giúp xác định chính xác
vị trí, mức độ và hệ thống tuần hoàn bàng hệ
trong tắc động mạch mạn tính chi trên cũng như
chi dưới.
Về điều trị tắc động mạch dưới đòn
Chỉ định can thiệp phẫu thuật cho những
trường hợp có triệu chứng lâm sàng, hoăc hẹp
trên 80% khẩu kính động mạch, hoặc hẹp động
mạch > 50% khẩu kính và có mảng loét trên nội
mạc động mạch.
Tạo hình động mạch xuyên qua lòng động
mạch qua da (PTA) ngày nay đã trở thành
phương pháp được lựa chọn đầu tiên cho những
trường hợp hẹp động mạch dưới đòn(9).
Mặc dù PTA là phương pháp lý tưởng để
điều trị tắc động mạch dưới đòn mạn tính, tuy
nhiên trong những trường hợp tắc hoàn toàn
trên 3 cm, hoặc hẹp trên 5 cm, hoặc trường hợp
tắc không có túi cùng thì phương pháp này
không thể áp dụng được.
Phẫu thuật được chỉ định cho những trường
hợp không thực hiện được PTA.
Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch là
phương pháp được chọn lựa cho những trường
hợp tắc động mạch dưới đòn. Có 2 loại cầu nối
động mạch: Trong ngực và ngoài ngực.
Cầu nối động mạch trong ngực có ưu điểm
là phục hồi lưu thông động mạch theo giải phẫu,
thám sát được vị trí động mạch bị thương tổn,
và lưu lượng máu qua cầu nối cao, tuy nhiên tỉ lệ
tử vong và biến chứng cao hơn.
Cầu nối ngoài ngực có tỉ lệ biến chứng và tử
vong thấp, kết quả trước mắt và lâu dài tương
đương cầu nối trong ngực. Các cầu nối ngoài
ngực gồm: cầu nối cảnh dưới đòn cùng bên,
cảnh dưới đòn đối bên và dưới đòn - dưới đòn
hoặc nách - nách.
Việc chọn lựa phương pháp phẫu thuật còn
tùy thuộc tình trạng bệnh nhân và tổn thương 1
hay nhiều nhánh của cung động mạch chủ.
Trường hợp động mạch cảnh cùng bên không bị
tổn thương thì phẫu thuật bắc cầu nối động
mạch từ động mạch cảnh tới dưới đòn là
phương pháp được lựa chọn(2).
Cầu nối động mạch cảnh – dưới đòn cùng
bên có những ưu điểm : phẫu thuật đơn giản, tỉ
lệ biến chứng và tử vong thấp(3,8,12). Theo nghiên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 299
cứu của AbuRahma và cs. tỉ lệ tử vong của phẫu
thuật này là 0%, 6% có biến chứng sớm sau mổ,
thời gian nằm viện trung bình chỉ có 2,1 ngày.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có tử
vong, chỉ có 2 trường hợp (9,5%) có biến chứng
nhẹ.
Một trong những vấn đề cần nghiên cứu
trong phẫu thuật cầu nối động mạch là việc chọn
lựa ống ghép làm cầu nối. Trong cả 16 trường
hợp phẫu thuật phục hồi lưu thông động mạch
dưới đòn chúng tôi sử dụng ống PTFE thay thế
mạch máu.
Theo AbuRahma và cs.( 1) PTFE cho kết quả
lâu dài tốt nhất so với ống Dacron và tĩnh mạch
tự thân khi làm cầu nối động mạch cảnh dưới
đòn. Tỉ lệ ống ghép còn thông sau 5 năm là
95,2% cho ống PTFE, 83,9% cho ống Dacron, và
64,8% cho tĩnh mạch tự thân.
Kết quả lâu dài của cầu nối động mạch cảnh
– dưới đòn trái cùng bên rất khả quan, tỉ lệ bệnh
nhân không còn triệu chứng lâm sàng sau 1, 3, 5,
10 năm lần lượt là: 100%, 96%, 82%, và 47%.(8,12)
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1
trường hợp bị tắc ống ghép sau 3 tháng, các
trường hợp khác ống ghép vẫn thông tốt qua
thời gian theo dõi từ 7 tới 120 tháng.
Cần lưu ý những bệnh nhân có bệnh mạch
vành đã mổ cầu nối động mạch vành khi có hội
chứng lấy cắp máu của động mạch dưới đòn có
the gây cơn đau thắt ngực(3).
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cầu nối động mạch cảnh dưới
đòn cùng bên với ống ghép PTFE là phương
pháp điều trị triệt để hiệu quả, ít biến chứng cho
những trường hợp tắc động mạch dưới đòn đơn
độc.
Kết quả lâu dài của cầu nối động mạch cảnh
dưới đòn cùng bên rất khả quan, tỉ lệ hẹp tái
phát thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AbuRahma AF, Robinson PA, Jenning TG (2000): Carotid –
subclavian bypass grafting with polytetrafluoroethylene
grafts for symptomatic subclavian artery stenosis or occlusion.
J. Vasc. Surg.; 3:411-418.
2. Bergamini TM (1994): Surgical management of chronic upper
extremities ischemia. In Vascular Diseases, D.E. Strandness,
A. Breda, Churchill Livingstone Inc. p524-538.
3. Chowning S, Stowell D, Ponniah U (2012): Carotid-Subclavian
bypass for Subclavian steal syndrome after coarctation repair
in infancy. Ann Pediat cardiol; 5(2): 201-209.
4. Fry WR, Martin JD, Cladgett GP, Fry WJ (1992): Extrathoracic
carotid recontruction: the subclavian-carotid artery bypass. J
Vasc Surg; 15:83-9.
5. Kim MS, Paeng JC, Kim KB, Hwang HY (2013): Left carotid to
subclavian artery bypass grafting for recurrent angina caused
by coronary-subclavian steal syndrome. Korean J Thorac
cardiovas surg; 46(1): 84-87
6. Linsay I, DeBakey ME, Beall AC (1994): Diagnosis and
treatment of Diseases of the Aorta. In Hurst’s The Heart, 8th
Ed., p. 2163-2166.
7. Malek-AK; Rowinski-O; Ostrowski-T; Hilgertner-L;
Januszewicz-M; Szostek-M (1995): Transcutaneous balloon
angioplasty in the treatment of subclavian steal syndrome.
Characteristics of vertebral basal flow with transcranial
Doppler technique. Pol-Tyg-Lek.; 50(40-44): 19-22
8. Perler BA, Williams GM (1990), Carotid-subclavian bypass –
A decade experience. J Vasc Surg; 12:716-23.
9. Peyton RB, Isom OW (1995): Occlusive diseases of branches of
the aorta. In Surgery of the Chest, 6th Ed. DC. Sabiston and
FC. Spencer, WB. Saunder Company. p.1358-1365.
10. Sabiston DC (1997): Takayashu’s disease. In Sabiston
Textbook of Surgery, 15th Ed., p.1679-1682.
11. Urschel HC, Razzuk MA (1995): Thoracic Outlet Syndrome.
In Surgery of the Chest, 6th Ed. DC. Sabiston and FC. Spencer,
WB. Saunder Company. p.613-633.
12. Vitti MJ, Thompson BW, Read RC, Gagne PJ, Barone GW,
Barnes RW, Eidt JF (1994). Carotid-subclavian bypass: a
twenty-two year experience. J Vasc Surg; 20:411-8.
Ngày nhận bài báo: 11-04-2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20-04-2014
Ngày bài báo được đăng: 20-05-2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_phau_thuat_cau_noi_dong_mach_canh_duoi_don_cung_ben.pdf