IV. BàN LUẬN:
Theo Ponseti I. [11], tái phát ở BCK sau nắn chỉnh
ban đầu là tái phát sớm với bàn chân khép, vẹo trong,
thuổng hoặc tái phát ở lứa tuổi biết đi. Trong công
trình này, đánh giá tái phát BCK dựa trên nền tảng
thang điểm Diméglio; 1 biến dạng được xem là tái
phát và cần xử trí nếu ≥ 2 theo thang điểm Diméglio.
Bảng 3.1 ghi nhận tỉ lệ tái phát 6,6% (9/136 BCK);
chiếm đa số là tái phát biến dạng thuổng (8 BCK/6
BN), tái phát biến dạng vẹo trong + thuổng ở 1 BCK.
Tỉ lệ tái phát khi theo dõi trung bình 44 tháng này là
thấp và chấp nhận được khi so sánh với các tác giả
khác ở nước ngoài [7],[9],[10],[13] (bảng 4.1).
Tỉ lệ tái phát có sự khác biệt giữa chúng tôi và các
tác giả trên có lẽ do cách đánh giá tái phát khác nhau.
Tái phát theo Morcuende J. [10] được định nghĩa là
khi xuất hiện bất cứ thành phần nào của biến dạng
như lõm, khép, vẹo trong, và thuổng nhưng tác giả
không đưa ra được thang điểm cụ thể; tái phát theo
Dobbs M. [7] phần lớn ở bàn chân sau với biến dạng
thuổng và vẹo trong; tái phát theo Haft G. [9] khi cần
phải can thiệp phẫu thuật dù được bó bột lại trước
đó, và tái phát được phân loại nhẹ khi cần cắt gân lại
qua da, kéo dài gân gót hoặc chuyển gân chày trước,
nặng khi cần giải phóng phía sau hoặc sau trong. Hai
tác giả sau cũng không đưa ra tiêu chuẩn chi tiết đánh
giá tái phát.
Kết quả sau cùng của công trình này là tương
đồng với kết quả theo dõi của Radler C. và cộng sự
[12], và có xu hướng tốt hơn so với kết quả theo dõi
của Richards B. và cộng sự (bảng 4.2). Đây là những
công trình có tiêu chuẩn đánh giá và thời gian theo
dõi tương đương với công trình này.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả theo dõi tối thiểu 2 năm bàn chân khoèo bẩm sinh điều trị theo phương pháp Ponseti, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
188
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Vĩnh Thống
KẾT quả THEO dÕI TốI THIỂu 2 NăM BÀN CHÂN KHOÈO
BẨM sINH đIều TRỊ THEO PHƯƠNG PHÁP PONsETI
FOLLOW-uP REsuLT OF 2 YEAR MINIMuM IN MANAGEMENT OF
IdIOPATHIC CONGENITAL CLuBFOOT BY PONsETI METHOd
Võ Quang Đình Nam
Bệnh viện CTCH, TP.HCM
Email:
huedtk@yahoo.com
Ngày nhận: 05 - 9 - 2014
Ngày phản biện: 20 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Vo Quang Dinh Nam AbstrAct
Study’s design: Prospective case series.
Introduction: Ponseti method is becoming popular in Vietnam, but no follow-up result is
reported for treating idiopathic congenital clubfoot.
Method: This is case series study of 142 idiopathic congenital clubfeet in 101 children
(newborn to 12ms), treated according to Ponseti method at the Hospial for Traumatology
and Orthopaedics since 2004. They were classified and evaluated during casting, of
relapse according to Diméglio’s scale. The final result was evaluated according to
Richards’ classification.
Results: The successful results of manipulating and casting were 95.8% (perfect 74.0%,
acceptable 21.8%). The relaspes were 6.6% correlated to the results of manipulating
and casting, and bracing program. The final results were good 74.7%, fair 22.5%, and
bad 2.8% correlated to the age at beginning of treatment and term of follow up in both
univariable and multivariable analysis.
Conclusion: Although manipulating and casting according to Ponseti method is effective,
the long-term follow-up is essential.
Key words: clubfoot, idiopathic congenital clubfoot, Ponseti method.
Thieát keá nghieân cöùu: Tieán cöùu loaït ca.
Ñaët vaán ñeà: Phöông phaùp Ponseti ñaõ ñöôïc aùp duïng khaù phoå bieán taïi Vieät nam nhöng
chöa coù coâng trình baùo caùo keát quaû theo doõi ñieàu trò baøn chaân khoeøo baåm sinh voâ caên
theo phöông phaùp Ponseti.
Phöông phaùp: 101 Beänh nhi vôùi 142 baøn chaân khoeøo töø sô sinh ñeán 12 thaùng tuoåi
ñöôïc ñieàu trò theo phöông phaùp Ponseti töø naêm 2004 taïi Beänh vieän Chaán thöông chænh
hình. Thôøi gian theo doõi töø 24 thaùng ñeán 117 thaùng (trung bình 44 thaùng). Caùc baøn
chaân khoeøo ñöôïc phaân loaïi, ñaùnh giaù trong quaù trình naén chænh-boù boät, ñaùnh giaù taùi
phaùt theo thang ñieåm Dimeùglio. Keát quaû theo doõi sau cuøng ñöôïc ñaùnh giaù theo phaân
loaïi Richards vaø CS.
Keát quaû: Keát quaû naén chænh ban ñaàu hoaøn chænh 74,0%, chaáp nhaän 21,8%, thaát baïi
4,2%. Tæ leä taùi phaùt 6,6%; keát quaû ban ñaàu vaø chöông trình neïp lieân quan coù yù nghóa
ñeán taùi phaùt. Keát quaû sau cuøng toát 74,7%, trung bình 22,5%, vaø xaáu 2,8%; tuoåi baét ñaàu
ñieàu trò vaø thôøi gian theo doõi aûnh höôûng coù yù nghóa ñeán keát quaû sau cuøng vôùi caû phaân
tích ñôn bieán vaø ña bieán.
Keát luaän: Phöông phaùp Ponseti ñaït keát quaû naén chænh ban ñaàu raát cao nhöng theo doõi
laâu daøi laø caàn thieát.
Töø khoùa: Baøn chaân khoeøo, baøn chaân khoeøo baåm sinh voâ caên, phöông phaùp Ponseti
Tóm TắT
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
189
I. ĐặT VấN Đề
Bàn chân khoèo bẩm sinh là một phức hợp các biến
dạng phức tạp ở vùng cổ chân và bàn chân theo không
gian ba chiều gồm: biến dạng thuổng và vẹo trong của nửa
sau bàn chân, biến dạng khép ngửa của nửa trước bàn chân
và biến dạng lõm gan chân. Bàn chân khoèo bẩm sinh có
thể là bệnh lý khi phối hợp với rối loạn thần kinh cơ hoặc
các hội chứng toàn thân như thoát vị tủy-màng tủy, cứng
đa khớp bẩm sinh nhưng phần lớn bàn chân khoèo bẩm
sinh là vô căn. Bàn chân khoèo bẩm sinh vô căn đôi khi
kèm theo lỏng lẻo khớp, trật khớp háng bẩm sinh, thiếu
ngón, và tiền sử gia đình có những dị dạng bàn chân khác
[14]. Với tần suất xấp xỉ 1/1000 trẻ sinh ra còn sống, bàn
chân khoèo bẩm sinh vô căn là một trong những dị tật bẩm
sinh phổ biến nhất. Tần suất này cũng được ghi nhận trong
một số tài liệu tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, điều trị bảo tồn bàn chân khoèo với nắn
chỉnh bằng tay – bó bột hoặc kéo giãn – nắn chỉnh bằng
tay – băng dính và nẹp tùy theo điều kiện mỗi nơi nhưng
rất nhiều trường hợp bị bỏ quên hoặc điều trị không đúng,
khi lớn lên thì phải phẫu thuật. Phương pháp điều trị bảo
tồn thường phối hợp cả bài tập kéo giãn, kích thích cơ,
băng dính, nẹp bột hoặc bó bột và nẹp chỉnh hình ban
đêm. Kết quả của phương pháp điều trị bảo tồn vẫn còn
nhiều bàn chân khoèo cần chuyển sang phẫu thuật từ 10-
33,7%. Hơn nữa, các công trình theo dõi ngắn cho thấy tỉ
lệ tái phát sau phẫu thuật khá cao 8-19% [2],[3],[4]. Mặc
dù Phương pháp Ponseti đang áp dụng khá phổ biến tại
Việt Nam [1],[8], nhưng chưa có công trình đánh giá kết
quả và theo dõi.
Do vậy, nghiên cứu này là nhằm đánh giá kết quả theo
dõi tối thiểu 2 năm bàn chân khoèo bẩm sinh điều trị theo
phương pháp Ponseti.
II. Số LIệU Và PHƯơNG PHáP:
Phương pháp Ponseti được áp dụng từ năm 2004 tại
bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình. Các bàn chân khoèo
(BCK) được phân loại và đánh giá trong quá trình nắn
chỉnh-bó bột theo thang điểm Diméglio. 142 BCK bẩm
sinh vô căn ở 101 bệnh nhi được theo dõi từ 24 tháng đến
117 tháng (trung bình 44 tháng).
1. Phân loại Diméglio: đánh giá biến dạng thuổng, vẹo
trong, xoay trong, khép, lõm, nếp gấp sau, nếp gấp trong
và sức cơ. Các thành phần thuổng, vẹo trong, xoay trong
và khép được lượng giá từ 0 đến 4 điểm (hình 1). Mỗi biến
dạng lõm, nếp gấp sau, nếp gấp trong và sức cơ được tính
1 điểm. Điểm tổng cộng được phân thành Độ I (nhẹ) <5
điểm, Độ II (vừa) <10 điểm, Độ III (nặng) <15 điểm, Độ
IV (rất nặng) ≥15 điểm.
Hình 1: Mức độ của biến dạng thuổng,
vẹo trong, xoay trong và khép.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
190
2. Kỹ thuật nắn chỉnh và bó bột:
a. Nắn chỉnh bằng tay:
Trước khi bó bột, nắn chỉnh bằng tay khoảng 2-3
phút cho mỗi bàn chân. Nắn nhẹ nhàng tránh làm đứa
bé đau và giẫy giụa. Các biến dạng được nắn chỉnh
cùng lúc ngoại trừ biến dạng thuổng.
Cố định xương sên: bằng cách đặt ngón cái trên
đầu xương sên (hình 2.1), ngón trỏ cùng bàn tay đặt
sau mắt cá ngoài. Điều này cố định khớp cổ chân hơn
khi bàn chân dang bên dưới cổ chân, tránh dây chằng
mác gót sau kéo xương mác ra sau trong khi nắn.
Nắn chỉnh: Bước đầu tiên là nắn nửa trước bàn
chân thẳng trục theo nửa sau bàn chân để chỉnh sửa
biến dạng lõm. Bước tiếp theo là giạng bàn chân và
kéo giãn dọc trục bằng bàn tay khác trong tư thế ngửa
mà không gây ra khó chịu cho đứa bé (hình 2.1).
Hình 2.1: Nắn chỉnh bằng tay.
b. Bó bột:
Sử dụng gòn thấm nước
5-7,5cm và bột thạch cao 5-7,5cm.
Bột sợi thủy tinh được sử dụng
tăng cường bên ngoài bột thạch
cao đối với một số trẻ lớn hoặc chỉ
có bột sợi thủy tinh đối với một số
trường hợp sau khi cắt gân.
Bàn chân ở tư thế nắn chỉnh
tối đa trước khi bó bột (hình
2.2A).
Quấn gòn: lớp gòn mỏng,
chặt (hình 2.2B). Gòn quấn trùm
lên các ngón tay của bàn tay giữ
tư thế nắn chỉnh bàn chân nằm
bên dưới và tiếp tục giữ nguyên vị trí trong lúc
bó bột.
Quấn bột chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu bó
dưới gối (hình 2.2C); uốn khuôn bột trong quá trình
bó bột được thực hiện bởi cả tác giả và kỹ thuật viên
(hình 2.2D), chờ đến khi bột cứng (2.2E) thì tiếp tục.
Giai đoạn thứ hai là bó bột tiếp lên đùi (hình 2.2F);
thường dùng vài lớp nẹp bột dọc trước gối ở tư thế
gấp 900 (hình 2.2G).
Chỉnh sửa bột: cắt bằng kéo phần bột thừa ở
mặt lưng ngón chân đến khớp bàn đốt (hình 2.2H-I).
Thay bột mỗi 5-9 ngày. Trung bình có 4 lần
bó bột; lần 1 chỉnh biến dạng lõm, lần 2 và 3 chỉnh
khép và vẹo trong, lần 4 cắt gân gót chỉnh biến dạng
thuổng. Nếu cắt gân gót thì giữ bột 3-4 tuần.
Trước đây, tháo bột được thực hiện tại phòng
bột với máy cưa bột. Tuy nhiên, có một số trường hợp
bị đứt da nên gần đây chúng tôi hướng dẫn cho người
nhà tự tháo bột vào đêm hôm trước khi tái khám (nếu
bệnh nhi ở xa) hoặc trước khi đến tái khám (nếu bệnh
nhi ở thành phố hoặc vùng lân cận) bằng cách ngâm
trong nước ấm đến khi bột mềm thì lột từng lớp hoặc
cắt bằng dao, kéo.
Hình 2.2: Các bước bó bột.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
191
c. Cắt gân gót qua da:
Chỉ định: gập lưng < 200 sau khi đã chỉnh sửa hết
các biến dạng khác (chưa đạt được điểm 0 theo phân loại
Diméglio), bàn chân lồi khi cố gập lưng tối đa, bàn chân
lõm nặng khó nắn chỉnh, và nguy cơ tuột bột tái diễn.
Một số trường hợp x quang nghiêng với bàn chân
gập lưng tối đa được chỉ định để đánh giá bàn chân có bị
biến dạng lồi hay không khi gập lưng tối đa nếu lâm sàng
chưa chắc chắn bàn chân lồi trước khi quyết định cắt gân
(hình 2.3).
Hình 2.3: BCK (P), sau 5 lần bó bột có biến dạng lồi
khi gập lưng tối đa.
Kỹ thuật: Cắt gân gót qua da được thực hiện tại phòng
mổ với gây mê. Trước khi cắt gân, gấp bàn chân về phía
mặt lưng để sờ thấy gân gót căng dưới da và giữ tư thế
này trong khi cắt gân. Sau khi rạch dọc da dài 0,5cm trên
lồi củ xương gót 1,5cm ngay bên trong gân gót, luồn lưỡi
dao số 11 bên dưới gân gót từ trong ra ngoài và cắt gân gót
bằng đầu lưỡi dao. Khi gân gót đứt hoàn toàn, sẽ cảm nhận
được tiếng kêu “bụp” và gập lưng bàn chân được cải thiện
(hình 2.4).
Hình 2.4: Cắt gân gót qua da (A) tăng độ gập lưng bàn
chân (B).
d. Nẹp giạng sau bó bột
Nẹp máng bột sợi thủy tinh (hình 2.5) hoặc nẹp giạng
Denis Brown tự chế (hình 2.6) được áp dụng.
Hình 2.6: Nẹp giạng
Denis Brown tự chế.
Hình 2.5: Nẹp máng bột
sợi thủy tinh.
Các bệnh nhi được hướng dẫn mang nẹp liên tục từ 2-3
tháng sau khi hoàn tất giai đoạn bó bột, sau đó là mang
nẹp ban đêm hoặc khi ngủ cho đến khi được ít nhất là 2
năm tuổi.
e. Xử trí tái phát:
Nắn chỉnh - bó bột lại và thay bột mỗi 2 tuần. Nếu
cần có thể cắt gân gót lần 2 với điều kiện cách lần 1 ít nhất
6 tháng.
Sau khi nắn chỉnh tái phát cần theo dõi quá trình
mang nẹp nghiêm ngặt hơn.
f. Biến dạng ngửa động:
Nếu chỉ có biến dạng ngửa động đơn thuần thì thực
hiện phẫu thuật chuyển gân chày trước ra xương chêm 3 từ
3 tuổi trở đi (hình 2.7).
3. Phẫu thuật bổ sung xử trí di chứng:
Di chứng bàn chân trước khép: thực hiện phẫu thuật
cắt ngắn xương hộp từ 3 tuổi, có thể kèm theo kéo dài
xương chêm 1 từ 5 tuổi (hình 2.8).
4. Theo dõi bệnh định kỳ:
Giai đoạn nắn chỉnh và bó bột: đánh giá, nắn chỉnh,
thay bột hằng tuần đến khi bàn chân đạt được mức độ nắn
chỉnh đạt yêu cầu. Nếu cắt gân gót thì giữ bột 3-4 tuần.
Giai đoạn mang nẹp: tái khám hàng tháng trong 3 tháng
đầu, sau đó tái khám mỗi 3-6 tháng đến 2 tuổi để đánh giá
tái phát sớm.
Giai đoạn từ 2-3 tuổi trở đi: theo dõi hằng năm, lên kế
hoạch phẫu thuật chỉnh sửa các biến dạng tái phát và di
chứng.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
192
Hình 2.7: Chuyển gân chày trước từ xương chêm 1 ra
xương chêm 3 (A), và neo chỉ dưới gan bàn chân (B).
Mieáng xöông hoäp hình neâm
ñöôïc cheøn vaøo xöông cheâm 1
Mieáng xöông hoäp hình
neâm ñöôïc laáy ra
A B
Hình 2.8: Cắt ngắn xương hộp (A), và kéo dài xương chêm 1 (B).
5. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả:
a. Kết quả nắn chỉnh ban đầu: được đánh giá
sau khi bỏ bột lần cuối và chuẩn bị mang nẹp. Áp
dụng phân loại Diméglio, chúng tôi đưa ra tiêu chuẩn
đánh giá kết quả nắn chỉnh ban đầu là hoàn chỉnh,
chấp nhận, hoặc thất bại:
Hoàn chỉnh: Nắn chỉnh hết 5 biến dạng (lõm,
thuổng, vẹo trong, khép và xoay trong).
Chấp nhận: Còn 1 trong 5 biến dạng nhưng
không cần phải phẫu thuật (đối với chúng tôi 1 biến
dạng chỉ được chấp nhận khi không quá 1 điểm theo
phân loại Diméglio).
Thất bại: Cần phẫu thuật.
b. Tái phát: được đánh giá trong quá trình theo
dõi định kỳ đến thời điểm theo dõi sau cùng. Các
biến dạng có bị tái phát hay không được lượng giá
theo phân loại Diméglio: 1 biến dạng được xem là tái
phát và cần xử trí nếu ≥ 2 điểm.
c. Kết quả sau cùng: được đánh giá tại thời điểm
theo dõi sau cùng tối thiểu là 24 tháng. Đánh giá kết
quả theo dõi sau cùng tốt, trung bình và xấu theo
phân loại của Richards B. và cộng sự [13]:
Tốt: bàn chân bằng sau khi cắt gân gót qua da
(hoặc không cần cắt gân gót).
Trung bình: bàn chân bằng sau khi (hoặc cần
phải) được giải phóng phần mềm phía sau, chuyển
gân chày trước, cắt ngắn cột ngoài hoặc phối hợp.
Xấu: bàn chân bằng sau khi (hoặc cần phải)
được giải phóng phần mềm phía sau-trong.
6. Phân tích thống kê:
Tỉ lệ, trị số trung bình theo các biến số.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
193
Đánh giá mối tương quan giữa các biến số và kết
quả bằng kiểm định chi bình phương, kiểm định chuẩn xác
Fisher, kiểm định t test, kiểm định Kruskal-Wallis, hồi qui
đa biến.
III. KếT QUẢ:
Bảng 3.1: Đặc điểm nhóm bệnh theo dõi (n = 142).
Bieán soá Soá BCK Tæ leä (%)
Tuoåi baét ñaàu ñieàu trò
Sô sinh
1-3th.
4-6th.
7-12th.
Möùc ñoä naëng
Nheï
Vöøa
Naëng
Raát naëng
Keát quaû ban ñaàu
Hoaøn chænh
Chaáp nhaän
Thaát baïi
Chöông trình neïp (*)
Tuaân thuû
Khoâng tuaân thuû
Taùi phaùt (*)
Khoâng
Coù
Keát quaû sau cuøng
Toát
Trung bình
Xaáu
61
53
25
3
3
70
65
4
105
31
6
122
14
127
9
106
32
4
43,0
37,3
17,6
2,1
2,1
49,3
45,8
2,8
74,0
21,8
4,2
89,7
10,3
93,4
6,6
74,7
22,5
2,8
(*): 6 giá trị khuyết là những BCK điều trị thất bại với
phương pháp Ponseti phải chuyển sang phẫu thuật, và
các BCK này không tham gia vào chương trình mang nẹp
và không theo dõi tái phát trong giai đoạn mang nẹp như
những BCK đã được nắn chỉnh thành công ban đầu nhưng
vẫn được đánh giá kết quả theo dõi cuối cùng.
Tái phát:
• Tái phát biến dạng thuổng ở 8 BCK của 6 BN
• Tái phát biến dạng vẹo trong + thuổng ở 1 BCK
• Các BCK tái phát chủ yếu trong 6 tháng theo dõi đầu
tiên với 8 BCK (5,9%); sau 12 tháng không ghi nhận BCK
nào tái phát.
Bảng 3.2: Các yếu tố liên quan đến tái phát (n=136).
Caùc yeáu toá lieân quan P
Tuoåi baét ñaàu ñieàu trò
Möùc ñoä naëng
Keát quaû naén chænh ban ñaàu
Chöông trình neïp
0,447
1,000
0,005
0,000
Xử trí tái phát:
• Tất cả 9 BCK tái phát được bó bột lại. Thay bột mỗi
2 tuần.
• 2 BCK được bó bột lại thành công mà không cần cắt
gân gót lại lần 2.
• 6 BCK được nắn bó bột lại kèm cắt gân gót lần 2
(83%).
• 1 BCK tái phát biến dạng vẹo trong + thuổng được
phẫu thuật giải phóng phía sau do nắn bó bột lại không
thành công.
Di chứng và phẫu thuật chỉnh sửa di chứng của các
BCK theo dõi (n = 142)
• 25/142 BCK (17,6%) có biến dạng ngửa động khi
đi: 13/142 (9,2%) BCK được phẫu thuật chuyển gân chày
trước, 12/142 (8,5%) BCK có chỉ định phẫu thuật chuyển
gân chày trước.
• 3 BCK trong nhóm chuyển gân chày trước kèm theo
cắt gân gót lần 2.
• 1 BCK được cắt cân mạc cơ bụng chân lúc 5 tuổi.
• 4/142 BCK (2,8%) có biến dạng khép nửa trước bàn
chân được phẫu thuật cắt ngắn xương hộp lúc 5 tuổi (1
trường hợp kèm kéo dài xương chêm): 3 chuyển gân trước
đó, 1 chuyển gân cùng lúc.
Bảng 3.3: Các yếu tố liên quan đến kết quả sau cùng
trong phân tích đơn biến (n=142).
Caùc yeáu toá lieân quan P
YÙ nghóa
Tuoåi baét ñaàu ñieàu trò
Möùc ñoä naëng
Keát quaû ban ñaàu
Thôøi gian theo doõi
Khoâng yù nghóa
Chöông trình neïp
Taùi phaùt
0,05
0,048
0,000
0,000
0,509
0,413
Bảng 3.4: Các yếu tố liên quan đến kết quả sau cùng
trong phân tích đa biến (n = 136).
Caùc yeáu toá lieân quan P
YÙ nghóa
Tuoåi baét ñaàu ñieàu trò
Thôøi gian theo doõi
Khoâng yù nghóa
Möùc ñoä naëng
Keát quaû ban ñaàu
Chöông trình neïp
Taùi phaùt
0,05
0,048
0,000
0,000
0,509
0,413
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
194
Các yếu tố ảnh hưởng có ý nghĩa đến kết quả sau
cùng trong phân tích đơn biến như mức độ nặng, kết
quả nắn chỉnh ban đầu không còn có ý nghĩa nữa
trong phân tích đa biến. Trong khi đó, các yếu tố như
tuổi bắt đầu điều trị, thời gian theo dõi ảnh hưởng có
ý nghĩa đến kết quả sau cùng với cả phân tích đơn
biến và đa biến.
IV. BàN LUẬN:
Theo Ponseti I. [11], tái phát ở BCK sau nắn chỉnh
ban đầu là tái phát sớm với bàn chân khép, vẹo trong,
thuổng hoặc tái phát ở lứa tuổi biết đi. Trong công
trình này, đánh giá tái phát BCK dựa trên nền tảng
thang điểm Diméglio; 1 biến dạng được xem là tái
phát và cần xử trí nếu ≥ 2 theo thang điểm Diméglio.
Bảng 3.1 ghi nhận tỉ lệ tái phát 6,6% (9/136 BCK);
chiếm đa số là tái phát biến dạng thuổng (8 BCK/6
BN), tái phát biến dạng vẹo trong + thuổng ở 1 BCK.
Tỉ lệ tái phát khi theo dõi trung bình 44 tháng này là
thấp và chấp nhận được khi so sánh với các tác giả
khác ở nước ngoài [7],[9],[10],[13] (bảng 4.1).
Tỉ lệ tái phát có sự khác biệt giữa chúng tôi và các
tác giả trên có lẽ do cách đánh giá tái phát khác nhau.
Tái phát theo Morcuende J. [10] được định nghĩa là
khi xuất hiện bất cứ thành phần nào của biến dạng
như lõm, khép, vẹo trong, và thuổng nhưng tác giả
không đưa ra được thang điểm cụ thể; tái phát theo
Dobbs M. [7] phần lớn ở bàn chân sau với biến dạng
thuổng và vẹo trong; tái phát theo Haft G. [9] khi cần
phải can thiệp phẫu thuật dù được bó bột lại trước
đó, và tái phát được phân loại nhẹ khi cần cắt gân lại
qua da, kéo dài gân gót hoặc chuyển gân chày trước,
nặng khi cần giải phóng phía sau hoặc sau trong. Hai
tác giả sau cũng không đưa ra tiêu chuẩn chi tiết đánh
giá tái phát.
Bảng 4.1: Tỉ lệ tái phát của phương pháp Ponseti.
Soá
BCK
Theo doõi
(thaùng)
Tæ leä taùi
phaùt
Taùc giaû 136 44 6,6
Morcuende J.
& CS [10]
256 26 11,0
Dobbs M. &
CS [7]
86 27 31,0
Haft G. & CS
[9]
73 35 41,0
Richards B. &
CS [13]
267 51,6 37,0
Kết quả sau cùng của công trình này là tương
đồng với kết quả theo dõi của Radler C. và cộng sự
[12], và có xu hướng tốt hơn so với kết quả theo dõi
của Richards B. và cộng sự (bảng 4.2). Đây là những
công trình có tiêu chuẩn đánh giá và thời gian theo
dõi tương đương với công trình này.
Bảng 4.2: Kết quả theo dõi sau cùng của phương
pháp Ponseti.
Soá
BCK
Theo
doõi
(thaùng)
Toát
(%)
Trung
bình
(%)
Xaáu
(%)
Taùc giaû 142 44 74,7 22,5 2,8
Radler C. &
CS [12]
182 62,4 80,0 13,0 5,0
Richards B.
& CS [13]
267 51,6 72,0 12,0 16,0
Bảng 3.4 cho thấy yếu tố thời gian theo dõi cùng
với yếu tố tuổi bắt đầu điều trị vẫn còn ảnh hưởng có
ý nghĩa đến kết quả sau cùng trong phân tích đa biến.
Như vậy, các công trình theo dõi càng dài sẽ cho kết
quả sau cùng càng đáng tin cậy hơn. Các BCK trong
công trình này chưa đủ số liệu để báo cáo kết quả lâu
dài nhưng đến nay các BCK được theo dõi sau điều
trị thành công ban đầu với phương pháp Ponseti chỉ
có một trường hợp được phẫu thuật xâm nhập triệt để
là giải phóng phần mềm phía sau do tái phát. Dù các
bằng chứng theo dõi lâu dài còn hạn chế nhưng cho
thấy các phương pháp ít xâm nhập, đặc biệt là phương
pháp Ponseti có kết quả lâu dài tốt hơn.[5],[6].
V. KếT LUẬN:
Tóm lại, công trình này chưa đánh giá kết quả lâu
dài các BCK được điều trị với phương pháp Ponseti
nhưng đã xác định các yếu tố nguy cơ chính gây tái
phát là kết quả nắn ban đầu không hoàn chỉnh và
không tuân thủ chương trình mang nẹp. Kết quả theo
dõi sau cùng trung bình 44 tháng cho thấy kết quả
tốt, trung bình chiếm tỉ lệ khá cao 74,2%, 22,7% và 2
yếu tố chính ảnh hưởng đến kết quả sau cùng là tuổi
bắt đầu điều trị và thời gian theo dõi.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
195
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Văn Đức (2009), “Chỉnh hình bàn chân khoèo”. Nhà xuất
bản Thể dục Thể thao, Hà Nội.
2. Bùi Chu Hoành (1995), "Nhận xét điều trị phẫu thuật dị tật
bàn chân khoèo bẩm sinh". Kỷ yếu công trình nghiên cứu
khoa học, nhà xuất bản Y học, tr.89-100.
3. Nguyễn Ngọc Hưng, Nguyễn Quốc Việt (1997), "Điều trị
phẫu thuật bàn chân khoèo bẩm sinh". Tạp chí Y học thực
hành, số 5: tr.6-8.
4. Nguyễn Văn Thanh (1985), “Góp phần nghiên cứu kết quả
sau mổ chân khoèo bẩm sinh”. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y
khoa. Đại học y dược Tp. Hồ Chí Minh.
5. Cooper D., Dietz F. (1995), "Treatment of idiopathic clubfoot.
A thirty-year follow-up". J Bone Joint Surg Am, 77, pp.1477-
1489.
6. Dobbs M., Nunley R., Schoenecker P. (2006), "Long-term
follow-up of the patient with clubfeet treated with extensive
soft-tissue release." J Bone Joint Surg Am, 88, pp.986-996.
7. Dobbs M., Rudzki J., Purcell D., et al. (2004), "factors
predictive of outcome after use of the Ponseti method for the
treatment of idiopathic clubfeet". J Bone Joint Surg Am, 86,
pp.22-27.
8. Evans A., Do V.T. (2009), "A review of the Ponseti method
and development of an infant clubfoot program in Vietnam". J
Am Podiatr Med Assoc, 99(4), pp.306-316.
9. Haft G., Walker C., Crawford H. (2007), "Early clubfoot
recurrence after use of the Ponseti method in a New Zealand
population." J Bone Joint Surg Am, 89, pp.487-493.
10. Morcuende J., Dolan L., Dietz F., Ponseti I. (2004), "Radical
reduction in the rate of the extensive corrective surgery for
clubfoot using the ponseti method". Pediatrics, 113, pp.376-
380.
11. Ponseti I., et al. (2005), "Clubfoot: Ponseti management". In:
Staheli L. ed, Global-HELP Publication.
12. Radler C., Mindler GT., Riedl K., et al. (2013), “Midterm
results of the Ponseti method in the treatment of congenital
clubfoot”, Int Orthop, 37(9), pp.1827-1831.
13. Richards B., Faulks S., Rathjen K., Karol L., et al. (2008),
"A comparison of two nonoperative methods of idiopathic
clubfoot correction: the Ponseti method and the French
functional (physiotherapy) method". J Bone Joint Surg Am, 90,
pp.2313-2321.
14. Sullivan J. (1996), The child's foot, in Lovell and Winter's
pediatric orthopedics. 4th ed. Lippincott-Raven, Philadelphia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_theo_doi_toi_thieu_2_nam_ban_chan_khoeo_bam_sinh_die.pdf