Hàm lượng nitrate trong mẫu năn bộp
Theo quy định chung của thế giới, để được gọi là rau sạch, rau tươi phải có lượng
nitrate (NO3-) thấp vừa phải theo quy định. Nitrate khi vào cơ thể ở mức bình thường
không gây hại cho cơ thể, nhưng trong hệ tiêu hóa nitrate được khử thành nitrite (NO2)
là chất chuyển oxyhaemoglobin (chất vận chuyển oxygen trong máu) thành chất không
hoạt động được là methaemoglobin. Nếu lượng nitrate vượt quá mức cho phép, lượng
nitrite sẽ nhiều lên và làm giảm hô hấp của tế bào, ảnh hưởng đến hoạt động của tuyến
giáp, gây đột biến và phát triển khối u dẫn đến bệnh ung thư.
Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng nitrate không có xuất hiện trong mẫu năn
bộp (0 mg/kg), được trình bày trong Bảng 5. Như vậy, việc bón phân urea cho năn bộp
đã không để lại dư lượng đạm nitrate trong cây năn do đó đảm bảo an toàn cho người
sử dụng. Tuy nhiên, trong quá trình bón phân phải chú ý đảm bảo thời gian cách ly 12
ngày từ lúc bón cho đến lúc thu hoạch bằng cách bón luân phiên giữa các ruộng năn.
Bảng 5. Kết quả phân tích chỉ tiêu Nitrate trong mẫu năn bộp
Việc tôn trọng quy định hàm lượng nitrate có trong rau sạch là rất quan trọng và
cần thiết. Nếu không kiểm soát được hàm lượng nitrate trong rau sẽ gây hại đến sức
khỏe của người tiêu dùng và của cả cộng đồng nói chung. Trong hoạt động thương
mại quốc tế, các nước nhập khẩu rau tươi đều phải kiểm tra lượng nitrate trước khi
cho nhập. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và cộng đồng kinh tế châu Âu (EC) giới hạn
hàm lượng nitrate trong nước uống là 50 mg/l, hàm lượng rau không quá 300 mg/kg
rau tươi [1].
Theo Zhang [10], hàm lượng nitrate và nitrite trong lá rau và trong đất sẽ giảm
khi kết hợp bón phân hữu cơ và phân vô cơ. Tỷ lệ phân hữu cơ và phân vô cơ là 1 : 1
cho năng suất cao hơn và hàm lượng nitrate trong lá và trong đất thấp hơn. Các chủng
loại rau khác nhau, giống cây khác nhau thì lượng nitrate tích tụ trong cây cũng khác
nhau. Sự tích tụ nitrate trong các giống rau không đồng đều đó là do tốc độ hấp thụ
nitrate và sử dụng nó trong quá trình trao đổi chất có sự khác biệt. Độ ẩm thừa hoặc
thiếu đều ảnh hưởng không tốt đến quá trình trao đổi chất làm cho nitrate trong cây
tăng lên. Nhiệt độ đất dao động quá lớn cũng gây trở ngại cho quá trình khử nitrate
tại hệ rễ dẫn đến hàm lượng nitrate trong cây tăng lên. Nếu thời gian chiếu sáng trong
ngày dài thì dư lượng nitrate trong cây sẽ giảm. Ngược lại, thiếu ánh sáng và thời gian
chiếu sáng ngắn thì dư lượng nitrate trong cây rau sẽ tăng lên [2].
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát ảnh hưởng của vi sinh vật, hàm lượng kim loại nặng và nitrate lên chất lượng rau năn bộp an toàn tại xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54
KHẢO SÁT ẢNH HƯỞNG CỦA VI SINH VẬT,
HÀM LƯỢNG KIM LOẠI NẶNG VÀ NITRATE
LÊN CHẤT LƯỢNG RAU NĂN BỘP AN TOÀN TẠI
XÃ VĨNH HƯNG A, HUYỆN VĨNH LỢI, TỈNH BẠC LIÊU
Mai Thị Ngọc Hương1
Tóm tắt: Đề tài được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2016 tại ấp Mỹ Phú
Đông, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu; thí nghiệm bố trí diện rộng
nhằm mục tiêu xác định mật số vi sinh vật, hàm lượng kim loại nặng và nitrate trong
rau năn bộp an toàn. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng một số kim loại nặng
(As, Cd, Pb, Hg, Sn, Cu, Zn) trong mẫu đất, mẫu nước và mẫu năn bộp, mật số vi sinh
vật và hàm lượng nitrate đạt mức giới hạn tối đa cho phép theo quy định về tiêu chuẩn
sản xuất rau an toàn. Nên bón bổ sung phân hữu cơ cho ruộng năn bộp giúp cải thiện
cấu trúc đất và cung cấp một số vi lượng. Cần có sự quy hoạch cụ thể vùng sản xuất
và định hướng tìm đầu ra cho sản phẩm để bán có giá cao, ổn định giúp tăng thêm lợi
nhuận cho người dân.
Từ khóa: “Cây năn bộp”, “rau năn bộp an toàn”, “trồng năn bộp”, “vi sinh vật
trong năn bộp”, “kim loại nặng trong năn bộp”.
1. Mở đầu
Cây cỏ Năn hay còn gọi là cây Năn Ngọt (Năn bộp) có tên khoa học là Eleocharis
dulcis (Burm.f.) Trinius ex Henschel thuộc chi Cỏ năn Eleocharis, họ Cói Cyperaceae,
mọc hoang trên những cánh đồng phèn mặn ngập nước vùng Hậu Giang, Sóc Trăng,
Bạc Liêu và Cà Mau. Năn bộp được thu hái và sử dụng như một loại rau ăn sống hoặc
chế biến thành nhiều món ăn ngon khác. Bộ phận được sử dụng làm thức ăn là phần
non sát gốc khi tách ra có màu trắng ngà, giòn và có vị ngọt. Có thể xem năn bộp là một
loại rau sạch vì mọc hoang tự nhiên từ hạt hoặc củ khi mùa mưa đến. Chúng thường
mọc lúc bắt đầu mùa mưa và khi những cơn mưa cuối cùng trong năm kết thúc cũng
là lúc mùa năn chấm dứt.
Vùng năn bộp mọc tự nhiên thường được người dân chăn thả trâu hoặc thủy cầm
nên nguồn nước bị ô nhiễm dẫn đến sản phẩm năn không đảm bảo an toàn thực phẩm,
năng suất thấp, chất lượng kém và không hấp dẫn người mua. Năn trồng được đầu tư
và chăm sóc tốt, sử dụng phân bón hợp lý và phun thuốc bảo vệ thực vật khi cần thiết,
đảm bảo thời gian cách ly, an toàn cho người sử dụng.
1. ThS, Khoa Nông Nghiệp, Trường Đại học Bạc Liêu
55
MAI THỊ NGỌC HƯƠNG
Hiện nay, diện tích năn bộp mọc tự nhiên đã giảm dần do người dân cải tạo đất
để trồng lúa. Một vài nơi người dân đã trồng cỏ năn trên nền đất sản xuất lúa kém
hiệu quả, năn trồng chăm sóc tốt giúp tăng sản lượng và chất lượng cung ứng cho thị
trường. Ngoài ra, năn cũng được trồng ở vùng nuôi tôm quảng canh để tạo môi trường
thuận lợi cho tôm phát triển. Người nuôi tôm vừa nhổ năn bán giúp tăng thêm thu nhập
vừa thu được tôm đạt năng suất cao. Cây năn được trồng và chăm sóc hợp lý có thể
cho thu hoạch quanh năm. Lợi nhuận thu được từ cây năn (năn bộp trồng) là khá cao
khoảng trên 100 triệu đồng/ha/năm nên thời gian gần đây người dân đang từng bước
đầu tư trồng năn để kinh doanh.
Để giá trị cây năn ngày càng được nâng cao cần phải có kỹ thuật trồng, chăm sóc
đạt tiêu chuẩn rau an toàn cũng như cách bảo quản phù hợp để có thể vận chuyển đi
xa, cung cấp vào hệ thống các nhà hàng, siêu thị ở các tỉnh và các thành phố lớn, đề tài
“Khảo sát ảnh hưởng của vi sinh vật, hàm lượng kim loại nặng và nitrate lên chất lượng
rau năn bộp an toàn tại xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu” là cần thiết.
2. Nội dung
2.1. Thời gian và địa điểm
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2017. Năn bộp được
trồng vào tháng 05 năm 2017. Ruộng năn bộp cấy thí nghiệm tại hộ ông Võ Việt Lâm,
tại ấp Mỹ Phú Đông - xã Vĩnh Hưng A - huyện Vĩnh Lợi.
2.2. Phương tiện
- Ruộng năn bộp, giống năn bộp.
- Phân bón: Phân urea, phân DAP, phân lân, phân KCl và vôi đá.
- Chai nhựa chứa mẫu nước, thùng mốp chứa mẫu năn bộp, dụng cụ chứa mẫu
đất.
- Thiết bị phân tích mẫu của Trung tâm dịch vụ Phân tích thí nghiệm TP.HCM,
chi nhánh Cần Thơ.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Trồng năn bộp làm điểm trình diễn
Chọn ruộng triển khai thí nghiệm diện rộng có diện tích 0,5 ha, trồng năn theo
hàng, khoảng cách 40 cm x 50 cm và có lối đi là 40 cm giữa các luống năn. Năn giống
sau khi nhổ phải trồng ngay, thời gian trữ năn giống tối đa 1 ngày. Thường xuyên giữ
mực nước trong ruộng từ 30 - 35 cm. Lượng phân bón sử dụng cho 1 ha năn bộp như
sau: 108N - 67P
2
O
5
- 18K
2
O.
Năn bộp được trồng tháng 05 năm 2017, bắt đầu thu hoạch sau khi trồng 25 - 30
ngày, thời gian thu hoạch kéo dài 7 - 10 tháng.
2.3.2. Phân tích các chỉ tiêu theo quy định rau an toàn
56
LƯỢNG RAU NĂN BỘP AN TOÀN TẠI XÃ VĨNH HƯNG A...
Phân tích các chỉ tiêu về mật số vi sinh vật, hàm lượng kim loại nặng (trong mẫu
đất, mẫu nước và mẫu năn bộp) theo các quy chuẩn (QCVN 03:2008/BTNMT, QCVN
39:2011/BTNMT, QCVN 8-2:2011/BYT, QCVN 8-3:2012/BYT) và dư lượng nitrate
trong mẫu năn bộp để xây dựng mô hình sản xuất năn bộp đạt tiêu chuẩn rau an toàn.
2.3.3. Cách lấy mẫu phân tích
Các mẫu phân tích được lấy ngẫu nhiên sau đó trộn chung thành 1 mẫu. Phương
pháp lấy mẫu đất theo TCVN 5297 - 1995, phương pháp lấy mẫu nước theo TCVN
5994 - 1995, phương pháp lấy mẫu năn bộp tươi theo TCVN 9016:2011. Trọng lượng
mẫu cho mỗi lần lấy mẫu bao gồm: 2 kg đất, 2 lít nước, 2 kg năn bộp đã tách vỏ. Số
lượng mẫu được thu thập: phân tích hàm lượng kim loại nặng trong đất - 4 mẫu, kim
loại nặng trong nước - 3 mẫu, kim loại nặng trong năn bộp -3 mẫu, phân tích vi sinh
vật trong năn bộp -3 mẫu và hàm lượng nitrate trong năn bộp - 2 mẫu.
* Cách lấy mẫu đất
Các mẫu đất phân tích được lấy ngẫu nhiên ở 5 điểm theo 2 đường chéo gốc tại
các ruộng trồng năn sau đó trộn chung thành 1 mẫu. Mẫu được lấy với độ sâu từ 0 - 30
cm, diện tích từ 0,5 - 1 ha lấy 1 mẫu.
* Cách lấy mẫu nước
Các mẫu nước phân tích được lấy ngẫu nhiên ở 5 điểm theo 2 đường chéo gốc,
mẫu nước tại mỗi điểm được lấy ở tầng mặt, tầng giữa và tầng đáy sau đó trộn chung
thành 1 mẫu.
Hình 1. Các bước trong khâu trồng năn
bộp: Chuẩn bị đất (A), cấy năn giống
(B) và bón phân cho ruộng năn bộp (C)
(A)
(C)
(B)
57
MAI THỊ NGỌC HƯƠNG
* Cách lấy mẫu năn bộp
Các mẫu năn bộp được lấy ngẫu nhiên theo từng tầng riêng biệt (tầng trên, tầng
giữa và tầng đáy) sau đó trộn chung thành 1 mẫu.
2.3.4 Xử lý số liệu
Sử dụng chương trình Excell để xử lý và phân tích số liệu thí nghiệm.
2.4. Kết luận và thảo luận
2.4.1. Đánh giá chung điểm trình diễn ruộng năn bộp
Trung bình nhiệt độ giữa các tháng cao nhất 33,30C, trung bình 27,50C, thấp nhất
22,70C, ẩm độ 85,3%; trung bình tổng bốc hơi 103,6 mm, trung bình tổng giờ nắng
194,4 giờ và trung bình tổng lượng mưa 256,3 mm. Điều kiện thời tiết khá thuận lợi
cho cây năn bộp sinh trưởng và phát triển.
Những tháng có lượng mưa ít phải bơm nước vào ruộng năn, tháng nào lượng
mưa nhiều làm cho năn bị ngập sâu thì bơm nước ra. Trong quá trình sinh trưởng và
phát triển, trên cây năn bộp chỉ xuất hiện sâu đục gốc và bệnh khô đọt nhưng ở mức độ
nhẹ chưa ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cây năn.
2.4.2. Kết quả phân tích các chỉ tiêu trong rau năn bộp an toàn
* Hàm lượng các kim loại nặng trong mẫu đất
Kim loại nặng hiện diện trong tự nhiên đều có trong đất và nước, hàm lượng của
chúng thường tăng cao do tác động của con người. Các kim loại nặng do tác động của
con người là nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng chủ yếu khi chúng đi vào môi trường
đất và nước. Các kim loại do hoạt động của con người như: As, Cd, Cu, Ni và Zn thải
ra ước tính là nhiều hơn so với nguồn kim loại có trong tự nhiên, đặc biệt đối với chì
là 17 lần [3]. Nguồn kim loại nặng đi vào đất và nước do tác động của con người bằng
các con đường chủ yếu như: bón phân, bã bùn cống và thuốc bảo vệ thực vật.
Từ kết quả Bảng 1 cho thấy chỉ tiêu kim loại nặng trong mẫu đất của 4 mẫu được
thu thập, phân tích đều ở mức giới hạn tối đa cho phép. Hàm lượng các kim loại nặng
trong mẫu đất dao động từ 1,36 đến 37,3 mg/kg. Trong đó, Zn có hàm lượng cao nhất
(27,4 đến 37,3 mg/kg), Cd có hàm lượng thấp nhất (1,36 đến 1,70 mg/kg). Như vậy,
khu vực đất nơi đây đủ điều kiện về tiêu chuẩn kim loại nặng trong sản xuất rau an
toàn đối với cây năn bộp.
Bảng 1. Kết quả phân tích một số kim loại nặng trong mẫu đất
Số
TT
Chỉ tiêu
phân tích
Mẫu 1
(mg/kg)
Mẫu 2
(mg/kg)
Mẫu 3
(mg/kg)
Mẫu 4
(mg/kg)
Mức giới
hạn tối đa
cho phép
(mg/kg)
Kết quả
1 Asen (As) 11,0 6,60 3,47 4,62 12,0 Đạt
58
LƯỢNG RAU NĂN BỘP AN TOÀN TẠI XÃ VĨNH HƯNG A...
2 Cadimi (Cd) 1,70 1,70 1,36 1,48 2,0 Đạt
3 Chì (Pb) 20,7 15,6 14,8 15,2 70,0 Đạt
4 Đồng (Cu) 17,5 15,4 11,4 12,6 50,0 Đạt
5 Kẽm (Zn) 33,3 37,3 27,4 31,5 200 Đạt
Sự nhiễm độc Hg chủ yếu ở trong nước nông nghiệp và trong đất, rau trồng ít có
trường hợp ô nhiễm nguyên tố này. Nhiều mẫu đất, nước bị ô nhiễm nguyên tố Pb và có
sự liên quan tương đối chặt chẽ giữa sự ô nhiễm Pb trong đất, nước với rau trồng [8].
* Hàm lượng các kim loại nặng trong mẫu nước
Chất lượng nước có liên quan trực tiếp đến chất lượng đất và đặc biệt là chất
lượng sản phẩm rau. Do vậy, nguồn nước tưới không đạt tiêu chuẩn là cảnh báo xấu về
chất lượng môi trường đất và chất lượng rau xanh.
Bảng 2. Kết quả phân tích các kim loại nặng trong mẫu nước
Số
TT
Chỉ tiêu phân
tích
Mẫu 1
(mg/lít)
Mẫu 2
(mg/lít)
Mẫu 3
(mg/lít)
Mức giới hạn
tối đa cho
phép (mg/lít)
Kết quả
1 Thủy Ngân (Hg) 0,000 0,000 0,000 0,001 Đạt
2 Cadimi (Cd) 0,000 0,003 0,000 0,01 Đạt
3 Asen (As) 0,025 0,010 0,006 0,10 Đạt
4 Chì (Pb) 0,000 0,000 0,000 0,10 Đạt
Kết quả Bảng 2 cho thấy chỉ tiêu kim loại nặng trong mẫu nước của 3 mẫu được
phân tích đều đạt mức giới hạn tối đa cho phép do hàm lượng của chúng dao động từ
0,0 đến 0,025 mg/lít. Như vậy, điều kiện nước tại điểm thí nghiệm có hàm lượng kim
loại nặng đáp ứng được với quy định về tiêu chuẩn sản xuất rau an toàn đối với cây
năn bộp.
Hàm lượng kim loại nặng ở dạng hòa tan trong nước nhỏ hơn rất nhiều so với
lượng tổng số xác định được trong cặn lơ lửng [2]. Hàm lượng kim loại nặng trong
nước tưới cao thì cây rau hấp thu nhiều và ngược lại do đó nước tưới phải đảm bảo thì
mới sản xuất được rau an toàn.
* Hàm lượng các kim loại nặng trong mẫu năn bộp
Mức độ tích lũy kim loại nặng trong rau rất khác nhau phụ thuộc vào các loại đất
canh tác, các nguồn nước tưới và các loại rau khác nhau.
Qua kết quả phân tích ở Bảng 3, cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong mẫu
năn bộp dao động từ 0,0 đến 1,08 mg/kg trong mẫu 1, từ 0,0 đến 1,14 mg/kg trong mẫu
2 và từ 0,0 đến 1,42 mg/kg. Trong đó, Zn có hàm lượng cao nhất từ 1,08 đến 1,42 mg/
59
MAI THỊ NGỌC HƯƠNG
kg nhưng vẫn đạt mức giới hạn tối đa cho phép về tiêu chuẩn sản xuất rau an toàn theo
QCVN 8-2:2011/BYT.
Bảng 3. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong mẫu năn bộp
Số
TT Chỉ tiêu phân tích
Mẫu 1
(mg/kg)
Mẫu 2
(mg/kg)
Mẫu 3
(mg/kg)
Mức giới hạn
tối đa cho phép
(mg/kg)
Kết quả
1 Asen (As) 0,02 0,02 0,02 1,00 Đạt
2 Cadimi (Cd) 0,00 0,00 0,00 0,05 Đạt
3 Chì (Pb) 0,00 0,00 0,00 0,10 Đạt
4 Thủy Ngân (Hg) 0,00 0,00 0,00 0,05 Đạt
5 Thiếc (Sn) 0,00 0,00 0,00 200 Đạt
6 Đồng (Cu) 0,11 0,14 0,27 30,0 Đạt
7 Kẽm (Zn) 1,08 1,14 1,42 40,0 Đạt
Mức độ tích lũy kim loại nặng trong rau rất khác nhau ở các loại rau trồng. Ở rau
trồng trong nước, xu hướng tích lũy kim loại nặng trong rễ nhiều hơn trong thân và lá.
Đối với rau trồng trên cạn thì có xu hướng ngược lại, hàm lượng kim loại nặng trong
rễ lại thấp hơn trong lá và thân cây [2].
2.4.3. Kết quả phân tích mật số vi sinh vật trong mẫu năn bộp
Vi sinh vật hiện diện trên rau với mật số vượt mức giới hạn tới đa cho phép
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng do gây ra một số bệnh nguy hiểm như:
thương hàn, tiêu chảy, Qua kết quả phân tích từ Bảng 4 cho thấy vi sinh vật trên mẫu
năn bộp thí nghiệm với mật số dao động từ 0,0 đến 10 x 101 CFU/g, trong đó Coliform
có mật số cao và dao động từ < 10 đến 5,0 x 101 CFU/g (VK/25 g) nhưng vẫn đạt mức
giới hạn tối đa cho phép trong sản xuất rau an toàn. Cây năn sinh trưởng và phát triển
trong môi trường nước nên rất thuận lợi cho vi khuẩn phát triển, nhất là vi khuẩn có
hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Do đó, phải thay đổi nước trong ruộng năn khi môi
trường nước bị nhiễm bẩn. Nên bón vôi từ 150 - 200 kg/ha nhằm hạn chế mật số vi
sinh vật ngay đầu vụ. Sau đó, có thể bón bổ sung 1 - 2 lần trong suốt vụ năn. Bón vôi
làm gia tăng pH của nước ruộng tạo nên môi trường không thích hợp cho vi sinh vật
phát triển.
Bảng 4. Kết quả phân tích chỉ tiêu các vi sinh vật trong mẫu năn bộp
Số
TT
Chỉ tiêu
phân tích
Đơn vị Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3
Mức giới
hạn tối đa
cho phép
Kết quả
1 Coliform CFU/g < 101 3,0 x 101 5,0 x 101 200 Đạt
2 E. coli CFU/g 1,0 x 101 < 10 < 10 100 Đạt
60
LƯỢNG RAU NĂN BỘP AN TOÀN TẠI XÃ VĨNH HƯNG A...
3 Salmonella VK/25g 0,0 0,0 0,0 0,0 Đạt
Sự có mặt của các vi khuẩn trong rau hay nước là tín hiệu cho thấy thực phẩm có
thể bị phơi nhiễm khuẩn. Nhưng phơi nhiễm khuẩn không có nghĩa là nguyên nhân gây
bệnh tả, bởi vì độ phơi nhiễm phải cao mới có khả năng gây bệnh. Tuy nhiên, sự có mặt
của các vi khuẩn trong thực phẩm đặt ra vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, và theo đó
người dân cần hiểu biết thêm về khả năng nguy hại của vi khuẩn để có biện pháp phòng
ngừa chúng. Cần nhấn mạnh rằng vi khuẩn là những sinh vật và vì thế chúng đã, đang
và sẽ tồn tại trong môi trường sống và “song hành” cùng chúng ta. Một số vi khuẩn có
ảnh hưởng tốt, nhưng cũng một số vi khuẩn có ảnh hưởng xấu và mầm mống gây bệnh.
Vấn đề không phải là khử trừ tất cả vi khuẩn từ môi trường (vì điều này hoàn toàn phi
thực tế), mà tìm cách giảm thiểu nguy cơ bị nhiễm thấp nhất và sống chung hòa bình
với vi khuẩn (Coliform, E. coli, Salmonella,) [9]. Điều này cho thấy để đảm bảo
sản phẩm rau không bị nhiễm khuẩn chúng ta phải tưới rau trong giai đoạn sinh trưởng
cũng như rửa rau lúc sơ chế bằng nước sạch.
2.4.4. Hàm lượng nitrate trong mẫu năn bộp
Theo quy định chung của thế giới, để được gọi là rau sạch, rau tươi phải có lượng
nitrate (NO
3
-) thấp vừa phải theo quy định. Nitrate khi vào cơ thể ở mức bình thường
không gây hại cho cơ thể, nhưng trong hệ tiêu hóa nitrate được khử thành nitrite (NO
2
)
là chất chuyển oxyhaemoglobin (chất vận chuyển oxygen trong máu) thành chất không
hoạt động được là methaemoglobin. Nếu lượng nitrate vượt quá mức cho phép, lượng
nitrite sẽ nhiều lên và làm giảm hô hấp của tế bào, ảnh hưởng đến hoạt động của tuyến
giáp, gây đột biến và phát triển khối u dẫn đến bệnh ung thư.
Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng nitrate không có xuất hiện trong mẫu năn
bộp (0 mg/kg), được trình bày trong Bảng 5. Như vậy, việc bón phân urea cho năn bộp
đã không để lại dư lượng đạm nitrate trong cây năn do đó đảm bảo an toàn cho người
sử dụng. Tuy nhiên, trong quá trình bón phân phải chú ý đảm bảo thời gian cách ly 12
ngày từ lúc bón cho đến lúc thu hoạch bằng cách bón luân phiên giữa các ruộng năn.
Bảng 5. Kết quả phân tích chỉ tiêu Nitrate trong mẫu năn bộp
Số
TT Chỉ tiêu phân tích Mẫu 1 (mg/kg) Mẫu 2 (mg/kg) Kết quả
1 Nitrate (NO
3
-) 0,0 0,0 Đạt
Việc tôn trọng quy định hàm lượng nitrate có trong rau sạch là rất quan trọng và
cần thiết. Nếu không kiểm soát được hàm lượng nitrate trong rau sẽ gây hại đến sức
khỏe của người tiêu dùng và của cả cộng đồng nói chung. Trong hoạt động thương
mại quốc tế, các nước nhập khẩu rau tươi đều phải kiểm tra lượng nitrate trước khi
cho nhập. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và cộng đồng kinh tế châu Âu (EC) giới hạn
hàm lượng nitrate trong nước uống là 50 mg/l, hàm lượng rau không quá 300 mg/kg
61
MAI THỊ NGỌC HƯƠNG
rau tươi [1].
Theo Zhang [10], hàm lượng nitrate và nitrite trong lá rau và trong đất sẽ giảm
khi kết hợp bón phân hữu cơ và phân vô cơ. Tỷ lệ phân hữu cơ và phân vô cơ là 1 : 1
cho năng suất cao hơn và hàm lượng nitrate trong lá và trong đất thấp hơn. Các chủng
loại rau khác nhau, giống cây khác nhau thì lượng nitrate tích tụ trong cây cũng khác
nhau. Sự tích tụ nitrate trong các giống rau không đồng đều đó là do tốc độ hấp thụ
nitrate và sử dụng nó trong quá trình trao đổi chất có sự khác biệt. Độ ẩm thừa hoặc
thiếu đều ảnh hưởng không tốt đến quá trình trao đổi chất làm cho nitrate trong cây
tăng lên. Nhiệt độ đất dao động quá lớn cũng gây trở ngại cho quá trình khử nitrate
tại hệ rễ dẫn đến hàm lượng nitrate trong cây tăng lên. Nếu thời gian chiếu sáng trong
ngày dài thì dư lượng nitrate trong cây sẽ giảm. Ngược lại, thiếu ánh sáng và thời gian
chiếu sáng ngắn thì dư lượng nitrate trong cây rau sẽ tăng lên [2].
3. Kết luận
Hàm lượng một số kim loại nặng (As, Cd, Pb, Hg, Sn, Cu, Zn) trong mẫu đất,
mẫu nước và mẫu năn bộp; mật số vi sinh vật và hàm lượng nitrate đạt mức giới hạn
tối đa cho phép theo quy định về tiêu chuẩn sản xuất rau an toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Lân Dũng (2010), “Hàm lượng nitrate trong rau an toàn”.
vn/nongnghiepvn/72/122/21/52495/Ham-luong-nitrat-trong-rau-an-toan.aspx.
[2] Nguyễn Xuân Hải và Ngô Thị Lan Phương (2009), “Nghiên cứu sự tích lũy kim
loại nặng trong đất và nước tưới các vùng trồng rau ngoại thành Hà Nội”. Tạp chí
Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2009, Số 9 tr. 26-31. - 2009.
[3] Kabata - Pendias A. and D. H. Adriano (1995), “Trace elements in Soils and
Plants”, third ed. CRC Press LLC, Boca Raton.
[4] QCVN 03:2008/BTNMT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giới hạn cho phép của
kim loại nặng trong đất.
[5] QCVN 8-2:2011/BYT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim
loại nặng trong thực phẩm.
[6] QCVN 8-3:2012/BYT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với ô nhiễm vi sinh vật
trong thực phẩm.
[7] QCVN 39:2011/BTNMT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước dùng
cho tưới tiêu.
[8] Phạm Ngọc Thụy, Nguyễn Đình Mạnh, Đinh Văn Hùng, Nguyễn Viết Tùng và Ngô
Xuân Mạnh (2006), “Hiện trạng về kim loại nặng (Hg, As, Pb, Cd) trong đất, nước
và một số rau trồng trên khu vực huyện Đông Anh - Hà Nội”. Tạp chí Khoa học
62
LƯỢNG RAU NĂN BỘP AN TOÀN TẠI XÃ VĨNH HƯNG A...
Nông nghiệp và CNTP. Trường Đại học Nông nghiệp I.
[9] Nguyễn Văn Tuấn (2008), Một số vi khuẩn chủ yếu trong thực phẩm. http://
tuanvietnam.net/mot-so-vi-khuan-chu-yeu-trong-thuc-pham.
[10] Zhang Yang Zhu (2005), Nitrate kinetics in vegetable garden as result of combined
application of organic manure and chemical fertilizers. Rural Eco-Environment,
2005 (Vol. 21) (No. 3), 38 - 42.
Title: A SURVEY ON THE EFFECTS OF MICROORGANISMS, HEAVY
METAL AND NITRATE CONTENT ON FRESH NAN BOP VEGETABLES
QUALITY IN VINH HUNG A COMMUNE, VINH LOI DISTRICT, BAC LIEU
PROVINCE
MAI THI NGOC HUONG
Faculty of Agriculture, Bac Lieu university
Abstract: The project was carried out from May to October 2016 at My Phu
Dong hamlet, Vinh Hung A commune, Vinh Loi district, Bac Lieu province. Extensive
experiments aim to determine the microbiological density, heavy metal and nitrate
content in fresh Nan Bop vegetables. The results of the study shows that some heavy
metals (As, Cd, Pb, Hg, Sn, Cu, Zn) in soil samples, water samples and subsamples,
microbiological density and nitrate content reach the maximum limit allowed by the
regulations on safe vegetable production standards. It is recommended to add organic
fertilizer to the field to improve soil structure and provide some trace amounts. It is
necessary to have specific planning of production areas and orientation of finding
product outputs for sale with high and stable prices, increasing profits for people.
Keywords: Nan bop tree, fresh Nan bop vegetable, cultivating Nan bop,
microorganisms in Nan bop, heavy metal in Nan bop.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_anh_huong_cua_vi_sinh_vat_ham_luong_kim_loai_nang_v.pdf