Tỉ lệ mổ sanh trong mỗi nhóm khoảng 17%. Tất
cả các ca mổ sanh đều được chích KSDP ngay sau
kẹp rốn, và theo thực hành tại bệnh viện, kháng
sinh được lặp lại liều sau 6 giờ để phòng ngừa
nhiễm khuẩn niệu do ống thông tiểu. Khoảng 50%
số ca mổ sanh này được phẫu thuật viên quyết
định dùng tiếp kháng sinh chích trong 3-4 ngày.
Yếu tố này có thể góp phần tạo nên sai lệch khi so
sánh hiệu quả của hai phác đồ KSDP. Sự khác biệt,
nếu có, giữa hai phác đồ có thể phần nào bị ước
lượng non.
Một hạn chế khác là thử nghiệm lâm sàng này
không làm mù do không khả thi về mặt kỹ thuật.
Chúng tôi cố gắng giảm tối đa sai lệch đánh giá
bằng cách định nghĩa rõ ràng nhiễm khuẩn ối và
các kết cục phụ. Bác sĩ Khoa sơ sinh đưa ra quyết
định chẩn đoán và điều trị hoàn toàn độc lập với
quá trình phân ngẫu nhiên đối tượng nghiên cứu.
Viêm nội mạc tử cung trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có một ca (0,2%) trong nhóm KSDP
sau ối vỡ 6 giờ. Cararach (8) và Ovalle (9) cũng
không quan sát thấy viêm nội mạc tử cung trong
nhóm dùng KSDP. Bên cạnh việc sử dụng kháng
sinh sau mổ sanh đã nêu trên, hơn 95% các ca
sanh ngã âm đạo có uống thêm kháng sinh 3-4
ngày, có thể đã làm hạn chế viêm nội mạc tử cung.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có gần 4% trẻ
sơ sinh được điều trị kháng sinh ngay sau sanh vì
nghi ngờ NKSS. Tuy nhiên, sau khi có đầy đủ khảo
sát cận lâm sàng, chỉ có duy nhất một ca (0,2%)
chẩn đoán NKSS xác định. Cararach (8) và Ovalle
(9) cũng quan sát thấy tỉ lệ NKSS rất thấp trong
nhóm dùng KSDP. Theo thực hành hiện nay tại
bệnh viện Hùng Vương, có từ 25%-30% trẻ sơ sinh
của nghiên cứu này được dùng KSDP do có yếu tố
nguy cơ bị NKSS. Điều này góp phần làm giảm tối
đa số ca NKSS trong các trường hợp OVN.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kháng sinh dự phòng trong thai trưởng thành ối vỡ non: Thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NguyễN VăN TRươNg, Đỗ VăN DũNgSẢn KHOa VÀ SƠ SInH
Tập 11, số 03
Tháng 7-2013
Tạp chí Phụ Sản
28
KHÁNG SINH DỰ PHÒNG
TRONG THAI TRƯỞNG THÀNH ỐI VỠ NON:
THỬ NGHIỆM ĐỐI CHỨNG NGẪU NHIÊN
Nguyễn Văn Trương(1), Đỗ Văn Dũng(2)
(1) Bệnh viện Hùng Vương, (2) Trường Đại học Y Dược TP.HCM
Tóm tắt
Mục tiêu: so sánh hiệu quả phòng ngừa nhiễm
khuẩn của kháng sinh dự phòng (KSDP) sau ối vỡ 18
giờ so với KSDP sau ối vỡ 6 giờ trong các trường hợp
thai trưởng thành có ối vỡ non. Thiết kế: thử nghiệm
đối chứng ngẫu nhiên, tương đương. Địa điểm: bệnh
viện phụ sản Hùng Vương, 900 giường, thành phố Hồ
Chí Minh, Việt Nam. Đối tượng: các sản phụ có thai
> 37 tuần, đơn thai, ngôi thuận, và nhập viện vì ối
vỡ non, chưa có dấu hiệu nhiễm khuẩn ối. Phương
pháp: Sử dụng phương pháp ngẫu nhiên theo khối,
do phần mềm tạo ra. Sau khi ký giấy đồng ý tham gia,
các sản phụ được phân ngẫu nhiên theo tỉ số 1:1 vào
nhóm dùng KSDP sau ối vỡ 6 giờ (Augmentin 1 gam
tiêm mạch mỗi 8 giờ cho đến lúc sanh) hoặc dùng
KSDP sau ối vỡ 18 giờ. Tất cả các sản phụ đều được
khởi phát chuyển dạ. Khoảng tin cậy (KTC) 95% của
hiệu số tỉ lệ nhiễm khuẩn ối được so sánh với giới hạn
2% để xác lập tính tương đương giữa 2 phác đồ KSDP.
Kết cục chính: nhiễm khuẩn ối. Kết quả: Có 905 sản
phụ được thu nhận và phân nhóm ngẫu nhiên trong
thời gian nghiên cứu từ tháng 08/2009 đến tháng
11/2011. Tỉ lệ nhiễm khuẩn ối trong nhóm KSDP sau
ối vỡ 6 giờ và 18 giờ lần lượt là 0,9% (4/452) và 0,7%
(3/453). Hiệu số tỉ lệ nhiễm khuẩn ối là 0,2% (KTC 95%
từ -0,9% đến 1,4%). NKSS trong nhóm KSDP sau ối vỡ
18 giờ không khác biệt so với nhóm KSDP sau ối vỡ 6
giờ (2,0% so với 1,1%, KTC 95% của khác biệt từ -0,7%
đến 2,5%). Giữa hai nhóm, không có khác biệt về sốt
hậu sản, viêm nội mạc tử cung, trẻ nhập khoa sơ sinh.
Kết luận: Phác đồ KSDP sau ối vỡ 18 giờ có hiệu quả
phòng ngừa nhiễm khuẩn ối tương đương phác đồ
KSDP sau ối vỡ 6 giờ. Sử dụng kháng sinh sau ối vỡ 6
giờ là không cần thiết.
Abstract
Prophylactic Antibiotics in Prelabor Rupture
Of Membranes At Term: A Randomised Controlled
Equivalence Trial
Objectives: to compare the effectiveness of
antibiotic administration after amniotic membrane
rupture 18 hours versus after 6 hours in order to
prevent infection among women with term prelabor
rupture of the membranes (PROM). Design:
randomized controlled equivalence trial. Setting:
Hung Vuong hospital, a tertiary referral 900-bed
maternity center at Ho Chi Minh City, Vietnam.
Participants: women with PROM and single, live
and cephalic- presentation at completed 37 weeks of
gestation or more, without sign of chorioamnionitis.
Methods: a central, computer- generated, block-
randomization scheme was adopted. After giving
a written informed consent, an eligible participant
was randomly assigned to receive either antibiotic
after membrane rupture 6 hours (Augmentin IV 1
gam every 8 hours until delivery) or after membrane
rupture 18 hours. Induction of labour were conducted
for all pregnant women. The 95% confidence interval
of risk difference of chorioamnionitis was compared
to the margin 2% to establish the equivalence of
two antibiotic regimens. Main outcomes: clinical
chorioamnionitis. Results: a total of 905 participants
were randomized from Aug 2008 to Nov 2011.
Chorioamnionitis rate was 0.9% (4/452) in after-6
hours antibiotic group and 0.7% (3/453) in after-18
hours antibiotic group, yielding a risk difference of
0.2% (95% CI: -0.9% to 1.4%). Neonatal infection rate
in after-18 hours antibiotic group was not statistically
different compared to that of after-6 hours antibiotic
group (2.0% versus 1.1%, 95%CI: -0.7% to 2.5%). There
were no significant differences in rate of postpartum
fever, endometritis or admission to neonatal intensive
care unit between the two groups. Conclusions:
antibiotic administration after amniotic membrane
rupture 18 hours has a equivalent effectiveness
compared to antibiotic after 6 hours in preventing
chorioamnionitis. The antibiotic regimen after
amniotic membrane rupture 6 hours is unnecessary.
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Văn Trương, truong-bvhv@hcm.vnn.vn
Ngày nhận bài (received): 01/05/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 30/05/2013. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/07/2013
Tập 11, số 03
Tháng 7-2013
Tạp chí Phụ Sản
29
TạP Chí Phụ sảN - 11(3), 28-34, 2013
Đặt vấn đề
Ối vỡ non (OVN) là tình trạng vỡ màng ối trước
khi có chuyển dạ. OVN ở các thai kỳ trưởng thành
(tuổi thai từ 37 tuần) chiếm tỉ lệ 8% (1), và thời gian
từ lúc vỡ ối đến lúc chuyển dạ càng kéo dài sẽ càng
làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn cho cả mẹ (nhiễm
khuẩn ối, viêm nội mạc tử cung) lẫn thai (nhiễm
khuẩn sơ sinh).
Cách xử trí OVN ở thai trưởng thành là một chủ đề
có nhiều tranh luận từ thập niên 1950 đến nay. Thử
nghiệm TermPROM năm 1996 đã cung cấp các bằng
chứng đáng tin cậy ủng hộ việc khởi phát chuyển
dạ (KPCD) sớm sau nhập viện đối với các trường
hợp OVN ở thai đủ trưởng thành nhằm phòng ngừa
nhiễm khuẩn. So với biện pháp trì hoãn đợi chuyển
dạ tự nhiên, KPCD với oxytocin truyền tĩnh mạch
không những không làm tăng tỉ lệ mổ sanh, mà còn
giảm nhiễm khuẩn ối ở mẹ (2). Cách xử trí này đạt
được sự đồng thuận cao và khuyến cáo của Hội Sản
phụ khoa Hoa Kỳ - ACOG - năm 2007 đề nghị KPCD
sớm đối với các trường hợp này (3).
Bên cạnh KPCD sớm nhằm làm giảm nhiễm
khuẩn ối, một can thiệp khác nhằm phòng ngừa
nhiễm khuẩn cho cả mẹ lẫn thai là dùng kháng sinh
dự phòng (KSDP) sau khi ối vỡ. Can thiệp này dựa
trên quan sát từ năm 1979 trên những sản phụ mổ
sanh, có ối vỡ hơn 6 giờ, vi khuẩn được phân lập từ
dịch ối trong hơn 90% các trường hợp(4).
Group B Streptococcus (GBS) là nguyên nhân
hàng đầu gây NKSS sớm. Trẻ sơ sinh bị nhiễm GBS
chủ yếu từ mẹ trong quá trình chuyển dạ. Các nỗ lực
dùng KSDP vào cuối thập niên 1990 nhằm phòng
ngừa lây GBS từ mẹ sang con trong chuyển dạ đã
đạt được những thành công. Tại Hoa Kỳ, tỉ lệ NKSS
sớm đã giảm 65% vào năm 1998 (5). Một trong số
các chỉ định nhằm phòng ngừa nhiễm GBS sơ sinh
là sử dụng KSDP khi ối vỡ hơn 18 giờ. Chỉ định sử
dụng KSDP này đã được khuyến cáo và thực hành
phổ biến tại các nước phát triển (6). Do ối vỡ hơn 18
giờ là yếu tố nguy cơ của NKSS (7), và chứng cứ về
vai trò của KSDP khi ối vỡ hơn 18 giờ đã được xem là
rõ ràng (6), thực hành này cần được thực hiện ở các
bệnh viện Việt Nam.
Cho đến nay, chỉ có hai thử nghiệm lâm sàng
được thiết kế tốt vào cuối thập niên 1990 đánh giá
hiệu quả của KSDP sớm sau khi nhập viện trong OVN
ở thai trưởng thành (8), (9). Một tổng quan hệ thống
đã phân tích gộp dựa vào dữ liệu của hai thử nghiệm
này (10) cho thấy KSDP sớm sau khi nhập viện làm
giảm viêm nội mạc tử cung. Chưa thấy có khác biệt
xét trên các tiêu chí nhiễm khuẩn ối và nhiễm khuẩn
sơ sinh (NKSS). Do tỉ lệ viêm nội mạc tử cung khá
thấp, nên hiện chưa có khuyến cáo chính thức về
dùng KSDP cho chỉ định này trong các trường hợp
OVN ở thai trưởng thành.
Một khi đã KPCD sớm, thời gian của chuyển dạ
được rút ngắn, đưa đến giảm nhiễm khuẩn cho mẹ.
Vì vậy, cần đánh giá sự cần thiết của chỉ định sử
dụng KSDP để phòng ngừa nhiễm khuẩn ối trong
OVN ở thai trưởng thành? Bởi vì bên cạnh mặt tích
cực, sử dụng KSDP gây tăng chi phí y tế, tăng nguy
cơ xuất hiện kháng thuốc và tăng nguy cơ sốc phản
vệ (11), một biến chứng hiếm gặp nhưng rất trầm
trọng, đặc biệt đối với sản phụ. Thêm vào đó, việc
thực hành phổ biến sử dụng KSDP đường tiêm
trong các trường hợp mổ sanh đã giảm bớt vai trò
quan trọng của KSDP trong OVN nhằm phòng ngừa
nhiễm khuẩn ối và viêm nội mạc tử cung.
Thực hành hiện nay tại các trung tâm sản khoa
tại Việt Nam là dùng KSDP sau ối vỡ 6 giờ hoặc 12 giờ
nhằm phòng ngừa các nhiễm khuẩn ở mẹ và thai.
Nếu áp dụng KPCD sớm, có thể không cần phòng
ngừa nhiễm khuẩn ối, mà chỉ cần sử dụng KSDP khi
ối vỡ hơn 18 giờ nhằm phòng ngừa NKSS. Vì vậy,
nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm định
giả thuyết ở sản phụ có OVN ở thai trưởng thành và
được KPCD sớm, thực hiện KSDP sau ối vỡ 18 giờ có
hiệu quả phòng ngừa nhiễm khuẩn ối tương đương
với phác đồ đang được thực hành là sử dụng KSDP
sau ối vỡ 6 giờ.
Phương pháp
Nghiên cứu này là một phần của dự án nhằm
xác định các can thiệp tối ưu cho các trường hợp
OVN ở thai trưởng thành, gồm so sánh hai phác
đồ KPCD và so sánh hai phác đồ KSDP. Thử nghiệm
thuộc loại tương đương, đối chứng, ngẫu nhiên
gồm 2 nhóm song song, được tiến hành tại bệnh
viện Hùng Vương, là bệnh viện chuyên khoa phụ
sản 900 giường tại thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên
cứu được Hội đồng khoa học và y đức của bệnh
viện chấp thuận và cho phép tiến hành vào tháng
8/2009. Quá trình thực hiện nghiên cứu tuân thủ
theo các nguyên tắc của tuyên ngôn Helsinki và
hướng dẫn Thực hành lâm sàng tốt.
Đối tượng nghiên cứu là các sản phụ đến sanh
tại bệnh viện Hùng Vương. Sản phụ thỏa tiêu
chuẩn thu nhận khi có ối vỡ, không có dấu hiệu
nhiễm khuẩn ối, thai kỳ 37 tuần (xác định theo
siêu âm quí 1 hoặc quí 2), đơn thai, ngôi đầu, sức
NguyễN VăN TRươNg, Đỗ VăN DũNg
Tập 11, số 03
Tháng 7-2013
Tạp chí Phụ Sản
30
khỏe sản phụ bình thường, chưa có chuyển dạ tích
cực (cổ tử cung - CTC >3cm, có 6 cơn gò đều / 20
phút). Dự án còn có mục tiêu khác là so sánh các
biện pháp KPCD. Do đó tiêu chuẩn loại trừ gồm sản
phụ không chấp nhận tham gia thử nghiệm sau khi
đã được giải thích tường tận về mục đích nghiên
cứu; các tiêu chuẩn không phù hợp để khảo sát
KPCD, cụ thể là đã có cố gắng KPCD trước đó, có
chống chỉ định của KPCD như vết mổ lấy thai cũ
hoặc vết mổ bóc u xơ tử cung, nhau tiền đạo, thai
to, đa ối, khung chậu giới hạn, khung chậu hẹp,
ngôi bất thường, biểu đồ tim thai – cơn gò (CTG
- cardiotocography) có biểu hiện bất thường, như
nhịp giảm muộn, nhịp giảm bất định trầm trọng,
tim thai cơ bản nhanh trầm trọng, mất dao động
nội tại, ối lẫn phân su đặc.
Sản phụ có bệnh sử nghi ngờ ối vỡ sẽ được khám
bằng mỏ vịt, nhằm xác định chẩn đoán (xem dịch ối
chảy qua CTC, thực hiện nitrazine test). Chỉ khám âm
đạo bằng tay (đánh giá chỉ số Bishop, khám khung
chậu) sau khi đã sát khuẩn âm đạo CTC với dung dịch
povidone iodine. Sau đó sản phụ được đo CTG 30
phút nhằm phát hiện các bất thường.
Các sản phụ thỏa tiêu chuẩn thu nhận và loại
trừ được mời tham gia nghiên cứu. Sau khi ký giấy
đồng ý tham gia, các sản phụ được phân ngẫu
nhiên theo tỉ số 1:1 vào nhóm dùng KSDP sau ối
vỡ 6 giờ hoặc dùng KSDP sau ối vỡ 18 giờ. Trình tự
phân bổ ngẫu nhiên được tác giả nghiên cứu tạo
bằng phần mềm Stata, với các block có kích thước
4, 8, và 12. Dựa vào trình tự này, một nhân viên văn
thư sẽ tạo một loạt các phong bì đủ dày có đánh
số thứ tự, được dán kín, bên trong chứa thẻ ghi
phác đồ KSDP, hoặc sau ối vỡ 6 giờ hoặc sau ối vỡ
18 giờ. Sau khi thu nhận mỗi đối tượng, nhân viên
nghiên cứu tại khoa sanh mở phong bì theo thứ tự
tương ứng, và xác nhận phác đồ cần áp dụng. Tất
cả các sản phụ được KPCD sớm bằng oxytocin hoặc
misoprostol ngậm dưới lưỡi.
Phác đồ KSDP sau ối vỡ 18 giờ là nhằm phòng
ngừa lây GBS từ mẹ sang con. Kháng sinh Augmentin
được chọn sử dụng do có tỉ lệ nhạy cảm cao nhất
(96%) với GBS tại thành phố Hồ Chí Minh (12).
Augmentin cũng có phổ kháng khuẩn rộng bao
gồm hầu hết các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn ối, do đó
thuốc này cũng được chọn làm KSDP sau ối vỡ 6 giờ
nhằm phòng ngừa nhiễm khuẩn ở mẹ. Tuy cùng sử
dụng Augmentin, nhưng ở mỗi phác đồ, kháng sinh
có chỉ định khác nhau.
Augmentin được tiêm tĩnh mạch 1 gam vào
thời điểm ối vỡ quá 18 giờ mà chưa sanh ở phác đồ
KSDP sau ối vỡ 18 giờ. Trong phác đồ còn lại, kháng
sinh được dùng vào thời điểm ối vỡ 6 giờ, và lặp lại
liều sau 8 giờ nếu chưa sanh. Trường hợp dị ứng
với Augmentin, kháng sinh thay thế là cefazolin 2
gam tiêm mạch, sau đó tiêm 1 gam mỗi 8 giờ cho
đến lúc sanh. Nếu cefazolin cũng bị dị ứng, dùng
clindamycin 900 mg tiêm mạch mỗi 8 giờ cho
đến lúc sanh (6). Trong phác đồ KSDP sau ối vỡ 18
giờ, nếu phát hiện nhiễm khuẩn ối, thì sử dụng
Augmentin vào thời điểm chẩn đoán.
Các sản phụ được xét nghiệm huyết đồ, sau đó
KPCD và theo dõi theo phác đồ chuẩn của bệnh viện.
Trong chuyển dạ, sản phụ được kiểm tra nhiệt độ
mỗi 4 giờ và báo cáo những trường hợp có nghi ngờ
nhiễm khuẩn ối như sốt, thay đổi màu sắc hay mùi
nước ối hoặc những dấu hiệu khác. Các quyết định
lâm sàng về theo dõi chuyển dạ và phương pháp
sanh được xem xét bởi bác sĩ điều trị. Các trường hợp
mổ sanh đều được dùng KSDP ngay sau kẹp rốn theo
phác đồ của bệnh viện.
Tất cả trẻ sơ sinh có mẹ vỡ ối hơn 18 giờ, mẹ sốt
trong chuyển dạ, hoặc có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm
khuẩn ối sẽ được bác sĩ Khoa Sơ sinh đánh giá để làm
các khảo sát cần thiết chẩn đoán NKSS. Các trẻ này
cũng sẽ được dùng KSDP. Trong trường hợp cần thiết,
trẻ sẽ được nhập Chăm sóc sơ sinh tăng cường theo
quyết định của bác sĩ Khoa sơ sinh.
Nhiễm khuẩn ối, được định nghĩa là ối vỡ, nhiệt
độ mẹ >38oC, không tìm thấy nguyên nhân nghi
ngờ khác gây sốt, kèm với một trong các dấu hiệu
sau: (i) tim thai cơ bản nhanh >160 l/phút kéo dài,
(ii) dịch ối hôi, và (3) bạch cầu tăng >20.000/mm3.
Trong thời gian hậu sản, sản phụ được đo nhiệt
độ hai lần/ngày. Chẩn đoán sốt hậu sản nếu nhiệt
độ mẹ >38oC đo được hai lần trong 10 ngày đầu
hậu sản. Chẩn đoán viêm nội mạc tử cung hậu sản
khi có ≥2 trong các dấu hiệu sau: (i) nhiệt độ mẹ
>38oC, sau 24 giờ đầu hậu sản, (ii) ấn TC đau, (iii)
đau hạ vị, và (iv) chảy mủ từ lòng tử cung, với điều
kiện không tìm thấy nguyên nhân nghi ngờ khác.
NKSS sớm được chia hai loại: xác định và nghi
ngờ. Nhiễm khuẩn xác định là khi có dấu hiệu
nhiễm khuẩn và kèm với một trong các dấu hiệu
sau: (i) cấy dương tính đối với máu, dịch não tủy,
nước tiểu, (ii) nhuộm Gram phát hiện vi khuẩn
trong dịch não tủy, và (iii) chụp phim X-quang có
hình ảnh viêm phổi. Nhiễm khuẩn nghi ngờ khi
có dấu hiệu nhiễm khuẩn và kèm với một trong
các dấu hiệu sau: (i) bạch cầu tăng >25.000/mm3
SẢn KHOa VÀ SƠ SInH
Tập 11, số 03
Tháng 7-2013
Tạp chí Phụ Sản
31
TạP Chí Phụ sảN - 11(3), 28-34, 2013
hoặc giảm <8.000/mm3 hoặc đa nhân trung tính
<4.000/mm3, (ii) C-reactive Protein ≥8mg/L, và (iii);
tỉ lệ band cells >20% các bạch cầu đa nhân, hoặc số
đếm tuyệt đối >2.000/mm3.
Phác đồ KSDP sau ối vỡ 18 giờ đã được khuyến
cáo để nhằm phòng ngừa NKSS sớm. Do đó, chỉ cần
đánh giá thêm vai trò của KSDP sau ối vỡ 18 giờ trong
phòng ngừa nhiễm khuẩn mẹ. Kết cục chính được
chọn là nhiễm khuẩn ối. Các kết cục phụ là viêm nội
mạc tử cung, sốt hậu sản, và NKSS sớm.
Phác đồ KSDP sau ối vỡ 18 giờ được chờ đợi là
có tỉ lệ nhiễm khuẩn ối tương đương với sử dụng
KSDP thường qui sau ối vỡ 6 giờ. Với giả thuyết
như vậy, nghiên cứu được thiết kế theo kiểu thử
nghiệm tương đương (equivalence trial). Trong
một thử nghiệm lâm sàng có cỡ mẫu lớn trước
đây, nhiễm khuẩn ối có tỉ lệ 4% trong nhóm ối
vỡ được KPCD sớm với oxytocin (2). So với nhóm
không dùng KSDP, kết quả phân tích gộp từ một
tổng quan (10) cho thấy nhóm dùng KSDP có tỉ lệ
nhiễm khuẩn ối thấp hơn 2%. Do đó, sự khác biệt
về tỉ lệ nhiễm khuẩn ối giữa 2 phác đồ KSDP không
quá 2% có thể chấp nhận là tương đương. Cỡ mẫu
được tính để ước lượng cho khoảng tin cậy (KTC)
95% của độ khác biệt về tỉ lệ nhiễm khuẩn ối giữa 2
phác đồ kháng sinh (13). Giả định tỉ lệ nhiễm khuẩn
ối của nhóm dùng KSDP sau ối vỡ 6 giờ là 4%, với
độ mạnh thống kê 80%, cân nhắc với tính khả thi,
cỡ mẫu cần cho mỗi nhóm vào khoảng 2200 ca để
xác lập tính tương đương của 2 phác đồ KSDP. Phân
tích giữa kỳ được thực hiện vào 2 thời điểm khi dự
án thu nhận được 600 và 1200 đối tượng.
Số liệu được phân tích theo nguyên lý chủ định
điều trị (intention-to-treat), gồm tất cả các đối tượng
đã được phân bổ ngẫu nhiên và có dữ liệu kết cục.
Phần phân tích sẽ gồm hai phần chính (i) Đánh giá
mức độ thành công của quá trình phân bố ngẫu
nhiên bằng thống kê mô tả, và (ii) So sánh sự khác
biệt về kết cục chính và kết cục phụ giữa 2 phác đồ
KSDP. Hiệu số nguy cơ của nhiễm khuẩn ối được ước
lượng cùng với khoảng tin cậy 95% (2 bên). Giới hạn
để kết luận tương đương là 2% (2 bên).
Số liệu được phân tích bằng phần mềm Stata.
Phân tích giữa kỳ được thực hiện vào 2 thời điểm
khi thu nhận được 600 và 1200 đối tượng nhằm so
sánh tỉ lệ nhiễm khuẩn ối. Thử nghiệm sẽ dừng sớm
nếu tính tương đương được xác lập, hoặc sự khác
biệt về tỉ lệ nhiễm khuẩn ối giữa hai phác đồ KSDP
vượt quá 2%.
Kết quả
Có 905 sản phụ thỏa tiêu chuẩn thu nhận, sau
khi ký giấy đồng ý tham gia nghiên cứu, được
phân ngẫu nhiên để dùng KSDP sau ối vỡ 6 giờ
hoặc sau ối vỡ 18 giờ. Trong nhóm KSDP sau 6
giờ, có 12 sản phụ sanh trước thời điểm ối vỡ 6
giờ, nên không dùng kháng sinh; có 3 trường hợp
không dùng kháng sinh do y lệnh không rõ ràng.
Đặc điểm
Ks sau 6 g
(n= 452)
Ks sau 18 g
(n= 453)
Tuổi mẹ (năm)
Con so (%)
Thời gian vỡ ối - KPCD (phút) *
Thời gian nhập viện - KPCD (phút) *
Thời gian KPCD - sanh (phút) *
Thời gian vỡ ối - sanh (phút) *
Điểm Bishop <5 (%) lúc KPCD
KPCD dùng
oxytocin (%)
misoprostol (%)
Khám âm đạo bằng tay (lần)
Cách sanh
Mổ sanh (%)
sanh ngã âm đạo (%)
Cân nặng bé (gam)
27,1±5,2
326 (72,1)
395 (290, 533)
125 (80, 220)
435 (260, 700)
858 (643, 1248)
363 (80,3)
226 (50,0)
226 (50,0)
6,1±2,6
80 (17,7)
372 (82,3)
3039±355
26,9±5,0
328 (72.4)
390 (290, 550)
135 (90, 235)
435 (265, 705)
900 (635, 1230)
371 (81,9)
227 (50,1)
226 (49,9)
6,1±2,5
79 (17,4)
374 (82,6)
3064±352
ghi chú: số liệu được trình bày là số ca (tỉ lệ %) hoặc số trung bình ± độ lệch chuẩn
* : trung vị (tứ phân vị)
Bảng 1. Các đặc điểm nềnsàng lọc đối tượng (n = 1858)
Loại bỏ (n = 953)
Không thỏa tiêu chuẩn (n = 826)
Từ chối tham gia (n = 95)
Lý do khác (n = 32)
Phân ngẫu nhiên (n = 905)
Ks sau ối vỡ 6 giờ (n = 452)
Dùng Ks (n = 437)
Không dùng Ks (n = 15)
- sanh trước khi ối vỡ 6 giờ (n = 12)
- lỗi thực hiện (n = 3)
Ks sau ối vỡ 18 giờ (n = 453)
Dùng Ks (n = 151)
- dùng Ks sau ối vỡ 6 giờ (n = 1)
- dùng Ks do NKo (n = 2)
Không dùng Ks (n = 302)
- sanh trước khi ối vỡ 18 giờ (n = 300)
- lỗi thực hiện (n = 2)
Phân tích (n = 452)
Loại bỏ khỏi phân tích (n = 0)
Phân tích (n = 453)
Loại bỏ khỏi phân tích (n = 0)
Hình 1. sơ đồ các giai đoạn của nghiên cứu
NguyễN VăN TRươNg, Đỗ VăN DũNg
Tập 11, số 03
Tháng 7-2013
Tạp chí Phụ Sản
32
và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Trong toàn bộ 14 trẻ bị NKSS, chỉ có 1 ca được
chẩn đoán nhiễm khuẩn xác định (viêm phổi) và
thuộc nhóm KSDP sau ối vỡ 18 giờ. Các ca NKSS
nghi ngờ được chẩn đoán dựa vào dấu hiệu lâm
sàng và C-reactive Protein ≥8mg/L. Nhóm KSDP
sau ối vỡ 6 giờ có 1 trẻ nhập chăm sóc tăng cường
sơ sinh vì suy hô hấp. Chỉ có 2 trẻ thuộc nhóm
KSDP sau ối vỡ 18 giờ nhập khoa sơ sinh vì nhiễm
khuẩn, 2 trường hợp còn lại là do suy hô hấp và
thoát vị hoành. Tất cả các trường hợp NKSS đều
được điều trị khỏi và xuất viện.
Trong toàn bộ 905 sản phụ, ghi nhận chỉ có 2
trường hợp dị ứng với Augmentin, chiếm tỉ lệ 0,2%.
Cả hai trường hợp này đều đã biết trước tiền sử dị
ứng, và được chuyển sang dùng cefazolin.
Chúng tôi thực hiện phân tích thăm dò thêm
các hình thái sử dụng kháng sinh (Bảng 3). Có
66,7 % sản phụ trong nhóm KSDP sau 18 giờ chưa
cần sử dụng kháng sinh do chuyển dạ được rút
ngắn, so với 3,3% trong nhóm KSDP sau 6 giờ, và
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <0,001,
kiểm định chi bình phương).Trong nhóm KSDP
sau ối vỡ 6g, bình quân một sản phụ dùng 1,3
liều kháng sinh, cao hơn so với nhóm KSDP sau
ối vỡ 18g (0,4 liều kháng sinh/sản phụ). Tất cả các
trường hợp mổ sanh đều được chích KSDP. Tuy
nhiên, có đến 46,3% (37/80) và 55,7% (44/79) các
trường hợp này trong nhóm KSDP sau 6 giờ và
KSDP sau 18 giờ được tiếp tục dùng kháng sinh
chích 3-4 ngày trong thời gian hậu phẫu. Các
trường hợp sanh ngã âm đạo hầu hết đều được
cắt may tầng sinh môn (356/372 = 95,7% trong
nhóm KSDP sau 6 giờ; 365/374 = 97,6% trong
nhóm KSDP sau 18 giờ) và được uống kháng sinh
3-4 ngày trong thời gian hậu sản. Có khoảng 70%
trẻ sơ sinh không cần dùng KSDP. Tuy nhiên, có
lần lượt 3.5% (16/452) và 3,8% (17/453) trẻ trong
nhóm KSDP sau 6 giờ và KSDP sau 18 giờ được
điều trị kháng sinh ngay sau sanh do nghi ngờ
NKSS sớm.
Bàn luận
Cho đến nay vẫn chưa có đủ chứng cứ để
khuyến cáo KSDP trong các trường hợp OVN ở
thai trưởng thành. Kết quả nghiên cứu cho thấy
dùng KSDP sau ối vỡ 18 giờ có hiệu quả phòng
ngừa nhiễm khuẩn ối tương đương với KSDP sau
ối vỡ 6 giờ, nhưng tránh không cần dùng KSDP ở
Có 3 trường hợp trong nhóm KSDP sau ối vỡ 18
giờ được dùng kháng sinh sớm hơn, trong đó 2
trường hợp do chẩn đoán nhiễm khuẩn ối, và 1
trường hợp do thực hiện sai y lệnh (Hình 1). Các
trường hợp này vẫn được phân tích theo nhóm đã
phân ngẫu nhiên. Các đặc điểm nền của hai nhóm
là khá tương đồng, và được tóm tắt trong Bảng 1.
Thời gian tính theo các thời điểm vỡ ối, nhập viện,
KPCD và lúc sanh có phân phối lệch, và dữ liệu
được trình bày dùng số trung vị. Mổ sanh chiếm
tỉ lệ khoảng 17% trong mỗi nhóm, và tất cả các
trường hợp này đều được dùng KSDP.
Đối tượng được thu nhận từ tháng 8/2009. Vào
tháng 11/2011 phân tích giữa kỳ được thực hiện
theo kế hoạch định trước khi thu nhận đạt 1200 cho
toàn bộ dự án. Kết quả phân tích giữa kỳ cho thấy
hai phác đồ KSDP có hiệu quả tương đương trong
phòng ngừa nhiễm khuẩn mẹ. Tỉ lệ nhiễm khuẩn ối
trong nhóm KSDP sau ối vỡ 6 giờ và 18 giờ lần lượt
là 0,9% và 0,7%. Hiệu số tỉ lệ nhiễm khuẩn ối là 0,2%
với KTC 95% từ -0,9% đến 1,4%. Các giới hạn trên và
dưới của KTC không vượt quá giới hạn tương đương
(Hình 2), do đó chúng tôi quyết định kết thúc nghiên
cứu sớm hơn dự kiến theo luật dừng đã xác định
trước trong đề cương.
Viêm nội mạc tử cung rất ít, và không có trường
hợp nào trong nhóm KSDP sau ối vỡ 18 giờ (Bảng
2). Tỉ lệ NKSS trong nhóm KSDP sau ối vỡ 18 giờ là
2,0% so với 1,1% của nhóm KSDP sau ối vỡ 6 giờ,
Hình 2. hiệu số nguy cơ của nhiễm khuẩn ối
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Văn Trương, truong-bvhv@hcm.vnn.vn
Ngày nhận bài (received) 01/05/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 30/5/2013.
Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/07/2013
Hình 1. Sơ đồ các giai đoạn của nghiên cứu
Hình 2. Hiệu số nguy cơ của nhiễm khuẩn ối
Sàng lọc đối tượng (n = 1858)
Phân ngẫu nhiên (n = 905)
KS sau ối vỡ 6 giờ (n = 452)
Dùng KS (n = 437)
Không dùng KS (n = 15)
- sanh trước khi ối vỡ 6 giờ (n = 12)
- lỗi thực hiện (n = 3)
KS sau ối vỡ 18 giờ (n = 453)
Dùng KS (n = 151)
- dùng KS sau ối vỡ 6 giờ (n = 1)
- dùng KS do NKO (n = 2)
Không dùng KS (n = 302)
- sanh trước khi ối vỡ 18 giờ (n = 300)
- lỗi thực hiện (n = 2)
Phân tích (n = 452)
Loại bỏ khỏi phân tích (n = 0)
Phân tích (n = 453)
Loại bỏ khỏi phân tích (n = 0)
Loại bỏ (n = 953)
Không thỏa tiêu chuẩn (n = 826)
Từ chối tham gia (n = 95)
Lý do khác (n = 32)
KS sau 6 giờ tốt hơn KS sau 18 giờ tốt hơn
0 -2 -1 0 +1 +2
Hiệu số nguy cơ của nhiễm khuẩn ối
(KS sau 6 giờ - KS sau 18 giờ)
hiệu số nguy cơ của nhiễm khuẩn ối
(Ks sau 6 giờ - Ks sau 18 giờ)
K sau 6 i tốt hơn Ks s 18 giờ tốt hơn
Kết cục
Ks sau 6 g
(n= 452)
Ks sau 18 g
(n= 453)
hiệu số nguy cơ
(KTC 95%)
Nhiễm khuẩn ối
sốt hậu sản
Viêm nội mạc TC
Nhiễm khuẩn sơ sinh
Nhập khoa sơ sinh
4 (0,9)
5 (1,1)
1 (0,2)
5 (1,1)
1 (0,2)
3 (0,7)
2 (0,5)
0 (0,0)
9 (2,0)
4 (0,9)
0,2 (-0,9; 1,4)
0,6 (-0,4; 1,8)
0,2 (-0,2; 0,7)
-0,9 (-2,5; 0,7)
-0,7 (-1,6; 0,3)
số liệu là số ca (tỉ lệ %); Nhiễm khuẩn sơ sinh gồm xác định/ nghi ngờ
Bảng 2. Các kết cục liên quan đến nhiễm khuẩn
-2 -1 0 +1 +2
SẢn KHOa VÀ SƠ SInH
Tập 11, số 03
Tháng 7-2013
Tạp chí Phụ Sản
33
TạP Chí Phụ sảN - 11(3), 28-34, 2013
Đặc điểm
Ks sau 6 g
(n= 452)
Ks sau 18 g
(n= 453)
Trước sanh*
Không sử dụng
01 liều
02 liều
sau sanh
Không sử dụng
Kháng sinh sau mổ sanh
Cắt may TsM
Điều trị nhiễm khuẩn mẹ
Khác
Trẻ sơ sinh
KsDP đường uống
KsDP đường chích
Điều trị NKss nghi ngờ
Không sử dụng
12 (2,7)
268 (59,3)
169 (37,4)
48 (10,6)
37 (8,2)
356 (78,8)
4 (0,9)
7 (1,6)
57 (12,6)
60 (13,3)
16 (3,5)
319 (70,6)
300 (66,2)
101 (22,3)
50 (11,0)
38 (8,4)
44 (9,7)
365 (80,6)
3 (0,7)
3 (0,7)
68 (15,0)
64 (14,1)
17 (3,8)
304 (67,1)
ghi chú: số liệu là số ca (tỉ lệ %); * có 3 ca trong nhóm Ks sau 6 g và 2 ca trong nhóm
Ks sau 18 g không dùng kháng sinh trước sanh do lỗi thực hiện
Bảng 3. Các hình thái sử dụng kháng sinh
khoảng 66% sản phụ (Hình 2).
Vào năm 2002, Flenady thực hiện một tổng
quan về dùng KSDP trong các trường hợp OVN ở
thai trưởng thành (10). So với nhóm chứng không
dùng kháng sinh, nhóm dùng KSDP có tỉ lệ nhiễm
khuẩn ối thấp hơn 2%. Do đó, nếu có một phác đồ
KSDP nào khác, thì hiệu quả phòng ngừa nhiễm
khuẩn ối của phác đồ này phải tốt hơn so với nhóm
chứng. Dựa vào căn cứ này, giới hạn để kết luận
tương đương được chọn trước là 2% xét trên tiêu
chí nhiễm khuẩn ối.
Nghiên cứu của Cararach (8) năm 1998 có tỉ
lệ nhiễm khuẩn ối là 3,2% (12/371) trong nhóm
dùng KSDP và 4,7% (17/362) trong nhóm chứng,
và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Thử nghiệm của Ovalle công bố vào cùng năm
(9) có tỉ lệ nhiễm khuẩn ối trong nhóm KSDP và
nhóm chứng lần lượt là 1,8% (1/55) và 8,0% (4/50),
và tương tự, khác biệt này cũng không có ý nghĩa
thống kê. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhiễm
khuẩn ối trong nhóm dùng KSDP sau ối vỡ 6 giờ
chỉ có 0,9%. Tỉ lệ này thấp hơn có thể do chúng tôi
áp dụng chính sách được khuyến cáo là KPCD sớm
tất cả các trường hợp OVN ở thai trưởng thành
ngay sau nhập viện để rút ngắn chuyển dạ (3).
Cụ thể, trong các thử nghiệm của Cararach (8) và
Ovalle (9) tỉ lệ KPCD lần lượt là 37,2% và 47,3%;
thời khoảng từ lúc ối vỡ đến lúc sanh lần lượt là
15,4 giờ và 28,1 giờ so với 14,3 giờ của nghiên cứu
này. Trong thử nghiệm TermPROM (2), nhóm OVN
được KPCD sớm bằng oxytocin, tương tự như phác
đồ của nghiên cứu của chúng tôi, có tỉ lệ nhiễm
khuẩn ối 4,0%. Tỉ lệ này cao hơn có thể do chẩn
đoán nhiễm khuẩn ối rộng rãi hơn, chỉ cần 1 dấu
hiệu lâm sàng hoặc cận lâm sàng. Chúng tôi chẩn
đoán nhiễm khuẩn ối với ít nhất 2 dấu hiệu lâm
sàng hoặc cận lâm sàng tương tự như của Cararach
(8) và Ovalle (9).
Một yếu tố khác có thể góp phần tạo nên sự
khác biệt về tỉ lệ nhiễm khuẩn ối so với các nghiên
cứu khác là phác đồ kháng sinh. Cararach dùng
ampicillin phối hợp gentamicin (8), trong khi
Ovalle chọn cefuroxime phối hợp clindamycin (9).
Trong nghiên cứu này, Augmentin được sử dụng
làm KSDP. Trong một thử nghiệm lâm sàng lớn
về sử dụng kháng sinh cho OVN ở thai non tháng
(14), Augmentin sử dụng trong 10 ngày hoặc đến
lúc sanh, làm tăng nguy cơ bị viêm ruột hoại tử
ở trẻ sơ sinh non tháng. Tuy nhiên, trong nghiên
cứu này, Augmentin chỉ sử dụng dự phòng trong
chuyển dạ ở thai kỳ trưởng thành, với chỉ 1 hoặc
2 liều. Do đó mức độ an toàn cho thai nhi là chấp
nhận được. Thực tế, không ghi nhận trường hợp
nào bị viêm ruột hoại tử trong nghiên cứu.
Tỉ lệ mổ sanh trong mỗi nhóm khoảng 17%. Tất
cả các ca mổ sanh đều được chích KSDP ngay sau
kẹp rốn, và theo thực hành tại bệnh viện, kháng
sinh được lặp lại liều sau 6 giờ để phòng ngừa
nhiễm khuẩn niệu do ống thông tiểu. Khoảng 50%
số ca mổ sanh này được phẫu thuật viên quyết
định dùng tiếp kháng sinh chích trong 3-4 ngày.
Yếu tố này có thể góp phần tạo nên sai lệch khi so
sánh hiệu quả của hai phác đồ KSDP. Sự khác biệt,
nếu có, giữa hai phác đồ có thể phần nào bị ước
lượng non.
Một hạn chế khác là thử nghiệm lâm sàng này
không làm mù do không khả thi về mặt kỹ thuật.
Chúng tôi cố gắng giảm tối đa sai lệch đánh giá
bằng cách định nghĩa rõ ràng nhiễm khuẩn ối và
các kết cục phụ. Bác sĩ Khoa sơ sinh đưa ra quyết
định chẩn đoán và điều trị hoàn toàn độc lập với
quá trình phân ngẫu nhiên đối tượng nghiên cứu.
Viêm nội mạc tử cung trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có một ca (0,2%) trong nhóm KSDP
sau ối vỡ 6 giờ. Cararach (8) và Ovalle (9) cũng
không quan sát thấy viêm nội mạc tử cung trong
nhóm dùng KSDP. Bên cạnh việc sử dụng kháng
NguyễN VăN TRươNg, Đỗ VăN DũNg
Tập 11, số 03
Tháng 7-2013
Tạp chí Phụ Sản
34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gunn GC, Mishell DR, Jr., Morton DG. Premature
rupture of the fetal membranes. A review. Am J Obstet
Gynecol. 1970 Feb 1;106(3):469-83.
2. Hannah ME, Ohlsson A, Farine D, Hewson SA,
Hodnett ED, Myhr TL, et al. Induction of labor compared
with expectant management for prelabor rupture of the
membranes at term. TERMPROM Study Group. N Engl J
Med. 1996 Apr 18;334(16):1005-10.
3. American College of Obstetricians and
Gynecologists. ACOG Practice Bulletin No. 80: premature
rupture of membranes. Clinical management guidelines
for obstetrician-gynecologists. Obstet Gynecol. 2007
Apr;109(4):1007-19.
4. Gilstrap LC, 3rd, Cunningham FG. The bacterial
pathogenesis of infection following cesarean section.
Obstet Gynecol. 1979 May;53(5):545-9.
5. Schrag SJ, Zywicki S, Farley MM, Reingold AL,
Harrison LH, Lefkowitz LB, et al. Group B streptococcal
disease in the era of intrapartum antibiotic prophylaxis. N
Engl J Med. 2000 Jan 6;342(1):15-20.
6. Schrag S, Gorwitz R, Fultz-Butts K, Schuchat A.
Prevention of perinatal group B streptococcal disease.
Revised guidelines from CDC. MMWR Recomm Rep. 2002
Aug 16;51(RR-11):1-22.
7. Seaward PG, Hannah ME, Myhr TL, Farine D, Ohlsson
A, Wang EE, et al. International multicenter term PROM
study: evaluation of predictors of neonatal infection
in infants born to patients with premature rupture of
membranes at term. Premature Rupture of the Membranes.
Am J Obstet Gynecol. 1998 Sep;179(3 Pt 1):635-9.
8. Cararach V, Botet F, Sentis J, Almirall R, Perez-
Picanol E. Administration of antibiotics to patients with
rupture of membranes at term: a prospective, randomized,
multicentric study. Collaborative Group on PROM. Acta
Obstet Gynecol Scand. 1998 Mar;77(3):298-302.
9. Ovalle A, Gomez R, Martinez M, Giglio M, Bianchi R,
Diaz L, et al. Antibiotic treatment of patients with term
premature rupture of membranes: a randomized clinical
trial. Prenatal and Neonatal Medicine. 1998;3:599-606.
10. Flenady V, King J. Antibiotics for prelabour rupture of
membranes at or near term. Cochrane Database Syst Rev.
2002(3):CD001807.
11. American College of Obstetricians and
Gynecologists. ACOG practice bulletin number 47, October
2003: Prophylactic Antibiotics in Labor and Delivery.
Obstet Gynecol. 2003 Oct;102(4):875-82.
12. Thành NTV. Tỉ lệ nhiễm Liên cầu khuẩn nhóm B từ
mẹ sang con ở thai phụ 35-37 tuần và các yếu tố liên quan
[Luận văn chuyên khoa II]. Tp Hồ Chí Minh: Trường Đại học
Y dược Tp.HCM; 2007.
13. Piaggio G, Pinol AP. Use of the equivalence approach
in reproductive health clinical trials. Stat Med. 2001 Dec
15;20(23):3571-7.
14. Kenyon S, Boulvain M, Neilson JP. Antibiotics for
preterm rupture of membranes. Cochrane Database Syst
Rev. 2010(8):CD001058.
sinh sau mổ sanh đã nêu trên, hơn 95% các ca
sanh ngã âm đạo có uống thêm kháng sinh 3-4
ngày, có thể đã làm hạn chế viêm nội mạc tử cung.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có gần 4% trẻ
sơ sinh được điều trị kháng sinh ngay sau sanh vì
nghi ngờ NKSS. Tuy nhiên, sau khi có đầy đủ khảo
sát cận lâm sàng, chỉ có duy nhất một ca (0,2%)
chẩn đoán NKSS xác định. Cararach (8) và Ovalle
(9) cũng quan sát thấy tỉ lệ NKSS rất thấp trong
nhóm dùng KSDP. Theo thực hành hiện nay tại
bệnh viện Hùng Vương, có từ 25%-30% trẻ sơ sinh
của nghiên cứu này được dùng KSDP do có yếu tố
nguy cơ bị NKSS. Điều này góp phần làm giảm tối
đa số ca NKSS trong các trường hợp OVN.
Kết luận
Khi đã chọn cách xử trí KPCD sớm sau nhập
viện các trường hợp OVN ở thai trưởng thành, kết
quả nghiên cứu này cho thấy dùng KSDP sau ối
vỡ 18 giờ có hiệu quả phòng ngừa nhiễm khuẩn
ối tương đương với KSDP sau ối vỡ 6 giờ, nhưng
tránh không cần dùng KSDP ở khoảng 66% sản
phụ. Việc sử dụng KSDP sau ối vỡ 6 giờ là không
cần thiết. Tuy nhiên, sử dụng KSDP sau ối vỡ 18
giờ vẫn được khuyến cáo để phòng ngừa NKSS
sớm do GBS (6).
SẢn KHOa VÀ SƠ SInH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khang_sinh_du_phong_trong_thai_truong_thanh_oi_vo_non_thu_ng.pdf