Kết quả ứng dụng kỹ thuật “all inside” tái tạo dây chằng chéo trước khớp gối

Kết quả xa (> 12 tháng sau phẫu thuật): 92/117 BN được theo dõi sau phẫu thuật > 12 tháng (xa nhất 25 tháng). + Không BN nào bị hạn chế biên độ gấp, duỗi gối. + 5 BN đau mơ hồ quanh gối, 2 BN đau phía sau gối, 2 BN đau ở khe khớp gối, tất cả không phải can thiệp thêm. + Cảm giác có tiếng kêu trong gối khi gấp, duỗi: 5 BN, hiện tượng này xuất hiện ngay sau phẫu thuật vài tháng khi BN đã đi lại và sinh hoạt, công tác. + Tình trạng teo cơ: 20/92 BN còn bị teo cơ đùi. + Đánh giá tình trạng lỏng khớp: 87/92 BN (94,57%) gối vững (ngăn kéo trước (-), Lachman (-), Pivot Shift (-)), BN trở lại hoạt động thường ngày, chơi thể thao, cảm giác gối vững; 4/92 BN (4,34%) gối lỏng (cả 4 BN đều có dấu hiệu Lachman (+), nhưng Pivot Shift và ngăn kéo trước (-)), đây là 4 BN then ngang của TightRope RT không áp sát vỏ ngoài xương đùi, cách vỏ xương khoảng 1 - 2 mm; 1/92 BN (1,09%) gối lỏng (cả dấu hiệu ngăn kéo trước, Pivot Shift và Lachman (+)), BN cảm giác lỏng gối, nhưng chưa phẫu thuật lại. Với BN này chúng tôi chưa đủ cơ sở xác định nguyên nhân. + Khoảng trượt ra trước của mâm chày đo bằng KT1000 so với bên lành, chúng tôi chỉ kiểm tra được 62/92 BN, trong đó 57 BN được đánh giá trên lâm sàng gối vững, độ trượt ra trước của mâm chày không quá 1 mm so với bên lành (7 BN mâm chày trượt ra trước ít hơn so với bên lành), 4 BN gối lỏng khi khám, nhưng BN vẫn thấy vững, mâm chày trượt ra trước 1 - 2 mm, BN còn lại mâm chày trượt ra trước 4 mm (đây là BN gối lỏng). + Điểm Lysholm cao nhất 100, thấp nhất 75. Rất tốt 82/92 BN (89,13%), tốt 9/92 BN (9,78%), trung bình 1/92 BN (1,09%). Tỷ lệ khá cao so với các phương pháp phẫu thuật khác. Kết quả cho thấy kỹ thuật “all inside” khá tin cậy. Tuy nhiên, cần tiếp tục theo dõi thêm đối với tỷ lệ dây chằng bị đứt lại khi người bệnh tham gia các hoạt động thường ngày và thể thao.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả ứng dụng kỹ thuật “all inside” tái tạo dây chằng chéo trước khớp gối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018 100 KẾT QUẢ ỨNG DỤNG KỸ THUẬT “ALL INSIDE” TÁI TẠO DÂY CHẰNG CHÉO TRƢỚC KHỚP GỐI Vũ Nhất ịnh*; Phạm Ngọc Thắng* TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá kết quả ứng dụng kỹ thuật “all inside” tái tạo dây chằng chéo khớp gối và nhận xét ưu nhược điểm của kỹ thuật. Phương pháp: nghiên cứu sử dụng gân cơ bán gân tự thân gập 4 làm mảnh ghép dây chằng, khoan ngược đường hầm chày từ trong khớp ra ngoài bằng Flipcutter. Kéo vào đường hầm đùi và đường hầm chày qua lối vào trước trong mảnh ghép dây chằng. Cố định hai đầu mảnh ghép neo ra mặt ngoài đường hầm chày và đường hầm đùi bằng TightRope RT. Đánh giá kết quả xa ở thời điểm trên 12 tháng sau phẫu thuật. Đánh giá mức độ lỏng gối bằng test ngăn kéo trước, Lachman, Pivot Shift, KT1000. Đánh giá kết quả theo thang điểm Lysholm. Kết quả: nghiên cứu gồm 117 trường hợp, tuổi trung bình 32,87 (19 - 60 tuổi), có 32/117 trường hợp (27,35%) tổn thương sụn chêm kết hợp. Đường kính mảnh ghép dây chằng 7 - 9 mm, dài 6 - 7,5 mm. Thời gian phẫu thuật 30 - 45 phút (khi không có tổn thương sụn chêm). 92/117 trường hợp theo dõi đánh giá kết quả trên 12 tháng. 87/92 trường hợp (89,13%) có dấu hiệu ngăn kéo trước, Lachman và Pivot Shift (-), 4/92 trường hợp (4,34%) có dấu hiệu ngăn kéo trước (+) và 1/92 trường hợp (1,09%) dấu hiệu ngăn kéo trước, Lachman và Pivot Shift (+). 62/92 trường hợp đo mức trượt ra trước của mâm chày bằng KT1000: 57/62 trường hợp có mức trượt ra trước < 1 mm, 4/62 trường hợp có mức trượt 1 - 2 mm và 1/62 trường hợp có mức trượt ra trước 4 mm. Điểm Lysholm đạt từ 75 - 100. Rất tốt 82/92 trường hợp (89,13%), tốt 9/92 trường hợp (9,78%), trung bình trường hợp 1/92 (1,09%). Kết luận: kỹ thuật mang lại kết quả tốt và rất tốt: 91/92 trường hợp (98,91%). Ưu điểm giữ được gân cơ thon, thời gian mổ nhanh. * Từ khóa: Dây chằng chéo trước; Kỹ thuật all inside. Results of “ ll Inside” in nte io C uciate iga ent Reconstruction Summary Objectives: To acssess the clinical results, advantages and disadvantages of “all inside” in anterior cruciate ligament reconstruction. Subjects and methods: The semitendinosus alone is harvested, quadrupled and attached into two suspensory fixation devices. Tibial sockets are produced using a retrograde drill by Flipcutter. Pass the semitendinosus autograft through the anteromedial portal in the femoral and tibial sockets, engaged the cortical button on the femur, and then final fixation on the tibial side. Patients were evaluated postoperatively. Objective assessment of knee laxity was performed using the KT1000, anterior drawer test, Lachman test, Pivot Shift test. Lysholm scoring was asessed. Results: 117 patients with the mean age of 32.87 (19 - 60 years old) were included. There were 32 cases (27.35%) involving additional meniscal surgery. * Bệnh viện Quân y 103 Người phản hồi (Corresponding): Vũ Nhất ịnh (vunhatdinhbv103@yahoo.com.vn) Ngày nhận bài: 01/03/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 09/05/2018 Ngày bài báo được đăng: 28/05/2018 TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018 101 The graft diameter was 7 - 9 mm, the graft length was 6 - 7.5 mm. The time operative was 30 - 45 mins (not involved meniscal injury). Mean follow-up more than 12 months: 92/117 cases. The anterior drawer (-), Lachman (-), Pivot Shift (-) in 87/92 cases (89.13%); the anterior drawer (+) in 4/92 cases (4.34%); the anterior drawer (+), Lachman (+), Pivot Shift (+) in 1/92 case (1.09%). The anteroposterior laxity was assessed by KT1000 for 62/92 cases: < 1 mm in 57/62 cases , 1 - 2 mm in 4/62 cases, 4 mm in 1/62 case. The Lysholm ranged 75 - 100 points. The distributions of Lysholm score were excellent in 82/89 cases (89.13%), good in 9/92 cases (9.78%), faire in 1/92 case (1.09%). Conclusions: This technique demonstrates good and excellent outcomes in 91/92 cases (98.91%). The advantages of technique are several: leave the gracilis, quickly operation. * Keywords: Anterior cruciate ligament; All inside technique . ĐẶT VẤN ĐỀ Dây chằng chéo trước (DCCT) khớp gối có tác dụng giữ cho mâm chày không bị trượt ra trước, khi DCCT bị đứt sẽ làm lỏng gối ra trước, lâu ngày dẫn tới tổn thương sụn chêm, sụn khớp, gây thoái hóa khớp và người bệnh không có khả năng chơi thể thao, chạy, nhảy do lỏng gối. Mục tiêu của phẫu thuật tái tạo DCCT là làm vững khớp gối, phục hồi biên độ vận động khớp gối, dự phòng các tổn thương thứ phát do lỏng gối gây nên. Thời gian qua, phẫu thuật nội soi phát triển mạnh mẽ, các phương tiện cố định mảnh ghép dây chằng ra đời và hiểu biết ngày càng rõ hơn về giải phẫu, sinh lý DCCT đã góp phần cải thiện kết quả phẫu thuật. Trong các kỹ thuật tái tạo DCCT, kỹ thuật sử dụng đường hầm chột chứa mảnh ghép dây chằng đã khẳng định tính ưu việt so với các kỹ thuật khác. Đường hầm chứa mảnh ghép nhanh chóng được lấp đầy bởi tổ chức xương, mảnh ghép dây chằng không đòi hỏi chiều dài như các kỹ thuật tạo đường hầm xuyên. Kỹ thuật tái tạo DCCT sử dụng 1 gân cơ bán gân gập 4, với 2 đường hầm đùi, chày chột, sử dụng phương tiện cố định mảnh ghép dây chằng là TightRope RT được Cerulli G mô tả đầu tiên. Phẫu thuật tái tạo DCCT sử dụng TightRope RT để treo và làm căng mảnh ghép dây chằng được gọi là kỹ thuật “all inside”, kỹ thuật “không đường rạch” (without incision). Nghiên cứu này nhằm: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi tái tạo DCCT bằng kỹ thuật “all inside” và nhận xét ưu nhược điểm của kỹ thuật. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tƣợng nghiên cứu. * Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân (BN) bị đứt DCCT > 18 tuổi, được phẫu thuật tái tạo DCCT với kỹ thuật “all inside” (mảnh ghép gân cơ bán gân tự thân gập 4, cố định 2 đầu mảnh ghép bằng TightRope RT, đường hầm đùi chột và đường hầm chày chột), có hoặc không có tổn thương sụn chêm kèm theo, do một nhóm phẫu thuật viên thực hiện tại Bệnh viện Quân y 103. * Tiêu chuẩn loại trừ: tổn thương DCCT độ I, độ II; tổn thương dây chằng bên trong, tổn thương dây chằng bên ngoài, tổn thương dây chằng chéo sau, tổn thương góc sau trong, hoặc góc sau ngoài, TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018 102 tái tạo DCCT lần 2, đứt DCCT ở cả 2 khớp gối, không đủ tư liệu nghiên cứu, không đánh giá kiểm tra được kết quả sau phẫu thuật. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu. * Kỹ thuật: vô cảm bằng tê tủy sống, BN nằm ngửa, gối gấp 90º, đùi tựa vào dụng cụ đỡ, bàn chân tỳ vào vật đỡ. Ga rô tại 1/3 trên đùi với áp lực duy trì 320 mmHg. Vào khớp gối với 2 lối vào trước trong và trước ngoài (sát 2 bên gân bánh chè). Nội soi khớp gối kiểm tra và đánh giá tổn thương. Rạch da dài 3 cm theo hướng gân cơ bán gân ở mặt trước trong 1/3 trên cẳng chân, phía trong lồi củ trước xương chày khoảng 2 cm, bộc lộ gân cơ bán gân, cắt chẽ ngang, dùng dụng cụ lấy gân mở (tripper open), lấy gân cơ bán gân, bộc lộ điểm bám gân, giải phóng gân khỏi điểm bám chày. Lấy bỏ phần cơ dính vào gân, gập 4 gân cơ bán gân qua vòng treo của 2 TightRope RT, khâu cố định 2 đầu mảnh ghép bằng chỉ không tiêu siêu bền. Vị trí khâu cách đầu gân phía đường hầm đùi 20 mm và phía đường hầm chày 25 mm. Đo đường kính của mảnh ghép dây chằng và chiều dài của mành ghép. Căng mảnh ghép trên bàn căng gân. Nội soi khớp gối, dùng shaver cắt dọn phần còn lại của DCCT, giữ lại mốc điểm bám của dây chằng. Xử trí các tổn thương sụn chêm và màng hoạt dịch, sụn khớp. Khoan tạo đường hầm đùi từ trong ra ngoài qua lối vào trước trong, ở điểm 10h đối với gối phải và 2h đối với gối trái ở tư thế gối gấp tối đa (hyperflexion) với đường kính tương ứng đường kính mảnh ghép dây chằng, sâu 25 - 30 mm. Khi khoảng cách từ vị trí khoan đinh dẫn đường ở mặt trong lồi cầu ngoài đến mặt ngoài xương đùi dài 45 - < 50 mm, khoan đường hầm đùi có độ sâu 20 mm. Khi khoảng cách từ vị trí khoan đinh dẫn đường ở mặt trong lồi cầu ngoài đến mặt ngoài xương đùi dài 50 - 55 mm, khoan đường hầm đùi có độ sâu 25 mm. Khoan tạo đường hầm chày từ trong ra bằng FlipCutter (Arthrex, Naples, FL), vị trí của đường hầm chày chính là gốc của DCCT tại mâm chày. Khoan FlipCutter với sự trợ giúp của dụng cụ định hướng, tạo góc với mặt phẳng mâm chày 55º. Sau khi khoan FlipCutter với đường kính lưỡi khoan khi bẻ ngang tương ứng đường kính của mảnh ghép dây chằng vào trong khớp, lật ngang lưỡi khoan, khoan lùi từ trong, khi mảnh ghép dây chằng dài 60 - < 65 mm, khoan đường hầm chày sâu 25 mm. Mảnh ghép dây chằng có chiều dài 65 - 70 mm, khoan đường hầm chày sâu 30 mm. Đưa mảnh ghép dây chằng vào khớp qua lối vào trước trong. Kéo các sợi chỉ của TightRope RT cho đến khi then ngang (Button) thoát ra ngoài vỏ xương đùi. Kéo căng lần lượt từng sợi chỉ nhằm thu ngắn dần khoảng dây treo mảnh ghép dây chằng của TightRope RT, đảm bảo cho đầu mảnh ghép dây chằng áp sát đáy của đường hầm đùi. Kéo sợi chỉ TightRope RT cho đến khi then ngang thoát ra ngoài vỏ xương chày. Kéo căng sợi chỉ TightRope RT ở tư thế gối gấp 30º để đảm bảo mảnh ghép dây chằng căng nhất. Rút bỏ chỉ căng TightRope RT, buộc và cắt chỉ cố định khoảng treo mảnh ghép dây chằng. Đóng vết mổ lấy gân 2 lớp, không đặt dẫn lưu, đóng lối vào khớp một lớp. Cố định gối duỗi bằng nẹp Orbee. Cắt chỉ sau 2 tuần. TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018 103 Sau mổ tiến hành chụp X quang khớp gối đánh giá then ngang của TightRope RT có tỳ sát mặt ngoài xương chày, xương đùi hay không. Trong 6 tuần đầu, tháo nẹp cố định gối để tập gấp gối thụ động và chủ động, tập nâng chân, tập sức cơ tứ đầu đùi. Sau 6 tuần, tháo nẹp cố định, tiếp tục phục hồi biên độ vận động khớp gối, sức cơ tứ đầu đùi. Tập đi không có nẹp và không có nạng. Tập chạy sau 3 tháng, chơi thể thao sau 9 - 12 tháng. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu. Nghiên cứu 117 bệnh nhân (BN) trong đó 104 nam, 13 nữ. Tuổi trung bình 32,87 (19 - 60 tuổi). 62 BN tổn thương gối phải, 55 BN tổn thương gối trái. 85 BN đứt DCCT đơn thuần, 32 BN rách sụn chêm kèm theo. Trong đó, 15 BN rách sụn chêm trong (8 BN rách ở sừng sau, 7 BN rách hình quai xách). 17 BN rách sụn chêm ngoài (10 BN rách ở sừng sau, 7 BN rách hình quai xách). Tất cả BN rách sụn chêm, chúng tôi cắt sửa phần sụn chêm rách. Thời gian phẫu thuật: 30 - 90 phút. BN chỉ bị đứt DCCT đơn thuần, thời gian phẫu thuật kéo dài 30 - 45 phút. Đường kính mảnh ghép dây chằng: 7 - 9 mm. Khi lấy gân bán gân làm mảnh ghép dây chằng ở BN gày, hoạt động thể thao thấy gân cơ bán gân có đường kính lớn hơn ở người béo hoặc không hoạt động thể thao thường xuyên. Gân cơ bán gân ở nam có đường kính lớn hơn nữ. Kỹ thuật sử dụng TightRope RT cố định 2 đầu mảnh ghép bằng cách treo ra ngoài vỏ xương đùi và xương chày, chỉ cần lấy phần mảnh ghép dây chằng nằm trong đường hầm xương chày và xương đùi 1,5 - 2 cm là đủ, phần còn lại là dây treo của TightRope RT. Chiều dài mảnh ghép dây chằng 6 - 7 cm. Chính vì đặc điểm này, chỉ cần lấy 1 gân cơ bán gân gập 4 vẫn có thể tạo mảnh ghép dây chằng có kích thước đủ lớn và đủ dài. Trong nghiên cứu này, mảnh ghép dây chằng có chiều dài 6 - 7,5 mm, chiều dài mảnh ghép đủ dài để phần mảnh ghép dây chằng nằm trong mỗi đường hầm xương đùi và xương chày khoảng 20 - 25 mm, đảm bảo độ bám vững chắc dây chằng trong đường hầm xương đùi và xương chày. Lubowitz J.H (2006) [3] cho rằng: mảnh ghép dây chằng lý tưởng nằm trong đường hầm đùi 15 - 20 mm, đoạn nằm trong khớp gối 20 - 25 mm và đoạn trong đường hầm chày 25 - 30 mm. Tổng chiều dài của mảnh ghép dây chằng phải ngắn hơn toàn bộ chiều dài đường hầm đùi, đường hầm chày và đoạn dây chằng trong khớp 5 - 7 mm. Như vậy, mảnh ghép dây chằng dài 60 - 65 mm. Theo Sam K.Y và CS (2017) [1], chiều dài mảnh ghép gân cơ bán gân gập 4 khoảng 58 - 73 mm. Ưu điểm vượt trội của kỹ thuật này là chỉ lấy gân cơ bán gân, không phải lấy cả gân cơ thon, nhưng vẫn đảm bảo độ lớn của mảnh ghép dây chằng và đoạn ngậm trong xương đủ dài. 2. Kỹ thuật tạo đƣờng hầm đùi chột và đƣờng hầm chày chột. Chúng tôi thực hiện khoan đường hầm đùi từ trong ra, sử dụng khoan đinh dẫn đường, sau đó khoan mũi khoan có đường kính tương ứng với đường kính TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018 104 của mảnh ghép dây chằng, khoan theo đinh dẫn đường với độ sâu đường hầm đùi 25 - 30 mm. Bird J.H và CS (2011) [2] tiến hành khoan đường hầm đùi sâu 20 mm và đường hầm chày sâu 30 - 35 mm. Chúng tôi khoan đường hầm đùi sâu hơn (25 - 30 mm) và đường hầm chày nông hơn (25 - 30 mm) so với Bird J.H, do xương chày của người Việt Nam nhỏ hơn so với người châu Âu. Chúng tôi không gặp trường hợp nào khoảng cách từ vị trí trong khớp của đường hầm chày đến điểm ngoài mặt ngoài xương chày vượt quá 55 mm với góc khoan 50 - 55º. Do đó, nếu đường hầm chày sâu đến 35 mm, phần còn lại mỏng, có nguy cơ “sập, vỡ” đáy đường hầm khi thu ngắn khoảng dây treo của TightRope RT làm căng mảnh ghép dây chằng. Không có trường hợp nào khoảng cách từ vị trí trong khớp của đường hầm đùi đến điểm ngoài mặt ngoài xương đùi < 45 mm. Để đảm bảo an toàn cho đáy của cả 2 đường hầm chột, chúng tôi dịch chuyển mảnh ghép dây chằng về phía đường hầm đùi so với kỹ thuật của Bird J.H nên không gặp “sập, vỡ” đáy đường hầm làm cho button của TightRope RT bị lún vào trong xương. Chúng tôi xác định vị trí khoan tạo đường hầm chày là gốc DCCT tại mâm chày. Quan điểm này được nhiều phẫu thuật viên sử dụng hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tiễn không phải lúc nào cũng khoan đúng vị trí mong muốn, mặc dù có dụng cụ định vị, nguyên nhân là do là dụng cụ dùng lâu ngày bị lệch hướng, hoặc do khi khoan đã vô tình đổi hướng cưỡng bức làm cho điểm trong khớp không đúng vị trí, phải khoan lại. Xử trí đúng vị trí mới “bật” lưỡi khoan FlipCutter và khoan tạo đường hầm chày chột từ trong ra. 3. Kỹ thuật treo và làm căng mảnh ghép dây chằng. Kỹ thuật không cần phải tính toán khoảng dây treo đầu mảnh ghép dây chằng như XO button hoặc retro button. Phẫu thuật viên chỉ cần tính đoạn mảnh ghép dây chằng nằm trong xương đủ dài để mảnh ghép dây chằng “ngậm” chắc trong đường hầm xương. Do đo, kỹ thuật đơn giản, thời gian phẫu thuật rút ngắn (30 - 45 phút). Có thể kéo dài hơn nếu tổn thương sụn chêm kết hợp. Tuy nhiên, khi chưa thu ngắn thì khoảng dây treo của TighRope RT khá dài nên khi kéo mảnh ghép dây chằng vào đường hầm đùi có nguy cơ kéo quá tay làm thanh treo của TightRope RT vượt xa vỏ xương đùi, nằm trong khối cơ rộng ngoài, thậm chí vượt cả da mặt ngoài đùi ra ngoài. Khi đó, phẫu thuật viên phải rạch da, bộc lộ dây treo của TightRope RT đến tận mặt ngoài xương đùi (vị trí dây treo thoát ra khỏi xương đùi). Sau khi kiểm soát dây treo tới mặt ngoài xương đùi, phẫu thuật viên kéo căng thứ tự các sợi dây để button dần áp sát mặt ngoài xương đùi, dây treo mảnh ghép dây chằng được thu ngắn. Để phòng tránh tình trạng này xảy ra, khi kéo mảnh ghép dây chằng vào đường hầm đùi phải chú ý kéo sao cho button thoát ra khỏi xương đùi là dừng lại ngay để đảm bảo button luôn áp sát mặt ngoài xương đùi, sau đó mới kéo căng thứ tự các sợi dây để thu ngắn khoảng dây treo TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018 105 mảnh ghép dây chằng cho đến khi các sợi dây kéo không dịch chuyển nữa, nghĩa là đầu mảnh ghép đã sát đáy đường hầm đùi. Đối với TightRope RT phía đường hầm chày, khi kéo dây thu ngắn, khoảng dây treo luôn có nguy cơ đầu button “chui” vào lỗ khoan ở đường hầm xương chày. Vì vậy, khi button gần sát vỏ xương chày, chúng tôi dùng pince nâng đầu button để button nằm ngang tỳ lên vỏ ngoài của mặt ngoài xương chày. 4. Kết quả phẫu thuật. - Kết quả gần (trong 3 tuần đầu sau phẫu thuật): mặc dù không đặt dẫn lưu khớp sau phẫu thuật, nhưng chỉ có 15 BN phải chọc hút máu khớp gối sau phẫu thuật. Trong số này, 5 BN phải chọc hút máu khớp gối 2 - 3 lần. Tất cả các vết mổ lấy gân và lối vào khớp đều liền tốt. 2 BN bị sốt, gối nóng và tràn dịch khớp ngay tuần đầu sau phẫu thuật, phải nội soi lại rửa khớp. Những BN này sau đó hồi phục tốt, gối vững, không nhiễm khuẩn khớp gối, không tràn dịch khớp gối kéo dài. Không BN nào bị mất cảm giác ở phần da trước trong 1/3 trên cẳng chân (dưới xương bánh chè). 12 BN bị tấy đỏ dọc theo mặt trước trong cẳng chân và đau nhức dọc theo xương chày, nhưng không có biểu hiện nhiễm khuẩn. 4 BN button không áp sát mặt ngoài xương đùi. Những BN còn lại, button đều áp sát mặt ngoài xương đùi. - Kết quả xa (> 12 tháng sau phẫu thuật): 92/117 BN được theo dõi sau phẫu thuật > 12 tháng (xa nhất 25 tháng). + Không BN nào bị hạn chế biên độ gấp, duỗi gối. + 5 BN đau mơ hồ quanh gối, 2 BN đau phía sau gối, 2 BN đau ở khe khớp gối, tất cả không phải can thiệp thêm. + Cảm giác có tiếng kêu trong gối khi gấp, duỗi: 5 BN, hiện tượng này xuất hiện ngay sau phẫu thuật vài tháng khi BN đã đi lại và sinh hoạt, công tác. + Tình trạng teo cơ: 20/92 BN còn bị teo cơ đùi. + Đánh giá tình trạng lỏng khớp: 87/92 BN (94,57%) gối vững (ngăn kéo trước (-), Lachman (-), Pivot Shift (-)), BN trở lại hoạt động thường ngày, chơi thể thao, cảm giác gối vững; 4/92 BN (4,34%) gối lỏng (cả 4 BN đều có dấu hiệu Lachman (+), nhưng Pivot Shift và ngăn kéo trước (-)), đây là 4 BN then ngang của TightRope RT không áp sát vỏ ngoài xương đùi, cách vỏ xương khoảng 1 - 2 mm; 1/92 BN (1,09%) gối lỏng (cả dấu hiệu ngăn kéo trước, Pivot Shift và Lachman (+)), BN cảm giác lỏng gối, nhưng chưa phẫu thuật lại. Với BN này chúng tôi chưa đủ cơ sở xác định nguyên nhân. + Khoảng trượt ra trước của mâm chày đo bằng KT1000 so với bên lành, chúng tôi chỉ kiểm tra được 62/92 BN, trong đó 57 BN được đánh giá trên lâm sàng gối vững, độ trượt ra trước của mâm chày không quá 1 mm so với bên lành (7 BN mâm chày trượt ra trước ít hơn so với bên lành), 4 BN gối lỏng khi khám, nhưng BN vẫn thấy vững, mâm chày trượt ra trước 1 - 2 mm, BN còn lại mâm chày trượt ra trước 4 mm (đây là BN gối lỏng). + Điểm Lysholm cao nhất 100, thấp nhất 75. Rất tốt 82/92 BN (89,13%), TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018 106 tốt 9/92 BN (9,78%), trung bình 1/92 BN (1,09%). Tỷ lệ khá cao so với các phương pháp phẫu thuật khác. Kết quả cho thấy kỹ thuật “all inside” khá tin cậy. Tuy nhiên, cần tiếp tục theo dõi thêm đối với tỷ lệ dây chằng bị đứt lại khi người bệnh tham gia các hoạt động thường ngày và thể thao. Lubowitz J.H và CS (2013) [3] so sánh kết quả ở 23 BN tái tạo DCCT theo phương pháp kinh điển và 23 BN tái tạo DCCT theo kỹ thuật “all inside” cho thấy: kỹ thuật “all inside” ít gây đau hơn, gối vững hơn, biên độ vận động khớp gối hồi phục tốt hơn. Akio E và CS (2014) [4] nghiên cứu khả năng cố định của endo button và TightRope RT trên thực nghiệm, kết quả cho thấy không có sự khác biệt rõ giữa 2 nhóm. Nghiên cứu kết luận endo button và TightRope RT sử dụng có hiệu quả trong cố định mảnh ghép DCCT. KẾT LUẬN Phẫu thuật tái tạo DCCT bằng kỹ thuật “all inside” đạt 98,91% (91/92 BN) rất tốt và tốt; 1,09% (1/92 BN) đạt kết quả trung bình. Kỹ thuật có ưu điểm thời gian phẫu thuật ngắn, bảo toàn được gân cơ thon. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sam K.Y, Zakk M.B, Alistair I.E.B, Harry C.P, Stewart T.C, Mike J.R, Adrian J.W. Clinical outcomes of anatomic, all inside, anterior cruciate ligament (ACL) reconstruction. The Knee. 2017, 24, pp.55-62. 2. Bird J.H, Carmont M.R, Dhillon M, Smith N, Brown C, Thompson P et al. Validation of a new technique to determine midbundle femoral tunnel position in anterior cruciate ligament reconstruction using 3 - dimensional computed tomography analysis. Arthroscopy. 2011, 27, pp.1259-1267. 3. Lubowitz J.H, Schwartzberg R, Smith P. Randomized controlled trial comparing all - inside anterior cruciate ligament reconstruction technique with anterior cruciate ligament reconstruction with a full tibial tunnel. Arthroscopy. 2013, 29, pp.1195-1200. 4. Akio E, Mitsuo O, Nobuo A, Masataka D, Atsuo N, Muhammad A.U. Mechanical properties of suspensory fixation devices for anterior cruciate ligament reconstruction: Comparison of the fixed - lengthloopdeviceversus the adjustable - length loop device. The Knee. 2014, 21, pp.743-748.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_ung_dung_ky_thuat_all_inside_tai_tao_day_chang_cheo.pdf
Tài liệu liên quan