KẾT LUẬN
Qua đánh giá chức năng liên quan tới vận động ở
36 bệnh nhân chấn thương sọ não tập phục hồi chức
năng tại khoa Y học cổ truyền - vật lý trị liệu - phục
hồi chức năng Bệnh viện 211 thời gian từ tháng 01 đến
tháng 8/2019 chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
- Bệnh nhân bị chấn thương sọ não chủ yếu là
nam giới và thường gặp ở người trẻ tuổi trong độ
tuổi lao động từ 18 - 60 tuổi với mức độ liệt vừa và
nặng. Các bệnh nhân chủ yếu được tập PHCN trong
giai đoạn 6-12 tuần sau CTSN và liệu trình kéo dài
30-90 ngày. Cần chú trọng sớm hơn tới công tác
PHCN, và có thể nghiên cứu xây dựng các liệu pháp
vật lý trị liệu, các bài tập vận động thụ động/chủ
động . tại giường bệnh, ngay khi bệnh nhân CTSN
ổn định các chức năng sống.
- Sau giai đoạn tập PHCN, điểm MAS tăng ở tất
cả các chức năng vận động cơ bản của cơ thể. Chức
năng vận động phức tạp hồi phục kém hơn về cả
mức độ và thời gian.
- Thời gian hôn mê ảnh hưởng đến sự phục hồi
chức năng vận động cấp cao, những bệnh nhân có
thời gian hôn mê < 1 tuần sau khi PHCN thì có điểm
MAS chức năng cánh tay trên, chuyển động bàn tay
và hoạt động cấp cao của bàn tay tăng lên đáng kể so
với nhóm bệnh nhân có thời gian hôn mê ≥ 1 tuần.
- Sau giai đoạn tập PHCN, bệnh nhân đã độc lập
hơn đáng kể về các chức năng sinh hoạt.
Như vậy, PHCN đã góp phần làm cải thiện chức
năng vận động ở bệnh nhân liệt nửa người sau chấn
thương sọ não.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phục hồi chức năng vận động ở bệnh nhân liệt nửa người sau chấn thương sọ não, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 39
KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG
Ở BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI SAU CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO
Nguyễn Thị Kim Oanh1, Nguyễn Cao Viên1, Cao Đức Thoảng1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.63.6
TÓM TẮT
Phục hồi chức năng (PHCN) là quá trình lâu dài trên bệnh nhân chấn thương sọ não (CTSN) nhằm cải
thiện chức năng ngôn ngữ, vận động, cảm giác và qua đó ngăn ngừa hoặc điều trị các biến chứng thứ
phát giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Đây là một quá trình lâu dài mà thậm chí là suốt
đời và đòi hỏi sự trợ giúp của nhân viên y tế mà nhất là đội ngũ điều dưỡng, kỹ thuật viên trị liệu. Nghiên
cứu được tiến hành với mục tiêu “Đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động của bệnh nhân CTSN”.
36 bệnh nhân bị chấn thương sọ não có di chứng liệt nửa người đã được điều trị qua giai đoạn cấp tính,
ổn định về các chức năng sống và đang được tập PHCN tại khoa Y học cổ truyền - vật lý trị liệu - phục
hồi chức năng Bệnh viện Quân y 211 được đánh giá về các chức năng vận động trước và sau quá trình
tập PHCN. Kết quả cho thấy nam giới bị CTSN với tỷ lệ cao hơn và thường ở trong độ tuổi lao động với
mức độ liệt vừa và nặng khi tập PHCN ở thời điểm thường sau 6-12 tuần. Liệu trình tập PHCN kéo dài
30-90 ngày đã cải thiện chức năng vận động cơ bản qua thang điểm MAS cũng như trong chức năng sinh
hoạt hàng ngày (điểm Barthel). Thời gian hôn mê gây ảnh hưởng đến sự phục hồi chức năng vận động
cấp cao. Như vậy, PHCN đã góp phần làm cải thiện chức năng vận động ở bệnh nhân liệt nửa người sau
chấn thương sọ não.
Từ khóa: Phục hồi chức năng vận động, chấn thương sọ não, điều dưỡng
ABSTRACT
RESULTS OF MOTOR REHABILITATION IN PATIENTS WITH HEMIPLEGIC
SEQUALAE FOLLOWING TRAUMATIC BRAIN INJURY
Nguyen Thi Kim Oanh1, Nguyen Cao Vien1, Cao Duc Thoang1
Rehabilitation (Rehab) is a long-term process in patients with traumatic brain injury (TBI) to recover
language, motor, and sensory functions, ... and thereby preventing or treating secondary complications,
thus improve the quality of life. Rehab could be a persistent term and requires supports from health staffs,
especially nursing and therapists. The study was conducted to evaluate the effects of Rehab process on
motor function in TBI patients. 36 post TBI patients with secondary sequelae of hemiplegia and had been
treated through the acute phase, stabilized their living functions and took Rehab in the Department of
1. Bệnh viện Quân y 211, Pleiku, Gia Lai - Ngày nhận bài (Received): 10/5/2020; Ngày phản biện (Revised): 30/5/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 01/7/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Thị Kim Oanh
- Email: kimoanh.gialai.0901@gmail.com;
40 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Kết quả phục hồi chức năng vận động...
Traditional Medicine - Physiotherapy - Rehabilitation, Military Hospital No 211 was assessed on the motor
functions before and after the Rehab. course. The results showed that there were higher proportions of
TBI in males at labor-range age with paralysis degree of moderate and severe when got the Rehab course
often after 6-12 weeks since the occurance of accident. The 30-90 days Rehab course improved basic
motor function via the MAS scale as well as in daily activities (Barthel score). The time of coma affected the
restoration of high level motor function. Thus, rehabilitation has contributed to improving motor function in
patients with hemiplegia after TBI.
Key words: motor rehabilitation, traumatic brain injury, nursing
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phục hồi chức năng (PHCN) trên bệnh nhân chấn
thương sọ não (CTSN) nhằm cải thiện chức năng
ngôn ngữ, vận động, cảm giác và qua đó ngăn
ngừa hoặc điều trị các biến chứng thứ phát giúp cải
thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Đây là
một quá trình lâu dài mà thậm chí là suốt đời và đòi
hỏi sự trợ giúp của nhân viên y tế mà nhất là đội ngũ
điều dưỡng, kỹ thuật viên trị liệu. Quá trình này và có
thể bắt đầu sớm từ bộ phận ICU, ngay khi tình trạng
y tế của bệnh nhân ổn định rồi thường được tiếp tục
trong các cơ sở phục hồi chức năng chuyên biệt.
Đã có nhiều nghiên cứu về các thương tổn thực
thể trong CTSN cũng như các thay đổi liên quan tới
quá trình hồi phục chức năng não bộ. Tuy nhiên,
chưa có nhiều đánh giá tập trung vào công tác điều
dưỡng trong tập phục hồi chức năng mà trước hết
là chức năng vận động ở bệnh nhân bị CTSN. Do
vậy, nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu “Đánh
giá kết quả phục hồi chức năng vận động của bệnh
nhân CTSN”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Điều tra được tiến hành theo phương pháp thu
thập mẫu thuận tiện trên 36 bệnh nhân bị chấn
thương sọ não có di chứng liệt nửa người đã được
điều trị qua giai đoạn cấp tính, ổn định về các chức
năng sống và đang được tập PHCN tại khoa Y học
cổ truyền - vật lý trị liệu - phục hồi chức năng Bệnh
viện Quân y 211. Thời gian thu mẫu từ tháng 01đến
tháng 8/2019.
Các đối tượng đều từ 18 tuổi trở lên và tình
nguyện tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu được tiến
hành với sự chấp thuận của Bệnh viện Quân y 211
và tuân thủ các quy định, nội quy chung của Bộ Y tế
và của Bệnh viện đối với các nghiên cứu tiến hành
trên người.
Điều kiện loại khỏi nghiên cứu khi bệnh nhân
mang các bệnh lý nội khoa nặng như suy tim nặng,
suy thận và/hoặc bệnh nhân/thân nhân người
bệnh không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp
điều tra cắt ngang, so sánh trước-sau đợt trị liệu,
một số chỉ tiêu nghiên cứu được hồi cứu theo hồ sơ
bệnh án.
Phương pháp đánh giá và tập luyện: Bệnh nhân
được tập PHCN theo hướng dẫn mới nhất của Bộ Y
tế, 2018 [1] theo các bước cơ bản sau:
(1) Đánh giá các chỉ tiêu về vận động, sinh hoạt
hằng ngày trước khi phục hồi chức năng của bệnh nhân
(2) Lập mẫu bệnh án nghiên cứu cho mỗi bệnh
nhân sau khi đã được vào khoa, liên hệ Khoa HSCC,
Khoa Chấn thương và Ban KHTH Bệnh viện để lấy
hồ sơ bệnh án điều trị giai đoạn cấp tính, thu tập một
số thông tin liên quan.
(3) Bệnh nhân được tập phục hồi chức năng tại
khoa VLTL - PHCN theo quy trình phù hợp cho
từng bệnh nhân dưới sự hướng dẫn của kỹ thuật viên
và bác sĩ chuyên khoa PHCN:
Mỗi bệnh nhân được tập vật lý trị liệu cá nhân 2
lần mỗi ngày, mỗi lần 30 đến 60 phút. Quy trình vật
lý trị liệu- PHCN và độ phức tạp, số đợt trị liệu và
cường độ của các bài tập PHCN được thiết kế riêng,
phù hợp trạng thái ý thức, tuổi và tình trạng thể chất
của mỗi bệnh nhân theo chỉ định của bác sỹ.
Các chỉ tiêu đánh giá gồm:
- Một số đặc điểm chung về tuổi, giới của đối
tượng nghiên cứu
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 41
- Thời gian bắt đầu phục hồi chức năng sau khi
ổn định các chức năng sống.
- Mức độ liệt nửa người theo B. Boath [4].
- Mức độ thực hiện các hoạt động sống hàng
ngày theo Barthel Index [3].
- Phục hồi chức năng vận động theo thang điểm
đánh giá chức năng vận động MAS [5] trước và sau
tập. Các hoạt động theo MAS được đánh giá dựa
trên khả năng của bệnh nhân để thực hiện chúng.
Mỗi mục vận động được ghi theo thang điểm từ 0
đến 6 điểm. Điểm tối thiểu theo MAS là 0 và điểm tối
đa là 54. Các chức năng sau được đánh giá: từ nằm
ngửa sang nằm nghiêng, từ nằm ngửa sang ngồi trên
giường, ngồi cân bằng, từ ngồi sang đứng, đi lại, chức
năng cánh tay trên, các động tác bàn tay, hoạt động
cao cấp của bàn tay, và trương lực cơ nói chung.
Dữ liệu được phân tích theo số trung bình và độ
lệch chuẩn (x ± SD); khác biệt trước sau đợt trị liệu
bằng phép so sánh paired student’s T-test; các thông
số định tính được tính theo tỉ lệ phần trăm; các so
sánh có ý nghĩa khi p < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Đặc điểm về tuổi, giới của đối tượng
nghiên cứu
Nhóm tuổi Nam Nữ %
< 18 tuổi 2 0 5,6
18 – 60 22 8 83,4
≥ 60 tuổi 2 2 11
% 72,2 27,8 100
Tuổi trung bình 38,11 ± 14,94
Kết quả trên bảng 1 cho thấy CTSN xảy ra ở nam
cao gần gấp 3 lần so với ở nữ và nhóm tuổi chiếm tỷ lệ
cao nhất là 18 – 60 tuổi (83,4 %). Tuổi trung bình của
nhóm nghiên cứu là 38,11 ± 14,94. Kết quả này tương
đồng với báo cáo của Đặng Ngọc Trí và cs. (2017) là: tỷ
lệ nam giới bị chấn thương sọ não là 75 %, người dưới
60 tuổi là 86%, có độ tuổi trung bình là 38,74 ± 18,27
[2]. Lứa tuổi này là giai đoạn chuẩn bị trưởng thành và
trong độ tuổi lao động nên là nguồn lực quan trọng cho
gia đình và xã hội. Các hậu quả của CTSN kéo dài và
nặng nề nên vấn đề PHCN vận động để họ có khả năng
tự phục vụ sinh hoạt cá nhân và hơn nữa là tái lao động
là một vấn đề cần lưu tâm.
Bảng 2: Đặc điểm chung về tổn thương sau CTSN
Chỉ số n %
Mức độ liệt Không liệt 0 0,0
Liệt nhẹ 0 0,0
Liệt vừa 26 72,2
Liệt nặng 10 27,8
Thời điểm
bắt đầu tập
PHCN sau
thời điểm
CTSN
< 6 tuần 6 16,7
6 – 12 tuần 30 83,3
> 12 tuần 0 0
Thời gian
phục hồi chức
năng
<30 ngày 0 0
30 – 90 ngày 36 100
> 90 ngày 0 0
Số ngày
PHCN trung
bình
44,4 ± 5,6
Kết quả trên bảng 2 cho thấy tất cả đối tượng nghiên
cứu đều bị liệt mức độ vừa (72,2%) và nặng (27,8 %)
với thời gian bắt đầu được tập PHCN chủ yếu từ sau 6
tuần (83,3%) và kéo dài từ 30-90 ngày. Thời gian tập
PHCN này được cho là không đủ sớm và có thể sẽ ảnh
hưởng tới khả năng hồi phục của bệnh nhân.
Các nghiên cứu về PHCN cho thấy khả năng phục
hồi tốt nhất của bệnh nhân liệt nửa người do chấn
thương sọ não xảy ra trong 6 tháng đầu tiên sau chấn
thương. Katz và cs. (1998) thấy thời gian phục hồi
của liệt chi trên là khác nhau tùy theo cơ chế chấn
thương gây tổn thương lan tỏa hay khu trú [6]. Những
bệnh nhân bị tổn thương sợi trục lan tỏa đã hồi phục
chậm hơn so với những bệnh nhân bị tổn thương khu
trú (chủ yếu là đụng dập khu trú ở vỏ não). Những
bệnh nhân bị tổn thương khu trú hồi phục 3 tháng sau
CTSN, nhưng những bệnh nhân bị tổn thương lan tỏa
đã hồi phục sau 6 tháng. Bên cạnh đó, mức độ nghiêm
trọng ban đầu của suy giảm vận động và thời gian mất
ý thức là những yếu tố dự báo quan trọng để dự đoán
thời gian phục hồi [6].
Từ đó, đặt ra vấn đề cần chú trọng sớm hơn tới
công tác PHCN, có thể nghiên cứu xây dựng các
42 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Kết quả phục hồi chức năng vận động...
liệu pháp vật lý trị liệu, các bài tập vận động thụ động/chủ động. tại giường bệnh, ngay khi bệnh nhân
CTSN ổn định các chức năng sống.
Bảng 3: Chức năng vận động theo thang điểm MAS trước và sau luyện tập
Thời điểm
Chức năng vận động
Trước tập
(x± SD)
Sau tập
(x± SD) P
Nằm ngửa sang nằm nghiêng 1 bên 3,6 ± 1,1 5,1 ± 0,7
< 0,05
Nằm ngửa sang ngồi trên giường 2,7 ± 0,8 5,0 ± 0,7
Ngồi cân bằng 2,5 ± 0,7 4,9 ± 0,6
Ngồi sang đứng 2,0 ± 0,6 4,7 ± 1,1
Đi bộ 1,9 ± 0,4 4,5 ± 1,3
Chức năng cánh tay trên 2,0 ± 0,8 4,0 ± 1,2
Chuyển động bàn tay 1,3 ± 0,6 3,44 ± 0,8
Hoạt động cấp cao của bàn tay 1,3 ± 0,3 3,1 ± 0,9
Trương lực cơ 1,5 ± 0,4 3,6 ± 1,1
Tổng điểm MAS 22,6 ± 7,8 38,6 ± 9,4
Sau khi tập PHCN điểm MAS đã tăng lên có ý
nghĩa thống kê với p<0,05 trên tất cả các chức năng
vận động của cơ thể trong đó tăng nhiều nhất là các
chức năng: Nằm ngửa sang nằm nghiêng 1 bên ( trước
tập là 3,6 ± 1,1 và sau tập là 5,1 ± 0,7), Nằm ngửa sang
ngồi trên giường (trước tập là 2,7 ± 0,8 và sau tập là
5,0 ± 0,7), Ngồi cân bằng (trước tập là 2,5 ± 0,7 và sau
tập là 4,9 ± 0,6), Ngồi sang đứng (trước tập là 2 ± 0,6
và sau tập là 4,7 ± 1,1), Đi bộ (trước tập là 1,9 ± 0,4 và
sau tập là 4,5 ± 1,3). Nhiều chức năng sau giai đoạn
PHCN đã đạt được điểm tối đa.
Các chức năng vận động đơn giản này ở bệnh
nhân chấn thương sọ não có sự phục hồi tốt hơn so
với đột quỵ, do cơ chế tổn thương não của 2 bệnh
lý này là khác nhau nên những bệnh nhân bị chấn
thương sọ não có tiên lượng phục hồi chức năng vận
động tốt hơn so với bệnh nhân đột quỵ.
Đối với các chức năng vận động phức tạp hơn
như: Chức năng cánh tay trên, chuyển động bàn tay,
hoạt động cấp cao của bàn tay thì sự phục hồi chậm
hơn và theo nghiên cứu của Katz và cs. (1998) thì
chức năng cánh tay trên của bệnh nhân chấn thương
sọ não cần đến 6 tháng sau chấn thương mới có thể
phục hồi [6].
Bảng 4: So sánh thang điểm MAS theo thời gian hôn mê
Thời điểm
Chức năng vận động
Hôn mê < 1 tuần (n = 18) Hôn mê ≥ 1 tuần (n = 18)
p
Trước tập Sau tập Trước tập Sau tập
Nằm ngửa sang nằm nghiêng
một bên
4,6 ± 0,7 5,3 ± 0,7 4,0 ± 0,1 5,0 ± 0,7 > 0,05
Nằm ngửa sang ngồi trên giường 4,4 ± 0,5 5,0 ± 0,6 3,7 ± 0,4 5,1 ± 0,7 > 0,05
Ngồi cân bằng 4,3 ± 0,5 4,8 ± 0,5 3,2 ± 0,4 5,0 ± 0,6 > 0,05
Ngồi sang đứng 1,8 ± 0,6 5,1 ± 0,3 2,2 ± 0,3 4,3 ± 0,9 > 0,05
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 43
Đi bộ 2,1 ± 0,8 5,4 ± 0,5 1,7 ± 0,6 3,6 ± 1,0 > 0,05
Chức năng cánh tay trên 2,1 ± 0,5 4,3 ± 0,9 1,8 ± 0,3 3,6 ± 0,9 < 0,05
Chuyển động bàn tay 2,5 ± 0,6 4,0 ± 0,5 1,1 ± 0,2 2,8 ± 0,4 < 0,05
Hoạt động cấp cao của bàn tay 2,4 ± 0,3 4,0 ± 0,4 1,2 ± 0,4 2,4 ± 0,3 < 0,05
Trương lực cơ 1,7 ± 0,4 4,2 ± 0,9 1,3 ± 0,5 3,0 ± 0,9 > 0,05
Tổng điểm MAS 28,7 ± 5,2 43,1 ± 4,8 16,6 ± 4,7 34,1 ± 10,7 < 0,05
Thời gian hôn mê ảnh hưởng đến sự phục hồi chức
năng vận động cấp cao. Kết quả trên bảng 4 cho thấy
những bệnh nhân có thời gian hôn mê < 1 tuần thì có
điểm MAS chức năng cánh tay trên, chuyển động bàn
tay và hoạt động cấp cao của bàn tay cao hơn nhóm
bệnh nhân có thời gian hôn mê ≥ 1 tuần và sau khi phục
hồi chức năng thì bệnh nhân có thời gian hôn mê < 1
tuần cải thiện tốt hơn.
Phát hiện này của chúng tôi cũng tương đồng với
nghiên cứu của Lendraitienė và cs. (2016) phân tích
trên ở nhóm bệnh nhân hôn mê dưới 1 tuần [8] và
thấy điểm MAS ở một số chức năng cánh tay trên;
chuyển động bàn tay; hoạt động cấp cao của bàn tay
và trương lực cơ tương ứng là 4,2; 4,05; 3,45 và 4,6.
Do đó những bệnh nhân có thời gian hôn mê
ngắn sẽ có tiên lượng phục hồi chức năng tốt hơn
những bệnh nhân những bệnh nhân có thời gian hôn
mê kéo dài trên 1 tuần.
Bảng 5: Kết quả phục hồi chức năng sinh hoạt hằng ngày sau luyện tập
Thời điểm
Chức năng sinh hoạt
Trước tập Sau tập
p
Barthel Index TB Barthel Index TB
Độc lập (95-100) 0 96,8 ± 2,5
< 0,05
Phụ thuộc ít (65 - 90) 0 81,0 ± 7,1
Phụ thuộc nhiều (30 - 60) 43,2 ± 6,6 51,2 ± 4,4
Phụ thuộc hoàn toàn (0 - 25) 17 ± 4,8 0
Trung bình 35,9 ± 13,4 77,9 ± 16,8
Kết quả trên bảng 5 cho thấy trước tập các bệnh
nhân đều có chức năng sinh hoạt phụ thuộc nhiều
hoàn toàn vào người khác. Sau quá trình tập PHCN,
các bệnh nhân đã độc lập hơn đáng kể về các chức
năng sinh hoạt: Độc lập là 96,8 ± 2,5, phụ thuộc ít là
81,0 ± 7,1, không có bệnh nhân nào phụ thuộc hoàn
toàn. Điểm Barthel Index trung bình cải thiện đáng
kể từ 35,9 ± 13,4 đã tăng lên 77,9 ± 16,8. Sự khác
biệt về kết quả PHCN sinh hoạt hằng ngày của bệnh
nhân là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Kết quả này của chúng tôi thấp hơn so với nghiên
cứu của Shah và cs. (2000) trên 78 bệnh nhân bị
chấn thương sọ não với điểm Barthel trung bình là
75 ± 30 (lúc nhập viện ) và 93 ± 29 (lúc xuất viện)
[7]. Nguyên do có thể bởi bệnh nhân trong nghiên
cứu của chúng tôi chủ yếu được tập PHCN trong
giai đoạn sau 6 tuần với các bài tập vận động và đi
lại mà hầu như chưa tập các hoạt động tự chăm sóc.
IV. KẾT LUẬN
Qua đánh giá chức năng liên quan tới vận động ở
36 bệnh nhân chấn thương sọ não tập phục hồi chức
năng tại khoa Y học cổ truyền - vật lý trị liệu - phục
hồi chức năng Bệnh viện 211 thời gian từ tháng 01 đến
tháng 8/2019 chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
- Bệnh nhân bị chấn thương sọ não chủ yếu là
nam giới và thường gặp ở người trẻ tuổi trong độ
tuổi lao động từ 18 - 60 tuổi với mức độ liệt vừa và
nặng. Các bệnh nhân chủ yếu được tập PHCN trong
giai đoạn 6-12 tuần sau CTSN và liệu trình kéo dài
44 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Kết quả phục hồi chức năng vận động...
30-90 ngày. Cần chú trọng sớm hơn tới công tác
PHCN, và có thể nghiên cứu xây dựng các liệu pháp
vật lý trị liệu, các bài tập vận động thụ động/chủ
động. tại giường bệnh, ngay khi bệnh nhân CTSN
ổn định các chức năng sống.
- Sau giai đoạn tập PHCN, điểm MAS tăng ở tất
cả các chức năng vận động cơ bản của cơ thể. Chức
năng vận động phức tạp hồi phục kém hơn về cả
mức độ và thời gian.
- Thời gian hôn mê ảnh hưởng đến sự phục hồi
chức năng vận động cấp cao, những bệnh nhân có
thời gian hôn mê < 1 tuần sau khi PHCN thì có điểm
MAS chức năng cánh tay trên, chuyển động bàn tay
và hoạt động cấp cao của bàn tay tăng lên đáng kể so
với nhóm bệnh nhân có thời gian hôn mê ≥ 1 tuần.
- Sau giai đoạn tập PHCN, bệnh nhân đã độc lập
hơn đáng kể về các chức năng sinh hoạt.
Như vậy, PHCN đã góp phần làm cải thiện chức
năng vận động ở bệnh nhân liệt nửa người sau chấn
thương sọ não.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2018), “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị
phục hồi chức năng cho bệnh nhân chấn thương
sọ não”, Quyết định số 5623/QĐ - BYT ngày
21/9/2018, p. 14.
2. Đặng Ngọc Trí, Tôn Thất Quỳnh Út, Tô Ngọc
Trúc, Phạm Bình Ca (2017), “Đánh giá kết
quả điều trị máu tụ trong não do chấn thương”.
Truy cập tại
ngày 15/8/2019.
3. Mahoney, F.I. & Barthel, D.W. (1965),
“Functional Evaluation: The Barthel Index”,
Maryland state medical journal, 14, p. 61-65.
4. Bobath B (1990), “Adult hemiplegia:
Evaluation and treatment”, Oxfort Butter Worth
Heimemann.
5. J. Carr, R. Shepherd (1994), “Motor
assessment scale for Stroke”, Physical
Therapy, 65(2), p. 175-180.
6. D.I. Katz, M.P., Alexander and R.B. Klein
(1998), “Recovery of arm function in patients
with paresis after traumatic brain injury”, Arch
Phys Med Rehabil 79, p. 488-493.
7. Shah S., Muncer S., Griffin J., Elliott L. (2000),
“The Utility of the Modified Barthel Index for
Traumatic Brain Injury Rehabilitation and
Prognosis”, British Journal of Occupational
Therapy, 63(10), p. 469-475.
8. Lendraitienė E., Petruševičienė D., Savickas
R., Žemaitienė I., Mingaila S. (2016), “The
impact of physical therapy in patients with
severe traumatic brain injury during acute
and post-acute rehabilitation according to
coma duration.”, J Phys Ther Sci, 28(7), p.
54 - 2048.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_phuc_hoi_chuc_nang_van_dong_o_benh_nhan_liet_nua_ngu.pdf