Kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối
động mạch tại chỗ
Theo bảng 7 và 8, qua 50 trường hợp được
thực hiện loại phẫu thuật này, đã có 86% cho kết
quả sớm sau mổ tốt, 4% chỉ đạt mức trung bình,
và 10% chưa tốt. Phân tích các trường hợp Bn
phải đoạn chi sau mổ cho thấy có nhiều yếu tố
sẽ phải được cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi
tiến hành phẫu thuật.
Một số vấn đề có thể xảy ra sau các phẫu
thuật bắc cầu nối tại chỗ điều trị tắc ĐM mạn
tính chi dưới như: hẹp hoặc tắc miệng nối;
nhiễm trùng vết mổ hay từ ổ loét hoặc mỏm cụt
lan rộng, biến chứng tác động từ những bệnh lý
nội khoa nặng kèm theo. Đặc biệt với một kỹ
thuật mới được đưa vào áp dụng luôn cần có
thời gian hoàn chỉnh và phát triển.
Trong 05 trường hợp hẹp tắc miệng nối
(bảng 8) dẫn tới Bn phải đọan chi, chiếm 10%
các trường hợp đã có 3/5 Bn có các bệnh ĐTĐ,
suy thận mạn hoặc cả hai. Cũng có 3/5 Bn sử
dụng các loại cầu nối phức tạp. Tất cả 05 Bn đều
có loét chi, nhiễm trùng lan tỏa và mức độ tắc
ĐM mạn ở độ IV. Như vậy căn cứ vào các yếu
tố để đảm bảo một miệng nối thông tốt sau
phẫu thuật bắc cầu nối ĐM như đã trình bày ở
trên thì có thể lý giải được một phần kết quả
trong nghiên cứu chưa đáp ứng như mong
muốn (bảng 8).
Theo nghiên cứu của Bv Chợ Rẫy(5) trong 21
ca thực hiện cầu nối từ 5/2004 đến 12/2004 có 5
ca (chiếm 24%) có nhiễm trùng vết mổ, tắc
miệng nối 01 trường hợp và hẹp miệng nối (hẹp
70% miệng nối xa) 1 trường hợp. Một số tác giả
nước ngoài như Joseph Dennis gặp tỷ lệ tắc cầu
nối sớm khoảng 2- 3%, Davidson là 4,2%.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 449 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả thực hiện phẫu thuật bắc cầu tại chỗ trong tắc động mạch mạn chi dưới bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van tại bệnh viện nhân dân 115, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 82 
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ 
TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI BẰNG TĨNH MẠCH HIỂN 
CÓ NỘI SOI PHÁ VAN TẠI BV. NHÂN DÂN 115 
Cao Văn Thịnh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thiếu máu mạn tính chi dưới thường gặp và do nhiều nguyên nhân. Điều trị nhóm bệnh này 
có nhiều phương pháp nhưng kết quả còn khiêm tốn. Phẫu thuật bắc cầu động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch 
hiển có thực hiện nội soi phá van đã được thực hiện mặc dù còn nhiều thách thức. 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ trong điều trị thiếu máu 
mạn tính chi bằng kỹ thuật tĩnh mạch hiển có nội soi phá van tại Bv Nhân Dân 115 từ 1/2006 đến 12/2010. 
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, có phân tích các trường hợp lâm sàng. 
Kết quả: Từ 01/2007 đến 12/2010 tại Bv Nhân Dân 115 đã phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ cho 50 trường 
hợp thiếu máu mạn tính chi dưới, gồm 10 nữ và 40 nam. Nguyên nhân thiếu máu mạn chi dưới do biến chứng 
của bệnh đái tháo đường (06 Bn), xơ vữa động mạch (37 Bn), Suy thận mạn (03 Bn) và bệnh Buerger (4 Bn). 
Các trường hợp sau phẫu thuật có kết quả tốt chiếm 86%, trung bình 4% và xấu 10%. 
Kết luận: Ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có thực hiện nội soi phá van trong phẫu thuật bắc cầu nối điều trị 
thiếu máu mạn tính chi dưới là kỹ thuật mới, tiến bộ, áp dụng khả thi tại Việt Nam. Những kết quả sớm sau 
triển khai kỹ thuật này tại BV Nhân dân 115 là bước đầu được ghi nhận. Bên cạnh những ưu điểm của kỹ thuật 
còn những thách thức được đặt ra như: Đánh gía cẩn thận Bn trước mổ và lựa chọn chỉ định phẫu thuật ; Tận 
dụng tối đa các phương tiện như siêu âm Doppler, DSA, CTscan trong chẩn đoán, theo dõi bệnh và nội soi lòng 
mạch phá van khi thực hiện kỹ thuật ; Tích luỹ kinh nghiệm và huấn luyện kỹ càng cho nhóm các Bs phẫu thuật 
viên thực hiện kỹ thuật mới tại cơ sở điều trị ; Tăng cường số lượng các bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật mới 
trong phẫu thuật bắc cầu nối nhằm tăng tính thuyết phục và tính khoa học của nghiên cứu. 
Từ khóa: Phẫu thuật bắc cầu động mạch tại chỗ có thực hiện nội soi phá van, thiếu máu mạn tính chi 
dưới. 
ABSTRACT 
INSITU SAPHENOUS VEIN BYPASS GRAFT WITH ANGIOSCOPEFOR VALVECTOMIES IN THE 
SURGICAL TREATMENT OFCHRONIC ARTERIAL ISCHEMIA OF THE LOWER LIMBS 
Cao Van Thinh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 81 - 91 
Introduction: Chronic low-extremity arterial ischemia is a common disease with many causes. While there 
are many treatments available to these patients, none yield more than modest results. In situ saphenous vein 
bypass graft with angioscope in which valves are cut under direct visualization is a surgical technique newly 
available in Vietnam. Although there are many difficulties, preliminary results suggest that the implementation of 
this technique will improve the management of this disease. 
Objectives: Assessment of preliminary results of in situ saphenous vein bypass graft technique with 
angioscope. 
* Khoa Ngoại Lồng Ngực - ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Cao Văn Thịnh ĐT: 0908.338.823 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 83 
Methods: Prospective and case study. Patients with chronic ischemia of the lower extremity were admitted 
to the Vascular-Thoracic Unit, 115 people’s Hospital, HCM city. 
Results: For nearly 2 years (June 2004 to Sep 2006), at department of General Surgery – 115 People’s 
Hospital, our Unit received 50 cases with chronic ischemia of the lower extremity, including 26 females and 34 
males with the average age 54. The causes of diseases included diabetics (10 cases), arterial sclerotherosis (32 
cases) and the others (8 cases). 9 cases were carried out bypass technique in which 3 patients were done with in 
situ saphenous vein bypass graft with angioscope. The result of 3 patients is good. The ischemia was improved and 
ulceration at foot was dry and heal. 
Conclusion: In situ saphenous vein bypass graft with angioscope is a surgical technique which has been 
applied in many developed countries on the world. It is newly available in Vietnam. Advantages of this technique 
are less damage to veins and nerves, and disadvantages are equipment, indications, technique and the role of 
anaesthesia, but with the preliminary results, we think that the implementation of this technique will improve the 
management of this disease in Vietnam. 
Key words: Chronic low-extremity arterial ischemia, in situ saphenous vein bypass graft with angioscope. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới có 
thể gặp cả ở các bệnh nhân (Bn) có hoặc không 
có đái tháo đường. Vị trí tắc mạch mạn thường 
thấy như động mạch đùi, khoeo, chầy hay mu 
chân. Khi tổn thương càng ở đầu xa, việc điều 
trị và tiên lượng càng khó khăn hơn. Không ít 
các trường hợp bệnh đã phải đoạn chi. 
Với mục đích giảm thiểu số Bn phải đoạn 
chi, nhiều nhà khoa học đã nỗ lực áp dụng 
nhiều phương pháp và kỹ thuật thích hợp 
nhằm tăng tưới máu phần ngọn chi. Nếu tính 
từ thập niên 40-50 việc điều trị tắc hệ thống từ 
động mạch chầy chỉ bằng đoạn chi, thậm chí 
phẫu thuật đoạn chi được coi là một đặc thù 
dành cho biến chứng của bệnh đái tháo 
đường. Trong thập niên 60-70 phẫu thuật bắc 
cầu nối đùi – khoeo đã được nghiên cứu và áp 
dụng thành công. Vào những năm 80, nhóm 
các Bác sĩ ở New York đã sử dụng kỹ thuật 
ghép tại chỗ và có khả năng bắc cầu nối đến 
động mạch chầy. Năm 1985 Campbell(1,4) cùng 
các đồng nghiệp ở Boston (Mỹ) đã ghi nhận 
một trường hợp Bn có tổn thương động mạch 
chầy nhưng còn mạch mu chân và người bệnh 
đã được bắc cầu nối từ động mạch đùi xuống 
động mạch mu chân thành công. Kỹ thuật này 
đã mở ra nhiều khả năng trong điều trị chứng 
tắc mạch mạn ở Bn đái tháo đường. 
Phẫu thuật bắc cầu bằng tĩnh mạch hiển có 
thể sử dụng đoạn tĩnh mạch tự thân đảo chiều 
hay thuận chiều. Một số trường hợp có thể dùng 
tĩnh mạch cánh tay khi tĩnh mạch hiển không sử 
dụng được. Với kỹ thuật ghép tại chỗ, tĩnh mạch 
hiển được giữ thuận chiều và phải thực hiện thủ 
thuật phá van tĩnh mạch đảm bảo sự lưu thông 
tốt của dòng máu chảy. Hiện nay kỹ thuật này 
đã được nhiều tác giả nước ngoài sử dụng 
thường qui và cho hiệu quả khả quan. 
Ở Việt Nam, bệnh lý thiếu máu chi dưới khá 
thường gặp chủ yếu do xơ vữa động mạch hoặc 
bệnh Buerger, biến chứng của bệnh đái tháo 
đường. Phẫu thuật bắc cầu nối phục hồi lưu 
thông tưới máu ngọn chi cũng đã được nghiên 
cứu áp dụng. Giai đoạn 1990-1994 tại Bệnh viện 
(Bv) Chợ Rẫy TP.HCM theo Phạm Thọ Tuấn 
Anh đã thực hiện được 21 trường hợp, đa số là 
tắc trung tâm (tắc gần). Trong 7 trường hợp 
dùng tĩnh mạch tự thân, chủ yếu dùng đảo đầu 
khi ghép nối, chỉ có 01 trường hợp được dùng 
thuận chiều. Những khó khăn khi ghép tĩnh 
mạch hiển tại chỗ thuận chiều không chỉ đơn 
thuần về kỹ thuật mà có liên quan đến vấn đề 
phá van tĩnh mạch hiển. Với những tiến bộ về y 
học trong những năm gần đây cho phép áp 
dụng nội soi lòng mạch giúp hướng dẫn và 
kiểm tra khi tiến hành phá van tĩnh mạch sẽ 
đảm bảo cho thành công chung của cuộc phẫu 
thuật. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 84 
Trong khoảng 03 năm qua, từ cuối năm 
2003, với sự hợp tác quốc tế và sự phối hợp làm 
việc tốt hơn giữa các chuyên khoa như tim 
mạch, nội tiết, gây mê hồi sức, chăm sóc bàn 
chân và phẫu thuật mạch máu. Kỹ thuật ghép 
bắc cầu tĩnh mạch hiển tại chỗ có sử dụng nội 
soi phá van đã được bàn bạc, nghiên cứu và bắt 
đầu áp dụng tại Bv Bình Dân và nay tại Bv 
Nhân Dân 115 TP.HCM. Kết quả của những 
trường hợp phẫu thuật phối hợp giữa các Bác sĩ 
Việt Nam và các Bác sĩ Mỹ thuộc Đại học 
Harvard, với những trang thiết bị cần thiết tối 
thiểu và một số kinh nghiệm ban đầu rút ra từ 
cách chọn bệnh, chỉ định phẫu thuật, theo dõi 
đánh giá sau mổ  đến xây dựng kế hoạch phát 
triển kỹ thuật mới tại các cơ sở điều trị tại Việt 
Nam là rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. 
Phân tích các trường hợp lâm sàng có thiếu 
máu mạn tính chi dưới được phẫu thuật bắc cầu 
nối tại chỗ có nội soi phá van tĩnh mạch hiển sẽ 
làm cơ sở cho việc triển khai mạnh hơn kỹ thuật 
mới tại Việt Nam, nhằm hội nhập và tiếp cận 
một cách tích cực trong điều trị các bệnh lý về 
mạch máu ngoại biên trong hoàn cảnh hiện nay. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát 
Nhận xét kết quả sớm sau phẫu thuật bắc 
cầu nối động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển 
có nội soi phá van trong điều trị tắc động mạch 
mạn tính chi dưới tại BV Nhân Dân 115 
TP.HCM từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2010. 
Mục tiêu chuyên biệt 
Đặc điểm dịch tễ học và bệnh lý tắc động 
mạch mạn của nhóm bệnh nghiên cứu. 
Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật bắc 
cầu nối động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển 
có nội soi phá van trong điều trị tắc động mạch 
mạn chi dưới. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, phân tích 
các trường hợp lâm sàng. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả các bệnh nhân có thiếu máu mạn tính 
chi dưới được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ 
bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá van gặp tại 
BV Nhân Dân 115 từ tháng 1/2007 đến tháng 
12/2010. 
Thu thập và phân tích các dữ liệu 
Tuổi, giới, lý do nhập viện, bệnh sử và tiền 
sử bệnh. 
Kết quả thăm khám lâm sàng và cận lâm 
sàng. 
Chỉ định và dự kiến phẫu thuật. 
Kết quả sớm sau phẫu thuật. 
Kỹ thuật bắc cầu ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển 
có nội soi phá van 
Thực hiện một đường rạch da dài để bộc lộ 
toàn bộ tĩnh mạch hiển trong (theo hình vẽ) tới 
vị trí đầu dưới đoạn cần làm cầu nối. Sau khi 
tĩnh mạch hiển được bộc lộ và buộc thắt các 
nhánh bên sẽ sử dụng dụng cụ nội soi phá van 
(có loại phá van thẳng được dùng khi đoạn tĩnh 
mạch ghép ngắn khoảng 20-25cm. Loại phá van 
sợi mềm dùng khi tĩnh mạch ghép trên 25cm, 
trên đầu mỗi dụng cụ có móc phá van – theo 
hình vẽ). 
Khi đã bộc lộ được hai đầu đoạn tĩnh mạch 
hiển cần ghép, đặt đầu camera của máy nội soi 
lòng mạch vào phần đầu trên của đoạn tĩnh 
mạch hiển đã bộc lộ, và sợi mềm phá van được 
luồn ngược lại từ dưới lên. Khi luồn sợi mềm 
phá van được lắp bằng một ống nong đầu tù và 
sẽ được thay bằng đầu hình móc khi đã luồn hết 
đoạn tĩnh mạch. Thủ thuật phá van tĩnh mạch 
được thực hiện khi kéo dần sợi dây mềm xuống 
phía dưới, lưu ý kéo tới đâu thì đầu đèn nội soi 
bám theo tới đó và theo dõi qua việc truyền 
hình ảnh van bị phá trực tiếp trên màn hình. Tại 
vị trí đầu đèn luôn được bơm dung dịch nước 
muối sinh lý làm sạch vi trường, giúp quan sát 
tình trạng của van tĩnh mạch một cách thuận lợi. 
Quá trình quan sát này cho phép hướng dẫn, 
kiểm tra công đoạn phá van và có thể đánh giá 
được ngay hiệu quả. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 85 
Việc phá van tĩnh mạch hiển có thể để 
nguyên tại chỗ theo đúng vị trí giải phẫu hoặc 
bóc tách ra ngoài phá van rồi đặt trở lại theo 
đúng chiều thuận về mặt cơ thể học. Ngoài ra 
phẫu thuật viên có thể bơm nước kiểm tra dòng 
chảy từ trên xuống (theo chiều dòng máu động 
mạch sẽ đi qua) xem dòng chảy có dễ dàng hay 
không, các nhánh bên đã được khống chế tốt 
chưa và có thể nong một cách nhẹ nhàng khẩu 
kính tĩnh mạch định ghép sao cho phù hợp với 
động mạch đi kèm. 
Kỹ thuật nối ghép hai đầu sẽ được thực hiện 
ngay sau đó giữa tĩnh mạch và động mạch. Dễ 
dàng nhận thấy đầu trên tĩnh mạch ghép đủ lớn, 
phù hợp với động mạch đùi. Sau nối hai đầu 
cần kiểm tra sự lưu thông dòng máu bằng 
Doppler loại bỏ túi hoặc chụp động mạch có cản 
quang tại chỗ. Kiểm tra các vị trí buộc nhánh 
bên và khâu phủ dưới da, may da kín. 
Kỹ thuật nội soi hướng dẫn và kiểm tra phá 
van tĩnh mạch hiển 
Đánh giá kết quả phẫu thuật 
Phẫu thuật viên có thể sờ mạch đánh giá 
được dòng chảy tại vị trí trước và sau đầu nối, 
sau đó sử dụng Doppler loại bỏ túi hoặc chụp 
động mạch tại chỗ sau mổ đánh giá sự lưu 
thông của dòng chảy khi cần thiết. 
Giai đoạn Bn tái khám có thể cho Bn chụp 
DSA kiểm tra vị trí đoạn ghép bắc cầu sau mổ 3-
6 tháng. Tắc động mạch mạn tính diễn tiến từ từ 
theo nhiều giai đoạn. Có nhiều cách phân loại 
các giai đoạn bệnh. Nhưng phân loại của Lerich 
và Fontaine có ưu điểm đơn giản, dễ áp dụng: 
 Triệu chứng lâm sàng 
Giai 
đoạn I 
Không có triệu chứng; 
Không có tổn thương tắc nghẽn đáng kể về 
mặt huyết động học 
Giai 
đoạn II 
Đau cách hồi nhẹ và không ảnh hưởng đến 
sinh hoạt hàng ngày; 
Đau cách hồi nặng gây cản trở đến sinh hoạt 
hàng ngày 
Giai 
đoạn III 
Đau ngay cả khi nằm nghỉ ngơi 
Giai 
đoạn IV 
Hoại tử từng phần chi, loét chi do thiếu máu 
cục bộ tại chỗ và thiếu máu cục bộ lan toả ở 
xa; Hoại tử lan rộng quá bàn chân 
Khi bệnh ở giai đoạn III và IV, các tổn 
thương đã rõ ràng, việc chẩn đoán trở nên dễ 
dàng. Ngược lại ở giai đoạn II, cần phải khám 
kỹ, chẩn đoán phân biệt với một số bệnh cơ 
xương khớp hay gặp ở người cao tuổi. Giai 
đoạn này Bn có các dấu hiệu cường giao cảm 
như: vã mồ hôi, lạnh chi, một số bệnh nhân có 
dấu hiệu tím tái chi. 
Đánh giá kết quả sau phẫu thuật làm cầu nối 
tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển, có sử dụng phá nội 
soi phá van, nguyên tắc là dựa vào kết quả thăm 
khám lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng. Tuy 
nhiên với nhóm các Bn lớn tuổi, thường kèm 
theo các bệnh nội khoa nặng nên trong đánh giá 
sau phẫu thuật không tính diễn biến bất thường 
của các bệnh lý kèm theo. Nhóm nghiên cứu 
chia làm các mức độ sau: 
- Kết quả tốt: Các trường hợp Bn sau mổ bắc 
cầu nối tại chỗ có hiệu quả tốt, cầu nối lưu 
thông sau mổ, vết loét ngọn chi (nếu có, hoặc 
mỏm cụt) liền tốt. Tình trạng thiếu máu nuôi chi 
so với trước mổ được cải thiện rõ. Không có các 
biến chứng sau mổ. 
- Kết quả trung bình: Các trường hợp Bn sau 
mổ bắc cầu nối tại chỗ có hiệu quả, nhưng ở 
mức độ không hoàn toàn. Vết loét hay mỏm cụt 
liền chậm. Có thể kèm theo một vài biến chứng 
nhẹ và được cải thiện sau điều trị như chảy 
máu, tụ máu vết mổ, nhiễm trùng vết mổ. 
- Kết quả xấu: Không có sự cải thiện về tình 
trạng tưới máu vùng hạ lưu sau mổ. Cầu nối 
lưu thông kém. Phần mô loét hay mỏm cụt 
không liền, nhiễm trùng lan tỏa dẫn đến phải 
đọan chi. 
Xử lý và trình bày 
Sử dụng các bảng phân tích dữ liệu, bằng 
phần mềm thống kê y học. 
Trình bày kết quả nghiên cứu dưới các bảng, 
biểu và có hình ảnh minh họa. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 1/2007 đến 12/2010 tại BV Nhân 
Dân 115, khoa phẫu thuật Lồng ngực – Mạch 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 86 
máu đã tiếp nhận và phẫu thuật cho 50 trường 
hợp thiếu máu chi dưới. 
Trong đó ghi nhận: 
+ Có 40 nam và 10 nữ, tỉ lệ nam/nữ là 4/1. 
+ Tuổi trung bình 69, người lớn tuổi nhất 93 
tuổi và nhỏ tuổi nhất 28 tuổi. 
+ Nhóm tuổi thường gặp nhất là trên 50 tuổi, 
chiếm 45/50 (90%). 
Nghiên cứu các nguyên nhân và các yếu tố 
nguy cơ gây bệnh cho thấy: 
Bảng 1: Phân bố bn theo các yếu tố nguy cơ 
Yếu tố nguy cơ Số Bn (N=50) Tỉ lệ 
Xơ vữa động mạch (XVĐM) 37 74% 
XVĐM + đái tháo đường 06 12% 
XVĐM + suy thận mạn 03 6% 
Bệnh Buerger 04 8% 
Cộng 50 100% 
Như vậy, đa số các Bn gặp có nguyên nhân 
gây hẹp, tắc động mạch mạn tính là XVĐM. 
Ngoài ra có khoảng gần ¼ các trường hợp khác 
có các bệnh lý nguy cơ kèm theo như đái tháo 
đường, suy thận mạn và bệnh Buerger. 
Mức độ thiếu máu nuôi vùng hạ chi trong 
tắc động mạch mạn được đánh giá theo tiêu 
chuẩn của Leriche - Fontaine cho thấy: 
Bảng 2: Phân độ theo leriche-fontaine 
Phân độ Số Bn (N=50) Tỉ lệ 
Độ I 0 0 % 
Độ II 6 12 % 
Độ III 15 30 % 
Độ IV 29 58 % 
Cộng 50 100 % 
Trên phân nửa số Bn được thực hiện phẫu 
thuật bắc cầu nối tại chỗ có mức độ IV, trái lại 
không gặp các trường hợp có mức độ I. 
Xem xét các vị trí tổn thương tắc hoặc hẹp 
khít có vai trò quan trọng trong tiên lượng và kỹ 
thuật thực hiện, qua nghiên cứu cho thấy: 
Bảng 3: Các vị trí tổn thương gây tắc mạch: 
Vị trí tắc động mạch mạn 
(chia theo 3 vùng giải phẫu) 
Số trường hợp 
(N=50) 
Tỉ lệ 
Từ ĐM chủ - chậu trở xuống 05 10 % 
Từ ĐM đùi – khoeo trở xuống 32 64 % 
Từ ĐM chày – mác trở xuống 13 26 % 
Cộng 50 100% 
Vị trí tắc ĐM mạn chiếm đa số các trường 
hợp bắt đầu vị trí đùi khoeo trở xuống. 
Các bệnh lý nội khoa kèm theo có ý nghĩa 
quan trọng trong tiên lượng bệnh và việc điều 
trị phối hợp. 
Bảng 4: Các bệnh lý nội khoa kết hợp 
Bệnh lý nội khoa nặng kết hợp Số Bn Tỷ lệ 
Bệnh tim mạch (Bn cao HA, TMCT, 
bệnh van tim..) 
44 88 % 
Đái tháo đường 07 12 % 
Suy thận mạn 03 4 % 
Các bệnh lý tim mạch chiếm tỷ lệ cao. Tuy 
nhiên phẫu thuật bắc cầu ở các bệnh ĐTĐ cũng 
là một thách thức đáng lưu ý. 
Việc thực hiện phẫu thuật bắc cầu nối phụ 
thuộc vào tình trạng tổn thương gây tắc hẹp. 
Một số trường hợp phải thực hiện 02 cầu nối 
nhắm cung cấp máu nuôi vùng hạ chi. 
Bảng 5: Số lượng cầu nối thực hiện trên bn 
Số lượng cầu nối thực hiện trên Bn Số Bn Tỷ lệ 
Sử dụng 01 cầu nối đơn thuần 05 10 % 
Sử dụng 02 cầu nối phối hợp 45 90 % 
Cộng 50 100 % 
90% các trường hợp Bn được thực hiện 01 
cầu nối ĐM. 
Các loại cầu nối ĐM đã được thực hiện phụ 
thuộc vào vị trí tổn thương, có giá trị trong tiên 
lượng sau phẫu thuật. 
Bảng 6: Phân bố các loại bắc cầu đm 
Loại cầu nối thực hiện Số Bn Tỷ lệ 
Chủ - Đùi và Đùi – Khoeo 02 4 % 
Đùi –Đùi và Đùi – Khoeo 03 6 % 
Đùi – Khoeo 29 58 % 
Đùi – Chầy sau (mu chân) 03 6 % 
Khoeo – chầy sau (mu chân) 13 26 % 
Cộng 50 100 % 
Đa số các trường hợp Bn đã được thực hiện 
loại cầu nối Đùi - Khoeo. Loại phẫu thuật ít làm 
nhất là Đùi-Chầy sau và cùng lúc làm 02 phẫu 
thuật Đùi-Đùi và Đùi-Khoeo (6%). 
Sau phẫu thuật bắc cầu ĐM diễn biến và tiên 
lượng về tình trạng lưu thông của cầu nối phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 87 
Bảng 7: Kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ: 
Kết quả sớm sau PT bắc cầu 
nối tại chỗ bằng TM hiền 
Số các trường 
hợp 
Tỷ lệ 
Kết quả tốt 43 86 % 
Kết quả trung bình 02 04 % 
Kết quả xấu 05 10 % 
Cộng 50 100% 
Qua 05 trường hợp tắc cầu nối và phải 
đoạn chi sau mổ cho thấy có 03 Bn có ĐTĐ và 
suy thận mạn kết hợp. Đa số các trường hợp 
cho kết quả tốt. 
Phân tích các trường hợp sau phẫu thuật cho 
kết quả như không mong đợi liên quan đến mức 
độ tắc mạch (tính theo LERICHE-FONTAINE), 
vị trí tắc mạch và các bệnh lý kèm theo. 
Bảng 8: Phân tích các trường hợp kết quả sớm sau 
mổ xấu. 
Bn Tuổi 
giới 
Mức độ tắc 
mạch 
Loại cầu nối Bệnh kèm 
theo 
1- Phạm 
Văn N. 
Nam 
58t 
Độ IV 
(loét, hoại tử 
chi) 
Đùi – Đùi và 
Đùi – Khoeo 
(T) 
Cao HA, 
XVĐM 
(Theo dõi sau 
1 năm) 
2- Trịnh 
Hoàng S. 
Nam, 
65t 
Độ IV 
(loét, hoại tử 
chi) 
Khoeo – mu 
chân (T) 
ĐTĐ, Suy 
thận mạn 
(Theo dõi sau 
3 th) 
3-Nguyễn 
Ngọc Đ. 
Nam, 
45t 
Độ IV 
(loét, hoại tử 
chi) 
Đùi – Mu 
chân (P) 
Bệnh Buerger 
(theo dõi sau 
1 năm) 
4- Đòan 
Thị H. 
Nữ, 73t Độ IV 
(loét, hoại tử 
chi) 
Đùi – Khoeo 
(T) 
ĐTĐ, Suy 
thận mạn 
(Sau 2 tuần) 
5- lưu Văn 
Sang 
Nam 
68t 
Độ IV 
(loét, hoại tử 
chi) 
Khoeo – Chầy 
sau (P) 
Cao HA, Suy 
thận mạn 
(Sau 2 tuần) 
Như vậy có 10% các trường hợp sau phẫu 
thuật làm cầu nối tại chỗ phải đoạn chi, đây là 
các trường hợp bệnh nhân khi nhập viện đã có 
tình trạng thiếu máu nuôi chi kéo dài, mức độ 
tắc mạch nặng (độ 4), ngọn chi viêm loét hoại tử 
lan rộng, 01 Bn phải làm 2 cầu nối, 01 Bn cầu nối 
đầu xa nhất. Hầu hết các Bn đều có bệnh nặng 
nội khoa kèm theo, đặc biệt là đái tháo đường và 
suy thận mạn kèm theo. 
BÀN LUẬN 
Tần suất gặp bệnh nhân thiếu máu mạn 
tính chi dưới 
Tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới 
xuất hiện khi có hẹp hay tắc động mạch (ĐM) 
chính cung cấp máu nuôi hai chân(7). Gồm 
ĐM chủ bụng, chậu gốc, đùi chung, đùi nông, 
đùi sâu, khoeo, chầy trước, chày sau, ĐM mác 
và mu chân. Mức độ thiếu máu rất khác nhau 
giữa các Bn, có thể được chia làm 04 độ trên 
lâm sàng theo Leriche – Fontaine. Đặc điểm 
của tắc mạch mạn tính là tình trạng thiếu máu 
kéo dài, không đột ngột như thiếu máu nuôi 
chi cấp gặp trong trường hợp Bn có vết 
thương mạch máu hoặc huyết khối. Trái lại 
khả năng phục hồi cũng diễn biến từ từ và 
cần có sự hợp tác của Bn sau phẫu thuật. 
Tần suất gặp thiếu máu mạn chi dưới ở 
nhóm Bn không có đái tháo đường chiếm 
khoảng 0,25% - 1% ở các nước Âu –Mỹ, một số 
quốc gia khác có báo cáo tỉ lệ mắc bệnh chênh 
lệch như ở Nhật 16%, Israel 5%... Tiếc rằng ở 
Việt Nam tới nay chưa có những nghiên cứu 
dịch tễ học độc lập, chuẩn mực về vấn đề này. 
Tuy nhiên trong một số báo cáo cho thấy giai 
đoạn 1976-1980 Nguyễn Thị Hiền gặp 68 trường 
hợp. Tại Bv Chợ Rẫy giai đoạn 1990-1991 Phạm 
Thọ Tuấn Anh tập hợp được 74 trường hợp và 
giai đoạn 1992-1994 có 83 trường hợp(7). Tại Bv 
Nhân Dân 115 TP.HCM, giai đọan đầu khi mới 
thành lập Đơn vị phẫu thuật Lồng ngực - Mạch 
máu 2004-2006 gặp 50 trường hợp tắc ĐM mạn 
chi dưới nhập viện điều trị(2). Tuy nhiên so với 
một số cơ sở điều trị khác như Bv Chợ Rẫy, 
Nhân Dân Gia Định và Bình dân(7,5,3) thì số lượng 
bệnh gặp ở Bv Nhân Dân 115 còn khiêm tốn. 
Bên cạnh các Bn thiếu máu nuôi chi dưới 
mạn không do đái tháo đường còn gặp nhóm 
các Bn có đái tháo đường. Theo Nguyễn Thy 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 88 
Khuê(4) vùng đông nam á được coi là vùng dịch 
tễ của bệnh đái tháo đường. Ở Việt nam, nghiên 
cứu điều tra giai đoạn 1990-1992 tại Hà Nội và 
các vùng lân cận gặp tỉ lệ mắc bệnh đái tháo 
đường khoảng 1,1%. Huế 0,96% và TP.HCM 
2,25%, trong đó đái tháo đường type II chiếm 
90%. Theo Campbell(1) vai trò của phẫu thuật bắc 
cầu mạch máu đối với Bn đái tháo đường là rất 
lớn. Tác giả cho rằng sau khi giải quyết tốt các 
biến chứng về thần kinh, nhiễm trùng thì vấn đề 
suy động mạch gây thiếu máu nuôi dưỡng chi 
sẽ trở thành nguyên nhân chính dẫn tới đoạn 
chi của trên 95% các BN. 
Nguyên nhân gây thiếu máu mạn tính chi dưới 
Về nguyên nhân gây giảm tưới máu chi 
dưới rất đa dạng. Có thể BN có hay không có 
đái tháo đường, Bn có tình trạng xơ vữa động 
mạch, Bn có bệnh Buerger và một số nguyên 
nhân ít gặp khác. 
Trong đó bệnh lý xơ vữa ĐM liên quan 
nhiều đến rối loạn chuyển hóa mỡ, với các 
yếu tố nguy cơ như thuốc lá, cao huyết áp, đái 
tháo đường, di truyền, cách sống ít hoạt động 
hay làm việc quá sức, ăn uống thất thường 
Tình trạng xơ vữa động mạch là nguyên nhân 
thường gặp nhất của bệnh tắc các động mạch 
lớn như: động mạch chủ ngực, bụng, động 
mạch thân cánh tay đầu, động mạch dưới đòn 
v.v Ngoài các động mạch lớn, các động 
mạch nhỏ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên, 
điểm khác biệt quan trọng với bệnh Buerger 
là: trong bệnh xơ vữa động mạch chỉ có lớp 
nội mạc bị tổn thương, còn lớp áo giữa và áo 
ngoài hầu như còn nguyên vẹn. 
Bệnh buerger, là một bệnh lý về mạch máu, 
viêm tắc động mạch không do xơ vữa, biểu hiện 
bằng tình trạng viêm tắc các động mạch vừa và 
nhỏ của chi. Tình trạng này 60% xảy ra ở chi 
dưới và 40% xảy ra ở chi trên. Đa số gặp ở bệnh 
nhân nam, dưới 40, hút nhiều thuốc lá. Các triệu 
chứng của bệnh là tình trạng thiếu máu mạn 
tính chẳng hạn hồi, hội chứng Raynaud, kèm 
theo loét hoặc hoại tử đầu ngón. Hiện nay có 
nhiều giả thuyết nhắc đến vai trò gây dị ứng của 
thuốc lá, di truyền của bệnh. 
Theo bảng 1 và 4 cho thấy trong 50 trường 
hợp được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ do 
thiếu máu mạn chi dưới có tương đối đủ các 
nguyên nhân gây bệnh. Trong đó XVĐM 
thường gặp nhất do nhóm Bn lớn tuổi. Ngoài ra 
với các bệnh lý nội khoa nặng đi kèm có ảnh 
hưởng đáng kể đến tiên lượng bệnh. Bảng 8 cho 
thấy trong các Bn phải đọan chi sớm sau mổ đã 
có 3/5 các trường hợp có ĐTĐ, suy thận mạn 
hoặc cả hai. Như vậy nguyên nhân và các yếu tố 
nguy cơ rất cần được các Bác sĩ điều trị lưu ý 
nhiều hơn. 
Bệnh đái tháo đường gây viêm tắc động 
mạch mạn tính được coi là một biến chứng rất 
hay gặp. Người ta cho rằng ở lứa tuổi từ 30 
đến 60 tuổi tỷ lệ mắc bệnh viêm tắc động 
mạch ngoại biên mạn tính cao gấp 3-4 lần ở 
nam và cao gấp 5-7 lần ở nữ so với người 
không mắc bệnh tiểu đường. 
Trong các thói quen xấu thì hút thuốc có 
vai trò hàng đầu trong các yếu tố nguy cơ gây 
bệnh viêm tắc động mạch ngoại biên. Theo m 
ộ s ố nghi ên c ứu tỷ lệ hút thuốc lá ở những 
bệnh nhân bị viêm tắc động mạch ngoại biên 
khoảng 90-98%(2,4). Nguy cơ xuất hiện bệnh tỷ 
lệ thuận với mức độ thuốc lá được sử dụng 
mỗi ngày, phần lớn những bệnh nhân bị bệnh 
Buerger đều hút nhiều thuốc lá. Vận động ít 
cũng là một vấn đề cần lưu ý. Nếu vận động 
thường xuyên sẽ làm cải thiện các cơn đau 
cách hồi và các biến đổi về huyết động học. 
Ngoài ra, việc vận động còn làm tăng tình 
trạng thích nghi của hoạt động chuyển hoá 
trong các tế bào với tình trạng gắng sức. 
Tình hình điều trị bệnh thiếu máu mạn chi 
dưới 
Thời gian qua Y học thế giới đã luôn cố 
gắng giải quyết tình trạng thiếu máu nuôi chi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 89 
dưới một cách tích cực cả về nội, ngoại khoa và 
các phương pháp kết hợp. 
Về nội khoa, việc sử dụng thuốc trong điều 
trị đi kèm với các biện pháp hỗ trợ. Bn được sử 
dụng thuốc chống kết tập tiểu cầu, thuốc vận 
mạch, được tư vấn bỏ thuốc lá, điều trị các bệnh 
kết hợp khác như cao huyết áp, đái tháo đường, 
rối loạn chuyển hóa mỡ một số tác giả còn lưu 
ý việc dùng thuốc giảm đau, kỹ thuật pha loãng 
máu đồng thể tích, sử dụng oxy cao áp. 
Về mặt ngoại khoa có thể kể đến phẫu thuật 
cắt hạch thần kinh giao cảm lưng, bóc lớp trong 
động mạch, phẫu thuật cầu nối ngoài giải phẫu 
và phương pháp tạo hình trong lòng mạch. Tuy 
nhiên trong những năm gần đây kỹ thuật bắc 
cầu nối xa xuống đến cẳng và bàn chân đang 
phát triển, đặc biệt có sử dụng tĩnh mạch ghép 
tự thân tại chỗ kết hợp có ứng dụng kỹ thuật 
phá van tĩnh mạch, do vậy không phải đảo 
ngược đầu đoạn ghép và đương nhiên đã tận 
dụng được một số lợi điểm đáng kể(3,4). 
Bảng 2 và 3 cho thấy thực trạng các tổn 
thương giải phẫu tắc ĐM mạn tính chi dưới của 
nhóm Bn trong nghiên cứu. Có lẽ vì nhiều lý do 
mà đa số các Bn khi tới bệnh viện đã ở mức độ 
tắc mạch muộn (độ III và IV), với các vết loét 
sâu, lan tỏa. Chính sự viêm nhiễm lan tỏa và 
phá hủy tới tổ chức cơ, xương đã làm tiên lượng 
bệnh xấu đi. Trong các bước tiến hành điều trị 
các trường hợp này, nhóm nghiên cứu thực hiện 
chiến lược “3 bước” đó là cắt lọc, giải thoát mủ 
hay tổ chức hoại tử ngay thì đầu, có kết hợp với 
kháng sinh toàn thân. Tiếp theo là lựa chọn kỹ 
thuật và làm phẫu thuật bắc cầu. Cuối cùng sau 
khi bắc cầu sẽ đoạn tối thiểu (ngón, bàn ) khi 
đã đánh giá tương đối chính xác phần tổ chức 
đã được nuôi dưỡng nhờ phẫu thuật bắc cầu. 
Bảng 5 và 6 phản ánh tình hình phẫu thuật 
“bắc cầu nối tại chỗ” điều trị tắc ĐM mạn chi 
dưới tại Bv Nhân Dân 115 trong những năm gần 
đây. Dựa trên kết quả khảo sát tình trạng tắc 
mạch mạn qua siêu âm Doppler và hình ảnh 
chụp ĐM có cản quang (DSA, MRI, CT 64 lát ) 
mà các Bs chuyên khoa lựa chọn chỉ định phẫu 
thuật bắc cầu. Có thể sử dụng 1 hay 2 (ít khi 
dùng tới 3 cầu nối) nhằm cung cấp càng nhiều 
máu nuôi cho vùng hạ lưu càng tốt. Với các cầu 
nối ĐM cho tới nay vẫn thường dùng các vật 
liệu nhân tạo (ống Dacron hay Gore-tex) hoặc sử 
dụng tĩnh mạch tự thân. Người ta cho rằng về lý 
thuyết cũng như trên thực tế các kỹ thuật bắc 
cầu ĐM khác nhau sẽ có ảnh hưởng tới hiệu quả 
hoạt động của phẫu thuật bắc cầu. Tuy nhiên tới 
nay còn ít các báo cáo cụ thể về vấn đề này. Tại 
Việt Nam loại kỹ thuật này vẫn được áp dụng 
tại các trung tâm chuyên khoa, nhưng số lượng 
không nhiều và chưa được theo dõi kỹ nên việc 
đánh giá cũng còn khó khăn. 
Phẫu thuật bắc cầu nối điều trị tắc động 
mạch mạn chi dưới 
Phẫu thuật bắc cầu nối đã từng được thực 
hiện lần đầu tiên vào năm 1913 bởi Ernst Jaeger 
(Đức) khi lần đầu tiên tiến hành điều trị một 
trường hợp phồng động mạch ngoại biên. Tới 
năm 1984 Jean Kunlin (Pháp) đã làm cầu nối 
điều trị một trường hợp tắc động mạch đùi 
nông mạn tính(4,7). 
Đa số các tác giả đều thừa nhận vai trò của 
phẫu thuật bắc cầu nối trong điều trị tắc động 
mạch mạn tính chi dưới là rất quan trọng, mặc 
dù để thực hiện được cuộc phẫu thuật như dự 
kiến phải có những điều kiện nhất định và trong 
đó vấn đề quan trọng là phải có sự tái hiện dòng 
máu chảy phía đầu dưới của đoạn tắc, trái lại 
phẫu thuật bắc cầu nối không thể thực hiện 
được. Theo kinh nghiệm của Campbell(1) trong 
một số ít các trường hợp, việc tiến hành phẫu 
tích thăm dò trước cũng có những giá trị nhất 
định. Ngoài ra, muốn phẫu thuật bắc cầu ĐM 
thành công còn có những yếu tố khác đi kèm 
như sự chấp nhận của Bn và thân nhân, tình 
trạng các bệnh lý nội khoa nặng kèm theo của 
người bệnh và tình trạng thiếu máu nuôi chưa 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 90 
quá mức trầm trọng gây loét hay hoại tử ngọn 
chi lan rộng. 
Theo đánh giá của một số chuyên gia, trong 
những năm gần đây tỷ lệ các Bn được phẫu 
thuật làm cầu nối ngày càng nhiều. Chỉ tính 
riêng tại Bv Chợ Rẫy(5) vào giai đoạn trước năm 
1992 chỉ có 03 ca làm cầu nối trong 2 năm. Giai 
đoạn 1992-1994 trong 2,5 năm đã có 31 ca được 
thực hiện, và trong 7 tháng (từ 05/2004 đến 
12/2004) có tới 21 ca được thực hiện. Tại Bv 
Nhân Dân 115, Khoa phẫu thuật lồng ngực – 
mạch máu hoạt động từ 6/2004, tính chung 
trong khoảng 27 tháng, với 50 ca tắc động mạch 
mạn tính được điều trị đã có 23 trường hợp có 
chỉ định làm cầu nối, chiếm 46%, nhưng chỉ có 9 
ca thực sự được tiến hành, chiếm 39,1% các 
trường hợp có chỉ định. Trong 14 ca có chỉ định 
làm cầu nối nhưng không thực hiện được đã có 
5ca Bn không đồng ý mổ, 5 ca Bn có những bệnh 
nặng nội khoa kèm theo và Bn xin về, 4 ca Bn tới 
muộn, chi có loét và hoại tử lan rộng nên phải 
thực hiện phẫu thuật đoạn chi(2). 
Bên cạnh phẫu thuật bắc cầu, các trường 
hợp tắc động mạch đầu xa dưới gối thường 
được điều trị bằng cách cắt thần kinh giao cảm 
lưng cùng bên, chăm sóc đoạn chi thiếu máu và 
có thể thực hiện phối hợp điều trị nội khoa 
(dùng thuốc, liệu pháp oxy cao áp...) hoặc phải 
đoạn chi ngay thì đầu loại bỏ phần thiếu máu 
kéo dài đã hoại tử. Ngay cả sau khi đã làm cầu 
nối phục hồi dòng máu chảy thì việc chăm sóc, 
theo dõi đánh giá mức độ cải thiện phần loét ở 
ngọn chi tới đâu vẫn rất cần thiết. 
Vấn đề chọn loại vật liệu thực hiện phẫu 
thuật bắc cầu mạch máu cầu được cân nhắc giữa 
vật liệu nhân tạo và tĩnh mạch hiển tự thân. Mặc 
dù tới nay vẫn còn một số ý kiến tranh luận, 
nhưng nhìn chung đa số các tác giả đều đồng 
tình với việc sử dụng tĩnh mạch hiển tự thân do 
những ưu điểm nổi bật của tĩnh mạch tự thân. 
Bảng 6 cho thấy các loại cầu nối đã thực hiện. 
Với các trường hợp sử dụng 01 cầu nối, toàn bộ 
được dùng bằng tĩnh mạch hiển tự thân. Với 02 
cầu nối, đoạn gần (chủ-đùi hoặc đùi-đùi được 
dùng bằng các đoạn ống Gore-tex số 6 và 8). 
Kỹ thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ có nội 
soi phá van 
Phẫu thuật bắc cầu nối có ưu điểm đưa máu 
trực tiếp đến vùng bị thiếu máu mà không làm 
tổn thương đến thần kinh hay tĩnh mạch đi kèm 
với ĐM bị tắc và giữ được tuần hoàn bàng hệ. 
Điều kiện cần thiết để có thể tiến hành phẫu 
thuật bắc cầu nối là còn tồn tại phần ĐM phía 
dưới chỗ bị tắc nghẽn. 
Có 5 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự lưu 
thông của cầu nối(7) bao gồm: 
- Vị trí xuất phát của cầu nối. 
- Tính chất riêng của cầu nối. 
- Vị trí đầu xa cầu nối. 
- Kỹ thuật nối ghép. 
- Nguyên nhân gây tình trạng thiếu máu 
mạn tính chi dưới. 
Với tĩnh mạch hiển khi sử dụng làm cầu nối 
có thể để tại chỗ hoặc đảo ngược đầu. Ưu điểm 
của việc dùng tĩnh mạch tự thân tại chỗ (không 
đảo đầu bằng cách phá các van tĩnh mạch) là giữ 
được sự nguyên vẹn nội mạc và mạch nuôi của 
mạch máu: Tĩnh mạch được sử dụng thường có 
đường kính một đầu lớn và một đầu nhỏ, phù 
hợp về kích thước để làm miệng nối với đầu gần 
và đầu xa của ĐM. Cầu nối ít có khả năng bị 
xoắn vặn. 
Tuy nhiên việc ghép tại chỗ (không đảo 
đầu) phải đi kèm với kỹ thuật phá van tĩnh 
mạch. Do đó các tác giả đã từng sử dụng kỹ 
thuật nàu luôn lưu ý các nguy cơ khi phá van 
tĩnh mạch như: 
+ Dễ gây chấn thương lớp nội mạc để lại sẹo 
và nguy cơ tắc cầu nối. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 91 
+ Nguy cơ nhiễm trùng cao do bộc lộ toàn 
bộ tĩnh mạch. 
+ Nguy cơ phá van hay thắt các nhánh bên 
có thể gây thông động tĩnh mạch. 
+ Thời gian phẫu thuật thường kéo dài. 
+ Đoạn cầu nối dễ bị gập góc, nhất là khi bắc 
cầu nối phía trên gối. 
Một số tác giả khác còn cho rằng, cầu nối 
trên gối có thể sử dụng tĩnh mạch tự thân tại chỗ 
hay đảo ngược. Với các cầu nối nằm dưới gối 
nhất là đầu gối xa, dùng tĩnh mạch tự thân tại 
chỗ cho kết quả tốt hơn dùng tĩnh mạch đảo 
ngược đầu. Và không nên dùng ống nhân tạo 
làm cầu nối dưới gối; Ngoài ra cũng lưu ý các 
biến chứng nếu dùng thuốc kháng đông dài 
ngày và có thể dùng tĩnh mạch tiếp nối giữa ống 
nhân tạo. 
Kết quả theo dõi đánh giá tại Boston(1) với 
hơn 1000 Bn bắc cầu nối tại chỗ có sử dụng nội 
soi lòng mạch khi phá van. Sau 05 năm cầu nối 
còn thông tốt là 75%, bảo tồn chi trong 5 năm là 
85% và tử vong chung chiếm 1%. Đặc biệt 
những nghiên cứu cũng cho thấy có kết quả 
tương tự ở Bn người cao tuổi và nhóm khác. 
Bảng 6 và 7 cho thấy kỹ thuật bắc cầu nối tại 
chỗ đã được ứng dụng tại Bv Nhân Dân 115, với 
50 trường hợp được thực hiện theo đúng kỹ 
thuật còn rất khiêm tốn. Có thể vì một số lý do 
nhất định về kỹ thuật, phương tiện và quan 
điểm nên kỹ thuật này tới nay vẫn chưa được 
áp dụng rộng rãi tại Việt Nam. 
Kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối 
động mạch tại chỗ 
Theo bảng 7 và 8, qua 50 trường hợp được 
thực hiện loại phẫu thuật này, đã có 86% cho kết 
quả sớm sau mổ tốt, 4% chỉ đạt mức trung bình, 
và 10% chưa tốt. Phân tích các trường hợp Bn 
phải đoạn chi sau mổ cho thấy có nhiều yếu tố 
sẽ phải được cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi 
tiến hành phẫu thuật. 
Một số vấn đề có thể xảy ra sau các phẫu 
thuật bắc cầu nối tại chỗ điều trị tắc ĐM mạn 
tính chi dưới như: hẹp hoặc tắc miệng nối; 
nhiễm trùng vết mổ hay từ ổ loét hoặc mỏm cụt 
lan rộng, biến chứng tác động từ những bệnh lý 
nội khoa nặng kèm theo. Đặc biệt với một kỹ 
thuật mới được đưa vào áp dụng luôn cần có 
thời gian hoàn chỉnh và phát triển. 
Trong 05 trường hợp hẹp tắc miệng nối 
(bảng 8) dẫn tới Bn phải đọan chi, chiếm 10% 
các trường hợp đã có 3/5 Bn có các bệnh ĐTĐ, 
suy thận mạn hoặc cả hai. Cũng có 3/5 Bn sử 
dụng các loại cầu nối phức tạp. Tất cả 05 Bn đều 
có loét chi, nhiễm trùng lan tỏa và mức độ tắc 
ĐM mạn ở độ IV. Như vậy căn cứ vào các yếu 
tố để đảm bảo một miệng nối thông tốt sau 
phẫu thuật bắc cầu nối ĐM như đã trình bày ở 
trên thì có thể lý giải được một phần kết quả 
trong nghiên cứu chưa đáp ứng như mong 
muốn (bảng 8). 
Theo nghiên cứu của Bv Chợ Rẫy(5) trong 21 
ca thực hiện cầu nối từ 5/2004 đến 12/2004 có 5 
ca (chiếm 24%) có nhiễm trùng vết mổ, tắc 
miệng nối 01 trường hợp và hẹp miệng nối (hẹp 
70% miệng nối xa) 1 trường hợp. Một số tác giả 
nước ngoài như Joseph Dennis gặp tỷ lệ tắc cầu 
nối sớm khoảng 2- 3%, Davidson là 4,2%. 
KẾT LUẬN 
Qua 50 trường hợp được phẫu thuật bắc cầu 
nối động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có 
nội soi phá van trong điều trị thiếu máu mạn 
tính chi dưới tại Bệnh viện Nhân Dân 115 từ 
1/2007 đến 12/2010, mặc dù số liệu còn hạn chế 
nhưng có thể rút ra một số nhận xét sau: 
- Bệnh nhân tắc động mạch mạn tính chi 
dưới đã được phẫu thuật tại Bv Nhân Dân 115 
đa số là nam giới, có độ tuổi trung bình 68- 69. 
Nguyên nhân chủ yếu gặp xơ vữa động mạch. 
Bệnh nhân nhập viện phổ biến có tắc mạch mức 
độ III và IV kèm theo có loét chi. Phần lớn các 
trường hợp tắc kéo dài từ động mạch đùi chung 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 92 
trở xuống. Và tất cả các bệnh nhân đều có các 
bệnh lý nội khoa nặng kèm theo, trong đó nhiều 
nhất gặp bệnh lý tim mạch. 
- Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ 
chủ yếu thực hiện một cầu nối và đa số gặp loại 
cầu nối đùi – khoeo. Kết quả sớm sau phẫu 
thuật tốt đạt 86%, có 10% cầu nối lưu thông kém 
và bệnh nhân phải đoạn chi sau mổ. Các trường 
hợp đoạn chi gồm các bệnh nhân có đái tháo 
đường, suy thận mạn hoặc Buerger. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Campbell DR. (2000): ‘’Vascular problems and the indication for 
bypass or amputation in the diabetic’’, Hội thảo chăm sóc bàn 
chân đái tháo đường TP.HCM 6/6/2000 – ĐH Y Dược TP.HCM, 
Tr 60-61. 
2. Cao Văn Thịnh và cs. (2006): “Phẫu thuật bắc cầu nối điều trị 
thiếu máu mạn chi dưới bằng ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có nội 
soi phá van” Tạp chí Y Học Viện Nam, tập 328, Tr 258-270. 
3. Cao Văn Thịnh, Campbell DR., Văn Tần và cs. (2004): ‘’Nội soi 
lòng mạch phá van tĩnh mạch hiển ghép tại chỗ trong phẫu thuật 
bắc cầu nối điều trị thiếu máu nuôi mạn tính chi dưới ‘’, Hội nghị 
nội soi và phẫu thuật nội soi – ĐH Y Dược TP.HCM, BV Hoàn 
Mỹ 14,15,16/10/2004, Tr 164-177. 
4. Gibbons GW, Pomposelli FB, Logerfo FW. (1995): Arterial 
reconstruction: femoral to popliteal,tibial, peroneal, and pedal, 
magement of diabetic foot problems, W.B. Saunders Company, 
pp 194-204. 
5. Lê Phi Long, Phạm Thọ Tuấn Anh, Nguyễn Hoàng Bình. (2005): 
‘’Đáng giá kết quả sớm phẫu thuật cầu nối điều trị tắc động 
mạch mạn tính chi dưới’’, Hội nghị KHKT lần 22-ĐH Y Dược 
TP.HCM – Y học TP.HCM, tập 9, phụ bản số 1, Tr 27-32. 
6. Nguyễn Thy Khuê. (2000): ‘’Xử trí bệnh đái tháo đường tại Việt 
Nam’’, Hội thảo chăm sóc bàn chân đái tháo đường TP.HCM 
6/6/2000 – ĐH Y Dược TP.HCM, Tr 1-5. 
7. Phạm Thọ Tuấn Anh. (1994): Phác đồ điều trị ngoại khoa tắc 
động mạch mạn tính chi dưới, Luận án tiến sĩ Y Học – ĐH Y 
Dược TP.HCM. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ket_qua_thuc_hien_phau_thuat_bac_cau_tai_cho_trong_tac_dong.pdf ket_qua_thuc_hien_phau_thuat_bac_cau_tai_cho_trong_tac_dong.pdf