Khảo sát độ tin cậy của NBI trong phát hiện sớm ung thư vùng mũi họng đối chiếu sinh thiết

Bệnh nhân ung thư thanh quản là những bệnh nhân có nguy cơ cao phát triển các loại ung thư biểu mô đồng bộ và không đồng bộ khác vùng đầu mặt cổ. Tỉ lệ ung thư thứ phát của ung thư đầu cổ cao có thể được cho là do một hiệu ứng “vùng tạo ung thư” (“field cancerisation” effect). Sự phát triển thêm ung thư thứ phát có thể làm giảm tỉ lệ sống còn của bệnh nhân. Hơn nữa, ung thư đầu cổ rất thường được điều trị bằng xạ trị để giữ lại chức năng nói cho bệnh nhân, nhưng tần suất tái phát rất cao. Ngày nay, CT scan và MRI còn hạn chế trong chẩn đoán ung thư tái phát ở bệnh nhân đang được điều trị bằng hóa trị liệu và xạ trị. Trong nghiên cứu gần đây của Katada và cộng sự(7) đã ghi nhận: NBI có hiệu quả trong việc phát hiện ung thư biểu mô tế bào vẩy (SCC) bề mặt đồng bộ khác vùng niêm mạc họng và hạ họng đã được điều trị hóa trị liệu trước đó. Mỗi bệnh nhân đều có thể được phát hiện ung thư giai đoạn sớm, can thiệp điều trị tối thiểu, và điều này có thể cải thiện được tiên lượng cho bệnh nhân và cải thiện chất lượng cuộc sống. NBI thật sự là công cụ có thể phân biệt được tổn thương thanh quản không ác tính và ác tính bằng cách xem phân bố mao mạch niêm mạc.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 94 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát độ tin cậy của NBI trong phát hiện sớm ung thư vùng mũi họng đối chiếu sinh thiết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 11 KHẢO SÁT ĐỘ TIN CẬY CỦA NBI TRONG PHÁT HIỆN SỚM UNG THƯ VÙNG MŨI HỌNG ĐỐI CHIẾU SINH THIẾT Trịnh Thị Minh Hải*Nguyễn Hữu Dũng ** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu là khảo sát độ tin cậy của NBI trong phát hiện ung thư đầu cổ. Nghiên cứu tiến cứu. Từ tháng 11/2011 đến tháng 5/2012 tất cả bệnh nhân có khối u nghi ngờ ở vùng mũi họng, thanh quản, đều được nội soi bằng ánh sáng trắng và NBI. So sánh và xử lý số liệu cho thấy độ nhạy, độ chuyên, giá trị tiên đoán dương tính, giá trị tiên đoán âm tính. Kết quả: Trong số 51 bệnh nhân có 17 bệnh nhân có tổn thương vòm, 34 bệnh nhân có tổn thương ở thanh quản.Về giới tính có 33 nam, 18 nữ, với tuổi trung bình là 48,86±15,09. Độ nhạy, độ chuyên, giá trị tiên đoán dương tính và giá trị tiên đoán âm tính lần lượt của ánh sáng trắng lần lượt là 75% 90,7%60%95,1%; của NBI là 90%97,6%90%97,6%(với p< 0,01). Kết luận: NBI tỏ ra cải thiện độ chuyên, giá trị tiên đoán dương tính của chẩn đoán trong phát hiện ung thư đầu cổ ở bệnh nhân có nguy cơ cao. Từ khóa: Hình ảnh dải tần số hẹp. ABSTRACT TO EVALUATE THE DIAGNOSTIC VALUE OF RHINOLARYNGOSCOPY USING A NARROW BAND IMAGING (NBI) SYSTEM IN DETECTING CARCINOMA OF THE HEAD AND NECK Trinh Thi Minh Hai, Nguyen Huu Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 11 - 16 Objectives: To evaluate the diagnostic value of rhinolaryngoscopy using a narrow band imaging (NBI) system in detecting carcinoma of the head and neck. Study design: Prospective study Subjects and methods: Between November 2011 and May 2012 in patients on suspicion of the nasopharyngeal and laryngeal carcinoma at ENT Saigon Hospital. They underwent rhinolaryngoscopy screening with both a white light and an NBI system. Sensitivity, specificity, positive predictive and negative predictive values for detecting carcinoma were calculated and compared. Results: 51 patients include 17 patients with nasopharyngeal disease and 34 patients with laryngeal disease. There were 33 men and 18 women, with a mean age of 48.86 ± 15.09 years (range 17 – 88 years) at the time of diagnosis. Sensitivity, specificity, positive predictive and negative predictive values for detecting carcinoma by white light were 75 %, 90.7 %, 60% and 95.1%. In contrast, those by NBI were 90%*, 97.6%*, 90%* and 97.6% (*P <0.01 vs white light). Conclusion: NBI endoscopy significantly improves diagnostic specificity, positive predictive values for detecting carcinoma of the head and neck in high-risk patients. Key words: Narrow band imaging * Bệnh viện Tai Mũi Họng Sài Gòn ** BM Tai Mũi Họng ĐH Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS. Trịnh Thị Minh Hải ĐT: 0903985738 Email: trinhthiminhhai@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 12 GIỚI THIỆU Ung thư TMH đứng hàng thứ sáu trong ung thư nói chung trên thế giới. Phần lớn ung thư vùng họng và đầu mặt cổ là ung thư biểu mô tế bào vẩy. Bệnh hay gặp ở những vùng như Nam Á, Nam Mỹ, Tây Á. Như chúng ta biết, bệnh thường xuất hiện muộn và thường được chẩn đoán vào giai đoạn đã phát triển. Hơn nữa, khối u lại có thể xuất hiện nhiều chỗ trong vùng TMH(8,10,14). Tuy nhiên, những tổn thương ung thư vùng tai mũi họng thường là loạn sản hay bạch sản, nếu những tổn thương trên bề mặt nông, kích thước đường kính nhỏ hơn 1cm thì kỹ thuật nội soi ánh sáng thông thường có thể khó phát hiện. Nội soi nhuộm Lugol được dùng trong bệnh lý thực quản, nhưng không được dùng trong vùng đầu cổ vì tính chất kích thích niêm mạc, nguy cơ bị sặc(5). Sinh thiết vẫn là tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh lý ung thư, tuy nhiên sinh thiết có thể đối diện với nguy cơ chảy máu, nhiễm trùng vết thương, hơn nữa trên lâm sàng, cần theo dõi tiến triển của loạn sản, bạch sản một số bệnh nhân còn cần phải được sinh thiết nhiều lần trong vài năm. Sẹo của sinh thiết lần đầu ảnh hưởng đến kết quả sinh thiết lần sau(1,2,7). Ở điểm này, NBI (narrow band imaging), là nội soi bằng ánh sáng dải tần số hẹp có khả năng dùng để phát hiện sớm khối u ngay từ biểu hiện bề mặt niêm mạc có tăng sinh mao mạch(1,2,7). ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trên tất cả những bệnh nhân đến khám tại bệnh viện Tai Mũi Họng Sài Gòn từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 5 2012, bệnh nhân người lớn có tổn thương u hay nghi ngờ u vùng mũi họng thanh quản. Dạng nghiên cứu Tiến cứu, thiết kế theo thể loại mô tả cắt ngang. Xử lý số liệu Chúng tôi xử lý số liệu sau khi thu thập bằng phương pháp thống kê y học với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 16.0 và Microsoft Excel 2003. KẾT QUẢ Có tất cả 51 ca được đưa vào lô nghiên cứu So sánh mức độ tương hợp giữa nội soi ánh sáng trắng và ánh sang NBI với kết quả giải phẫu bệnh Bảng 1: Độ nhạy và độ đặc hiệu của ánh sáng trắng (GPB là chuẩn). Giải phẫu bệnh Đặc điểm Dương tính (n=10) Âm tính (n=41) Độ nhạy (%) (KTC 95%) Độ đặc hiệu (%) (KTC 95%) Dương tính (n=8) 6 2 Ánh sáng trắng Âm tính (n=43) 4 39 75 (34,9 – 96,8) 90,7 (77,9 – 97,4) Nhận xét: Xác định độ nhạy và độ đặc hiệu của ánh sáng trắng, kết quả cho thấy trong 8 trường hợp dương tính, chỉ có 6 trường hợp là dương thật và 2 trường hợp dương giả. Từ kết quả trên, xác định độ nhạy (xác suất kết quả xét nghiệm dương tính) của ánh sáng trắng là 75%. Trong 43 trường hợp âm tính, kết quả âm tính thật là 39 và âm tính giả là 4 ca, độ đặc hiệu (xác suất kết quả xét nghiệm âm tính) được xác định là 90,7%. Bảng 2: Giá trị tiên đoán dương thật và âm thật của ánh sáng trắng (GPB là chuẩn). Giải phẫu bệnh Đặc điểm + (n=10) - (n=41) GTTĐ (+) % (KTC 95%) GTTĐ (-) % (KTC 95%) P + (n=8) 6 2 Ánh sáng trắng - (n=43) 4 39 60 (26,2 – 87,8) 95,1 (83,5 – 99,4) 0,000 2=18,46 Nhận xét: Kết quả cho thấy, giá trị tiên đoán dương thật của ánh sáng trắng là 60% (Trong 100 người được soi bằng ánh sáng trắng, giá trị tiên đoán có bệnh thật là 60%, giá trị tiên đoán không có bệnh thật là 95,1%). Giá trị tiên đoán này là có ý nghĩa thống kê với p=0,000 và 2=18,46. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 13 Bảng 3: Độ nhạy và độ đặc hiệu của ánh sáng NBI (GPB là chuẩn). Giải phẫu bệnh Đặc điểm Dương tính (n=10) Âm tính (n=41) Độ nhạy (%) (KTC 95%) Độ đặc hiệu (%) (KTC 95%) Dương tính (n=10) 9 1 Ánh sáng NBI Âm tính (n=41) 1 40 90 (55,5 – 99,7) 97,6 (87,1 – 99,9) Nhận xét: Xác định độ nhạy và độ đặc hiệu của ánh sáng NBI, kết quả cho thấy trong 10 trường hợp dương tính, có 9 trường hợp là dương thật và 1 trường hợp dương giả. Từ kết quả trên, xác định độ nhạy (xác suất kết quả xét nghiệm dương tính) của ánh sáng NBI là 90%. Trong 41 trường hợp âm tính, kết quả âm tính thật là 40 và âm tính giả là 1 ca, độ đặc hiệu (xác suất kết quả xét nghiệm âm tính) được xác định là 97,6%. Bảng 4:Giá trị tiên đoán dương thật và âm thật của ánh sáng NBI (GPB là chuẩn). Giải phẫu bệnh Đặc điểm + (n=10) - (n=41) GTTĐ (+) % (KTC 95%) GTTĐ (-) % (KTC 95%) P + (n=8) 9 1 Ánh sáng NBI - (n=43) 1 40 90 (55,5 – 99,7) 97,6 (87,1 – 99,9) 0,000 2=39,1 Nhận xét: Kết quả cho thấy, giá trị tiên đoán dương thật của ánh sáng NBI là 90% (Trong 100 người được soi bằng ánh sáng NBI, giá trị tiên đoán có bệnh thật là 90%, giá trị tiên đoán không có bệnh thật là 97,6%). Giá trị tiên đoán này là có ý nghĩa thống kê với p=0,000 và 2=39,1. Bảng 5: Xác định sự khác biệt về xác định dương tính giữa ánh sáng trắng và ánh sáng NBI. Ánh sáng trắng Đặc điểm Dương tính (n=8) Âm tính (n=43) P McNema’s 2 Dương tính (n=10) 7 3 Ánh sáng NBI Âm tính (n=41) 1 40 0,31 (2=1) Nhận xét: Trong 51 trường hợp được soi, với ánh sáng trắng, phát hiện 8 trường hợp dương tính, tuy nhiên, đối với ánh sáng NBI, phát hiện được 10 trường hợp dương tính. Bằng kiểm định chi bình phương McNemar, sự khác biệt giữa 2 ánh sáng trong việc xác định dương tính là không có ý nghĩa thống kê với p=0,31 và McNemar’s χ²=1. Bảng 6: Sự đồng thuận giữa 2 máy ánh sáng. Tỷ lệ đồng thuận Tỷ lệ đồng thuận mong đợi Hệ số Kappa P 92,2% 70,9% 0,73 0,000 Bảng 7: Xác định sự khác biệt về xác định dương tính giữa giải phẫu bệnh và ánh sáng trắng. Giải phẫu bệnh Đặc điểm Dương tính (n=10) Âm tính (n=41) P McNema’s 2 Dương tính (n=8) 6 2 Ánh sáng trắng Âm tính (n=43) 4 39 0,41 (2=0,67) Nhận xét: Trong 51 trường hợp được soi, với giải phẫu bệnh và ánh sáng trắng, trong đó có 6 trường hợp cả 2 phương pháp đều cho kết quả dương tính. Bằng kiểm định chi bình phương McNemar, sự khác biệt giữa 2 ánh sáng trong việc xác định dương tính là không có ý nghĩa thống kê với p=0,41 và McNemar’s χ²=0,67. Bảng 8: Sự đồng thuận giữa 2 phương pháp. Tỷ lệ đồng thuận Tỷ lệ đồng thuận mong đợi Hệ số Kappa P 88,24% 70,86% 0,59 0,000 Bảng 9: Xác định sự khác biệt về xác định dương tính giữa giải phẫu bệnh và ánh sáng NBI. Giải phẫu bệnh Đặc điểm Dương tính (n=10) Âm tính (n=41) P McNema’s 2 Dương tính (n=10) 9 1 Ánh sáng NBI Âm tính (n=41) 1 40 1 (2=0.00) Nhận xét: Trong 51 trường hợp được soi, với giải phẫu bệnh và NBI, phát hiện 10 trường hợp dương tính, tuy nhiên, đối với ánh sáng NBI, trong đó có 9 trường hợp cả 2 phương pháp đều cho kết quả dương tính. Bằng kiểm định chi bình phương McNemar, sự khác biệt giữa 2 phương pháp trong việc xác định dương tính là không có ý nghĩa thống kê với p=1 và McNemar’s χ²=0.00. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 14 Bảng 10:Sự đồng thuận giữa 2 phương pháp. Tỷ lệ đồng thuận Tỷ lệ đồng thuận mong đợi Hệ số Kappa P 96,08% 68,47% 0,87 0,000 BÀN LUẬN Trong chẩn đoán những tổn thương ác tính bề mặt, điều thường ghi nhận sớm nhất là cấu trúc cuộn mao mạch bị phá hủy, cho ra đám nâu và những đốm nâu rải rác trên nội soi NBI, đặc biệt chúng càng biểu hiện rõ nét hơn nếu được hỗ trợ bằng thiết bị khuếch đại. Hình ảnh này được quan sát thấy trên ung thư thực quản, ung thư họng, ung thư miệng, và ung thư thanh quản giai đoạn sớm. Do nghiên cứu của chúng tôi chỉ sử dụng máy nội soi ánh sáng trắng thường quy cũng như sử dụng máy nội soi ánh sáng NBI đơn thuần, không sử dụng các thiết bị khuếch đại và tăng độ phân giải nên: Hình ảnh mô tả hình dạng niêm mạc dưới 2 máy nội soi trong nghiên cứu này chỉ dựa vào các tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn nghi ngờ tiền ung thư hay ung thư dưới nội soi ánh sáng trắng là: bạch sản, những sang thương đỏ dày sừng, những u bề mặt không đều và những u bị loét. Tiêu chuẩn chẩn đoán những sang thương ác tính, bao gồm cả ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC: squamous cell carcinoma) cũng như ung thư biểu mô tại chỗ (CIS: Carcinoma in situ) bằng NBI là: sự hiện diện của vùng mô màu nâu nhạt dày sừng với những đốm màu nâu trên sang thương. Tiêu chuẩn này giống với tác giả Watanabe A(8). Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây sử dụng phương pháp nội soi NBI kết hợp với nội soi phế quản ghi hình BF -6C260 có chức năng phân giải những thay đổi màu sắc chất lượng cao có thể xác định hình ảnh rõ ràng hơn, dựa vào đó có thể chia những thay đổi này ra làm 5 type khác nhau dựa vào những mô hình thay đổi vi mạch niêm mạc và cuộn mao mạch của tổn thương: những tổn thương từ type I đến type IV là không ác tính và type V là ác tính. Hơn nữa những loạn sản mức độ thấp thường gặp ở xếp loại type IV, loạn sản nặng và ung thư biểu mô tại chỗ (carcinoma in situ) là ở type Va, ung thư xâm lấn là type Vb hoặc type Vc. Như vậy, xếp loại cuộn mao mạch sẽ giúp dễ dàng dự đoán ung thư và tiền ung thư thanh quản. Trong nghiên cứu này cho thấy: Mô tả hình dạng niêm mạc khi soi dưới ánh sáng trắng thì chiếm tỷ lệ cao nhất là các loại u (14/51 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 27,4%), bao gồm các loại u sụn phễu, bờ, vòm, hạ họng và hốc mũi. Kế đến là hình dạng “Khác” như viêm họng, viêm amiđan, nang dây thanh (25,5%) và hình dạng polyp dây thanh (23,5%). Bạch sản tìm thấy dưới ánh sáng trắng chiếm tỷ lệ tương đối thấp (3/51 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 5,9% Dựa theo tiêu chuẩn nghi ngờ tổn thương dưới ánh sáng trắng thì tỷ lệ bệnh nhân lành tính chiếm cao nhất (23/51 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 45,1%), thấp nhất là số bệnh nhân được chẩn đoán ác tính (8/51 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 15,7%), 20 bệnh nhân chưa được chẩn đoán chính xác và thuộc diện nghi ngờ, chiếm tỷ lệ 39,2%. Kết quả hình ảnh niêm mạc dưới ánh sáng NBI trong nghiên cứu này cho thấy, tỷ lệ phù nề mao mạch dẫn là chiếm đa số 35,3%, kế đến là dạng mảng trắng đốm nâu (21,6%), các trường hợp cuộn mao dẫn, u nhú, u vòm chiếm tỷ lệ thấp (<10%). Dưới ánh sáng trắng, phát hiện 2 trường hợp ung thư. Dựa theo tiêu chuẩn nghi ngờ tổn thương dưới ánh sáng NBI thì tỷ lệ bệnh nhân lành tính chiếm cao nhất (39/51 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 76,5%), kế đến là kết quả ác tính (10/51 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 19,6%), thấp nhất là số bệnh nhân được chẩn đoán nghi ngờ (chỉ có 2 trường hợp không phát hiện được bản chất tổn thương, chiếm tỷ lệ 3,9%). Kết quả giải phẫu bệnh cho thấy, phát hiện 10 trường hợp ác tính. Vì phần lớn ung thư đầu mặt cổ cũng thuộc dạng ung thư biểu mô tế bào vẩy và có những thay đổi mô học giống như ở vùng thực quản. NBI cũng tỏ ra rất có giá trị hỗ trợ trong việc chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào vẩy ở vùng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 15 đầu mặt cổ (SCCHN: Squamois cell carcinoma of the head and neck) ở những bệnh nhân có nguy cơ cao và ung thư đầu mặt cổ phối hợp với ung thư thực quản:tác giả Watanabe A và các cộng sự(16) nghiên cứu trên 667 bệnh nhân ung thư thực quản được nội soi tìm ung thư phối hợp vùng đầu mặt cổ: Kết quả của nội soi bằng ánh sáng trắng thông thường chỉ phát hiện được 23/45 bệnh nhân ung thư với độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm lần lượt so với chẩn đoán mô học là 51,1%; 99,7%; 96,4%; 92%; 96,6%.Trong khi đó NBI phát hiện được 44/45 bệnh nhân được chẩn đoán mô học là ung thư cho thấy độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm lần lượt là 97,7%; 98,9%; 98,8%; 86,3% và 99,8%. So sánh giữa hai phương pháp này dưới đối chiếu mô học thấy rõ ràng NBI có giá trị chẩn đoán ban đầu cao hơn rất nhiều so với nội soi bằng ánh sáng thông thường với độ nhạy 97,8% cao hơn 51,1%, độ chính xác 98,8% cao hơn 96,4%; giá trị tiên đoán âm 99,8% cao hơn 96,6%, tất cả các sự khác biệt này đều có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,001cho độ nhạy, < 0,01 cho độ chính xác và giá trị tiên đoán âm). Một nghiên cứu gần đây nhất: Khi nội soi ánh sáng NBI kết hợp thiết bị khuếch đại: Khi phóng đại, những tổn thương sẽ cho là những đốm nâu rải rác trên bề mặt tổn thương, nơi mà niêm mạc bình thường sẽ không thấy có, đường kính của những đốm nâu này khoảng 1mm. NBI phóng đại sẽ dễ dàng nhìn thấy ổ những đốm này tăng sinh gọi những khám phá này là “kiểu vi mạch tăng sinh”, cho độ chẩn đoán chính xác của NBI và ánh sáng trắng là 90,4% và 76,9% có sự khác biệt với p=0,028. Độ nhạy của NBI trong phát hiện tổn thương ác tính (carcinoma tại chỗ hoặc carcinôm xâm lấn) là 88,9% cao hơn ánh sáng trắng là 68,9% với p=0,020. Dự báo âm tính của NBI (91,7%) cũng cao hơn ánh sáng trắng (79,1%) p= 0,048) Độ chuyên và dự báo dương tính của NBI là 93,2% và 90,9% có khác biệt, kết quả bên ánh sáng trắng là không khác biệt với p >0,05. Khi so sánh với ánh sáng trắng, những yếu tố được đề nghị ở soi NBI những tổn thương ác tính có giá trị chẩn đoán chính xác hơn. Đối với các loại phân type, độ nhạy và độ chuyên của tổn thương type I (NBI) tiên lượng cho kết quả GPB là polyp dây thanh là 100%. Tương tự, cho chẩn đoán viêm thanh quản mạn là 100%. Độ nhạy và độ chuyên của type III tiên lượng cho kết quả GPB squamous cell hyperplasia là 70% và 95,2 %. Của type IV tiên lượng cho kết quả GPB loạn sản thấp là 68,4% và 92,9%. Của type V cho tiên lượng kết quả GPB loạn sản nặng hoặc carcinôm tại chỗ là 83,3 và 100%. Do đó, NBI có kết hợp nội soi phóng đại dường như có hiệu quả và là phương pháp can thiệp ít xâm lấn cho việc phát hiện bệnh sớm và có khả năng khám phát hiện những thay đổi vi mạch trong suốt tiến trình ung thư hóa,. NBI có phóng đại không chỉ được ứng dụng trên lâm sàng ở vùng đầu cổ mà còn ở phế quản, thực quản, dạ dày và ruột. NBI có khuếch đại được xem là phương pháp có khả năng phát hiện sớm ung thư đều dựa trên căn bản là sự phân bố mạch máu không đều. Tăng sinh tân mạch là điểm cho thấy chuyển biến của tiền ung thư trong quá trình tăng sinh của tiến trình ung thư hóa. Cho nên, chẩn đoán dựa trên thay đổi mạch dẫn hay hình dạng mạch máu là quan điểm của việc phát hiện sớm u tân sinh. Một nghiên cứu gần đây nhất về sự ứng dụng Toluidine blue trong chẩn đoán sang thương ác tính hoặc tiền ung thư dưới dạng loạn sản vùng miệng của tác giả Palamo và cộng sự cho thấy phương pháp này chỉ cho độ nhạy 65,5%; độ đặc hiệu 73,3%; giá trị tiên đoán dương 35,2% và giá trị tiên đoán âm là 90,6%. Từ kết quả này cho thấy: giá trị ứng dụng phương pháp này trong chẩn đoán sang thương ác tính hoặc tiền ung thư dưới dạng loạn sản vùng miệng vẫn chưa chắc chắn. Như chúng ta đã biết, trong các loại ung thư đầu mặt cổ thì ung thư thanh quản nếu được Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 16 chẩn đoán và điều trị sớm sẽ cho kết quả rất khả quan. Do đó, chẩn đoán sớm ung thư thanh quản thật sự có giá trị cho tiên lượng và có thể lựa chọn giải pháp điều trị tốt nhất. Các nghiên cứu trước đây giới thiệu phương pháp nội soi thanh quản tự phát huỳnh quang, dùng kết hợp với nội soi ánh sáng trắng kinh điển được gọi là nội soi tự phát huỳnh quang (Autofluorescent endoscopy) có thể phát hiện sớm những tổn thương tiền ung thư và ác tính. Độ nhạy của phương pháp này khoảng 92 – 97% tương đương với nội soi NBI. Tuy nhiên, tỉ lệ dương tính giả tương đối cao vì một vài tổn thương lành tính (bao gồm mô hạt, u nhú và polyp dây thanh) cũng làm mất màu xanh của huỳnh quang. Vì thế độ đặc hiệu chỉ trong khoảng từ 60 – 82%..Hơn nữa, những vết sẹo niêm mạc và viêm cũng thường cho kết quả dương tính giả nên ở bệnh nhân đã mổ ung thư thanh quản hay xạ trị khi khám theo dõi sẽ có giới hạn khi dùng phương pháp này. Ngược lại, trên kết quả mô sẹo hay mô viêm khi nội soi NBI có thể phân biệt dễ dàng với những sang thương tiền ung thư hay ác tính. Bệnh nhân ung thư thanh quản là những bệnh nhân có nguy cơ cao phát triển các loại ung thư biểu mô đồng bộ và không đồng bộ khác vùng đầu mặt cổ. Tỉ lệ ung thư thứ phát của ung thư đầu cổ cao có thể được cho là do một hiệu ứng “vùng tạo ung thư” (“field cancerisation” effect). Sự phát triển thêm ung thư thứ phát có thể làm giảm tỉ lệ sống còn của bệnh nhân. Hơn nữa, ung thư đầu cổ rất thường được điều trị bằng xạ trị để giữ lại chức năng nói cho bệnh nhân, nhưng tần suất tái phát rất cao. Ngày nay, CT scan và MRI còn hạn chế trong chẩn đoán ung thư tái phát ở bệnh nhân đang được điều trị bằng hóa trị liệu và xạ trị. Trong nghiên cứu gần đây của Katada và cộng sự(7) đã ghi nhận: NBI có hiệu quả trong việc phát hiện ung thư biểu mô tế bào vẩy (SCC) bề mặt đồng bộ khác vùng niêm mạc họng và hạ họng đã được điều trị hóa trị liệu trước đó. Mỗi bệnh nhân đều có thể được phát hiện ung thư giai đoạn sớm, can thiệp điều trị tối thiểu, và điều này có thể cải thiện được tiên lượng cho bệnh nhân và cải thiện chất lượng cuộc sống. NBI thật sự là công cụ có thể phân biệt được tổn thương thanh quản không ác tính và ác tính bằng cách xem phân bố mao mạch niêm mạc. KẾT LUẬN NBI thật sự là công cụ có thể phân biệt được tổn thương vùng mũi họng không ác tính và ác tính bằng cách xem phân bố mao mạch niêm mạc. Nghiên cứu trên, hình dáng mạch máu của cuộn mao mạch đều có thể xếp thành 5 types, có liên quan đến tổn thương mũi họng nặng xác định bằng mô học. Hơn nữa, tính chất của cuộn mao mạch nội mô không ảnh hưởng bởi mô sẹo hay mô viêm. Vì vậy việc đánh giá cuộn mao mạch qua NBI có thể dùng thường quy để khám mũi họng thanh quản ở những bệnh nhân có nguy cơ cao, dùng trong tầm soát ung thư đồng bộ và khác bộ của ung thư đầu cổ, để quản lý theo dõi hiệu quả điều trị và kiểm tra ung thư tái phát sau phẫu thuật. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gono K, Obi T, Yamaguchi M et al (2004). Appearance of enhanced tissue features in narrow band endoscopic imaging. J Biomed Opt 9:pp568 – 577. 2. Gono T, Yamazaki K, Doguchi N, et al (2003). Endoscopy observation oftissue by narrow band illumination. Opt Rev 10:pp: 211 – 215. 3. Muto M, Hironaka S, Nakane M, et al (2002). Association of multiple Lugol-voiding lesions with synchronous and metachronous oesophageal squamous cell carcinoma in patients with head and neck cancer. Gastrointest Endosc 56; pp:517 – 521. 4. Muto M, Katada C, Sano Y, et al (2005). Narrow band imaging: a new diagnosic approach to visualize angiogenesis in superficial neoplasia. Clin Gastroenterol Hepatol 3:S16 – 20. 5. Muto M, Nakane M, Katada C, et al (2004). Squamous cell carcinoma in situ at oropharyngeal and hypopharyngeal mucosal sites. Cancer 101; pp: 1375 – 1381. 6. Ni XG, He S, Xu ZG, et al (2011). Endoscopic diagnosis of laryngeal cancer and precancerous lesions by narrow band imaging. The Journal of Laryngology and Otology. 125: 233 – 296. 7. Trần Hữu Tước (1983) Ung thư thanh quản hạ họng. NXB Y học.tr:104-110 8. Watanabe A, Hosokawa M, Taniguchi M, Sasaki S (2003). Periodic pharyngolaryngoscopy detects early head and neck cancer and improves survival in esophageal cancer. Ann Thorac Surg 76; pp:1699 – 1705.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_do_tin_cay_cua_nbi_trong_phat_hien_som_ung_thu_vung.pdf
Tài liệu liên quan