Xếp loại hành vi tự chăm sóc Đái tháo đường
Kết quả đánh giá từng hành vi tự chăm sóc
cho thấy hành vi tự chăm sóc không tốt tập trung
ở 3 nhóm bao gồm hành vi tự kiểm soát nồng độ
Glucose máu (99,6%), tự chăm sóc bàn chân (66,1%)
và vận động thể lực (68,4%). Trong đánh giá tổng
thể về hành vi tự chăm sóc ĐTĐ, kết quả cho thấy
có 32,4% đối tượng thực hiện tốt hành vi tự chăm
sóc, nghĩa là hơn một nửa đối tượng mắc ĐTĐ type
2 trong nghiên cứu của chúng tôi chưa tự chăm sóc
tốt tình trạng bệnh của mình. Các đối tượng thực
hiện hành vi tự chăm sóc trung bình là 3,37 ngày
trong tuần. Chỉ có 1 đối tượng thực hiện tốt tất cả
hành vi tự chăm sóc trong tất cả các ngày trong tuần.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác biệt so
với nghiên cứu của Nazila N và cộng sự, khi tỷ lệ đối
tượng có hành vi tự chăm sóc đạt loại tốt chỉ chiếm
4,7%, có tới 63,6% người mắc ĐTĐ xếp loại hành vi
tự chăm sóc yếu, còn lại là xếp loại trung bình [8].
Sự khác biệt này có thể bị ảnh hưởng từ cỡ mẫu,
phương pháp đánh giá và trình độ học vấn khác
nhau giữa 2 nghiên cứu. Nghiên cứu của Nazila N.
và cộng sự đánh giá hành vi đạt loại tốt khi ĐTNC
thực hiện tốt từ 72% tổng số điểm trở lên, trong khi
nghiên cứu chúng tôi mốc đánh giá là thực hiện hành
vi trên 4 ngày tương đương từ 57% tổng số điểm trở
lên. Nghiên cứu tại Ấn Độ cho tỷ lệ thực hiện hành
vi tự chăm sóc xếp loại khá tốt/tốt là 54,67%, kết
quả cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi
(32,4%) [7]. Nhóm đối tượng nghiên cứu tại Ấn Độ
có trình độ học vấn và mức thu nhập cao hơn so với
nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể là một
trong những nguyên nhân khiến kết quả nghiên cứu
tại Ấn Độ tốt hơn so với nghiên cứu của chúng tôi.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát hành vi tự chăm sóc của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại một số xã, phường tỉnh Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
KHẢO SÁT HÀNH VI TỰ CHĂM SÓC CỦA BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI MỘT SỐ XÃ, PHƯỜNG
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nguyễn Thị Kiều Mi, Lê Hồ Thị Quỳnh Anh, Nguyễn Minh Tâm
Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Đái tháo đường type 2 là bệnh mạn tính có nhiều biến chứng nguy hiểm và tỷ lệ tử vong cao.
Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) đang tăng nhanh với tốc độ đáng báo động tại Việt Nam, gần gấp đôi
trong 10 năm trở lại đây. Hành vi tự chăm sóc được xem là thành tố quan trọng để đạt được hiệu quả trong
việc kiểm soát đường huyết và quản lý bệnh đái tháo đường. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu tìm
hiểu về thực trạng hành vi tự chăm sóc của bệnh nhân đái tháo đường type 2. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 513 bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ type 2 tại 4 bệnh viện
huyện/thành phố ở tỉnh Thừa Thiên Huế thông qua bộ câu hỏi đánh giá hành vi tự chăm sóc ở bệnh nhân đái
tháo đường (SDSCA). Kết quả: Nội dung tự chăm sóc được người bệnh thực hiện thường xuyên là tuân thủ
chế độ ăn uống (57,1%) và tuân thủ sử dụng thuốc (93,2%). Tỷ lệ thực hiện tốt các hành vi tự kiểm soát nồng
độ Glucose máu, tự chăm sóc bàn chân và vận động thể lực là rất thấp, lần lượt là 0,4%, 33,9% và 31,6%. Tỷ
lệ thực hiện tốt hành vi tự chăm sóc đái tháo đường chiếm 32,4%. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy khoảng
trống khá lớn trong việc thực hiện các hành vi tự chăm sóc ở bệnh nhân ĐTĐ. Cần tăng cường nhận thức và
thực hành của người dân về các hành vi tự chăm sóc bệnh đái tháo đường thông qua các chương trình truyền
thông, giáo dục sức khỏe và các câu lạc bộ bệnh nhân đái tháo đường.
Từ khóa: Đái tháo đường type 2, hành vi tự chăm sóc
Abstract
SELF-CARE PRACTICES AMONG DIABETES PATIENTS
IN SOME COMMUNES OF THUA THIEN HUE PROVINCE
Nguyen Thi Kieu Mi, Le Ho Thi Quynh Anh, Nguyen Minh Tam
Hue University of Medicine and Pharmacy
Objectives: Diabetes mellitus (DM) is a chronic disease with severe complications and high mortality.
In Vietnam, the incidence of DM is rapidly increasing at alarming rates and has almost doubled within
the last 10 years. Self-care has been explored in the literature as an important construct to achieve good
metabolic control and well management of DM. This study aimed to investigate the self-care practices of
individuals with DM. Methods: A cross-sectional study is conducted with 513 patients diagnosed DM in
the 4 district hospitals of Thua Thien Hue provinces. The Vietnamese version of the Summary of Diabetes
Self-care Activities (SDSCA) was used. Results: The specific self-care dimensions reported more desirable
were following a healthy diet (57.1%) and medication adherence (93.2%). The proportion of people with
frequent behaviors towards blood glucose testing, foot care, and physical activities were very low, with 0.4%,
33.9%, and 31.6% respectively. 32.4% of diabetes patients having good adherence to the overall of self-care
activities. Conclusion: The results show a big gap in specific self-care activities among patients with DM.
It is strongly recommended to enhance the awareness and practice of self-care activities among diabetes
patients by developing effective education strategies and activities of diabetes patient groups.
Keywords: Diabetes mellitus type 2, self-care behaviors, self-managment
- Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Minh Tâm, email: dr.nmtam@gmail.com
- Ngày nhận bài: 12/5/2017; Ngày đồng ý đăng: 22/6/2017; Ngày xuất bản: 18/7/2017
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường đang dần trở thành vấn đề sức
khỏe toàn cầu. Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường đang
tăng nhanh với tốc độ đáng báo động tại Việt Nam,
tăng gấp đôi trong 10 năm trở lại đây tỷ lệ mắc bệnh
57
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
đái tháo đường lứa tuổi 30 – 69 toàn quốc là 2,7%
vào năm 2002, đã tăng lên 5,4% năm 2012 [3].
Mặc dù trong thời gian qua, ngành Y tế Việt Nam
đã có những chuyển biến tích cực trong công tác
chăm sóc sức khỏe của người dân, tuy nhiên chưa
có sự đồng bộ và thống nhất trong khâu quản lý các
bệnh lý mạn tính không lây nhiễm, đặc biệt quản lý
bệnh đái tháo đường từ tuyến trung ương đến địa
phương, cũng như giữa các cơ sở khám chữa bệnh
khác. Chính điều này đã gây nên các hạn chế trong
việc điều trị và theo dõi liên tục, thường xuyên cho
bệnh nhân đái tháo đường của cán bộ y tế.
Hành vi tự chăm sóc được xem là thành tố quan
trọng trong việc kiểm soát tốt tình trạng sức khỏe,
đặc biệt là đối với các bệnh lý mạn tính. Hơn nữa,
95% các hành vi tự chăm sóc được thực hiện bởi
người bệnh và gia đình của họ [14]. Hiệu quả của
việc tự chăm sóc ở các bệnh nhân đái tháo đường
đã được chứng minh trong việc kiểm soát tốt nồng
độ Glucose máu, giảm các biến chứng và cải thiện
chất lượng cuộc sống [11]. Mặc dù vậy, việc tuân thủ
các hành vi tự chăm sóc vẫn chưa được chú trọng
đúng mực. Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ các hành vi tự
chăm sóc về chế độ ăn uống, vận động thể lực, tuân
thủ sử dụng thuốc, tự kiểm soát đường máu, chăm
sóc bàn chân vẫn còn khá thấp [7], [9], [13].
Vẫn còn khá ít nghiên cứu đánh giá việc thực
hiện các hành vi tự chăm sóc ở bệnh nhân đái tháo
đường ở Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi được
tiến hành nhằm mô tả về thực trạng hành vi tự chăm
sóc của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại một số
xã, phường tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 6 năm 2016
đến tháng 4 năm 2017
2.2. Đối tượng nghiên cứu: Người dân đã được
chẩn đoán ĐTĐ type 2 đang điều trị ngoại trú tại một
số xã, phường tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô
tả cắt ngang
2.4. Phương pháp chọn mẫu: Sử dụng phương
pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn. Chọn ngẫu nhiên
4 huyện/thị xã/thành phố tham gia nghiên cứu
theo khu vực địa lý. Ở mỗi huyện/thị xã/thành phố,
chọn ngẫu nhiên xã/phường/thị trấn. Dựa vào danh
sách khám chữa bệnh ngoại trú tại bệnh viện tuyến
huyện/thành phố trong 6 tháng cuối năm 2016
(06/2016 - 12/2016), chúng tôi chọn mẫu toàn bộ
người dân mắc ĐTĐ type 2 hiện đang sinh sống ở
các xã/phường/thị trấn đã được chọn. Tổng số mẫu
chúng tôi thu thập được là 513 người.
2.5. Thu thập và phân tích số liệu
Thông tin thu thập dựa vào bộ câu hỏi được
phát triển dựa trên Bộ công cụ đánh giá hành vi tự
chăm sóc ở bệnh nhân đái tháo đường (Summary
of Diabetes Self-care Activities-SDSCA) gồm 14 câu
hỏi liên quan đến chế độ ăn uống (4 câu hỏi), hoạt
động thể lực (2 câu hỏi), tự kiểm soát đường máu
(2 câu hỏi), tuân thủ điều trị thuốc (2 câu hỏi) và tự
chăm sóc bàn chân (4 câu hỏi). Bộ câu hỏi sẽ được
chỉnh sửa và tiến hành điều tra thử nghiệm trước
khi phỏng vấn trên các đối tượng được chọn vào
nghiên cứu.
Phương pháp đánh giá: Đánh giá hành vi tự
chăm sóc của bệnh nhân theo điểm số được cho ở
mỗi câu hỏi. Mỗi câu hỏi sẽ có 8 mức độ lựa chọn
về tần suất thực hiện các hành vi tự chăm sóc trong
một tuần từ 0 – 7 ngày, tương ứng với số điểm là
0 - 7 điểm. Trung bình ngày thực hiện tất cả các nội
dung bằng tổng số ngày thực hiện các nội dung chia
cho tổng số câu hỏi.
Đối với những người không điều trị hoặc chỉ điều
trị bằng tiết thực thì tổng câu hỏi là 12 (không tính
nội dung tuân thủ điều trị thuốc). Đối với những
người chỉ sử dụng thuốc hoặc chỉ tiêm Insulin thì
tổng số câu hỏi là 13 (chỉ tính 1 trong 2 câu hỏi ở nội
dung tuân thủ điều trị thuốc: tuân thủ uống thuốc/
tuân thủ tiêm Insulin). Đối với người phối hợp cả
thuốc uống và tiêm Insulin thì tổng số câu hỏi là 14.
Những người thực hiện các hành vi tự chăm sóc 4
ngày trở lên được đánh giá là thường xuyên thực
hiện và có hành vi tự chăm sóc tốt, những người
thực hiện từ 4 ngày trở xuống được đánh giá là có
hành vi tự chăm sóc chưa tốt [15].
2.6. Xử lý số liệu: Số liệu được nhập vào phần
mềm Epidata 3.1, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
18.0 và Excel.
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu (1)
Đặc điểm (n=513) Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam 186 36,3
Nữ 327 63,7
58
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Tuổi
≤ 44 12 2,3
45-64 237 46,2
≥ 65 264 51,5
Trình độ học vấn
Mù chữ 40 7,8
Chưa tốt nghiệp tiểu học 141 27,5
Tiểu học 110 21,4
THPT 77 15,0
THCS 91 17,7
CĐ/ĐH/SĐH 54 10,5
Nghề nghiệp
Nông dân,Ngư dân 57 11,2
Cán bộ,Nhân viên 32 6,2
Công nhân,Thợ thủ công 18 3,5
Buôn bán/Dịch vụ 85 16,6
Nội trợ 44 8,6
Nghỉ hưu, người già 269 52,4
Thất nghiệp 6 1,2
Khác 2 0,4
Tình trạng
sinh sống
Sống cùng gia đình 487 94,9
Sống một mình 26 5,1
Nhận xét: Nữ giới chiếm gần gấp đôi so với nam giới. ĐTNC tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi từ 65 trở lên
(chiếm 51,5%), chỉ có 2,3% đối tượng từ 44 tuổi trở xuống, với số tuổi trung bình là 65,42 ± 10,62. Hơn 50%
ĐTNC có trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống. Hầu hết ĐTNC là nghỉ hưu, người già chiếm 52,4%.
Bảng 2. Tình trạng bệnh đái tháo đường của đối tượng nghiên cứu
Chỉ số sức khỏe (n=513) Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Số năm được chẩn đoán
mắc ĐTĐ
≤ 1 99 19,3
2-4 197 38,4
5-10 153 29,8
> 10 64 12,5
Liệu pháp
điều trị
Chỉ có chế độ tiết thực 25 4,9
Thuốc uống 440 85,8
Chỉ tiêm Insulin 11 2,1
Insulin và thuốc uống 18 3,5
Không điều trị 19 3,7
Biến chứng ĐTĐ Có 297 57,9
Không 216 42,1
Nhận xét: Đa số ĐTNC được chẩn đoán mắc ĐTĐ từ 2-4 năm (38,4%). Có 25,7% người bệnh có tiền sử
gia đình mắc ĐTĐ. Về liệu pháp điều trị, chỉ sử dụng thuốc uống là liệu pháp được sử dụng nhiều nhất chiếm
85,8%, tỷ lệ bệnh nhân có tiêm Insulin chiếm 5,6%. Tỷ lệ có biến chứng đái tháo đường trong nhóm đối tượng
nghiên cứu khá cao, 57,9%.
59
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 3. Tần suất thực hiện hành vi tự chăm sóc bệnh đái tháo đường
Hành vi tự chăm sóc theo SDSCA (n = 513)
Tần suất thực hiện
Mean±SD0 - 4 ngày 5 - 7 ngày
n % n %
Chế độ ăn uống
Thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh 194 37,8 319 62,2 4,62±2,93
Thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh trong
tháng qua
216 42,1 297 57,9 4,40±2,85
Ăn 5 khẩu phần rau củ/trái cây hoặc nhiều hơn 303 59,1 210 40,9 3,68±2,77
Ăn thực phẩm giàu chất béo hoặc các thực
phẩm nguyên chất béo
408 79,5 105 20,5 2,91±2,26
Vận động thể lực
Thực hiện ít nhất 30 phút hoạt động thể lực 141 27,5 372 72,5 5,31±2,72
Thực hiện các bài tập thể dục chuyên biệt 355 69,2 158 30,8 2,21±3,12
Tự kiếm soát đường huyết
Thực hiện đo đường huyết tại nhà 509 99,2 4 0,8 0,12±0,7
Kiểm tra đường huyết theo số lần được khuyến
cáo
510 99,4 3 0,6 0,07±0,58
Tuân thủ sử dụng thuốc
Uống thuốc theo đúng chỉ định (n=458) 30 6,6 428 93,4 5,86±2,5
Tiêm đủ liều Insulin theo chỉ định (n=29) 3 10,3 26 89,7 0,4±1,62
Chăm sóc bàn chân
Kiểm tra bàn chân của mình 331 64,5 182 35,5 2,65±3,24
Kiểm tra bên trong giày của mình 385 75,0 128 25,0 1,81±3,0
Thực hiện rửa bàn chân 100 19,5 413 80,5 5,68±2,62
Lau khô kẽ giữa các ngón chân sau khi rửa 312 60,8 201 39,2 2,82±3,33
Hành vi tự chăm sóc chung 347 67,6 166 32,4 3,37±1,20
Nhận xét: Đa số đối tượng nghiên cứu thực hiện
thường xuyên chế độ ăn uống lành mạnh, tuy nhiên
có 59,1% đối tượng không ăn đủ khẩu phần rau
trong ngày. Về vận động thể lực, 72,5% người thực
hiện ít nhất 30 phút mỗi ngày nhưng chỉ có 30,8%
người thường xuyên thực hiện các bài tập thể dục
chuyên biệt. Tỷ lệ thường xuyên thực hiện kiểm
soát đường máu là rất thấp, có đến 99,2% người
không thường xuyên thực hiện việc tự kiểm tra
đường huyết tại nhà. Tỷ lệ tuân thủ sử dụng thuốc
rất cao trong nhóm 458 người có dùng thuốc uống
và nhóm 29 người có sử dụng Insuline trong điều trị
ĐTĐ type 2 (89,7%-93,4%). Tỷ lệ thực hiện thường
xuyên hành vi tự chăm sóc bàn chân là chưa cao,
chủ yếu là thường xuyên thực hiện rửa bàn chân mà
chưa thường xuyên kiểm tra bàn chân, kiểm tra bên
trong giày và lau khô kẽ giữa các ngón chân sau khi
rửa chân. Đánh giá hành vi tự chăm sóc chung của
đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ thực hành tốt chưa cao,
chiếm 32,4%.
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành
trên 513 đối tượng đã được chẩn đoán mắc ĐTĐ
type 2 trên địa bàn một số xã, phường tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu được chẩn đoán
mắc ĐTĐ từ 2 - 4 năm (38,9%) và 5 - 10 năm (29,0%).
Tỷ lệ không có tiền sử gia đình mắc ĐTĐ là khá cao
(74,3%), tương tự với nghiên cứu tại Hồ Chí Minh
(79,0%) [13]. Phần lớn đối tượng đều tiến hành điều
trị ĐTĐ type 2 chiếm 96,3%, trong đó liệu pháp trị
liệu được chỉ định nhiều nhất là điều trị bằng thuốc
uống (85,8%), điều trị chỉ bằng chế độ tiết thực
chiếm 4,9%, được chỉ định tiêm Insulin trong liệu
pháp điều trị chiếm 5,6%.
60
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Hành vi tự chăm sóc về chế độ dinh dưỡng
Việc tuân thủ chế độ ăn uống giúp cải thiện tốt
nồng độ Glucose máu và ngăn ngừa các nguy cơ tim
mạch, là yêu cầu quan trọng trong các hành vi tự
chăm sóc. Kết quả nghiên cứu cho thấy trung bình
thực hiện chế độ ăn uống của quần thể là 4,2 ngày
trong tuần, chỉ có 4,7% đối tượng đáp ứng đủ tất cả
các yêu cầu về chế độ ăn uống trong cả tuần, 37,8%
bệnh nhân chưa đảm bảo tuân thủ theo chế độ ăn
uống lành mạnh dành cho người ĐTĐ. Tỷ lệ người
bệnh có ăn đủ khẩu phần rau củ ít nhất một ngày trở
lên khá cao (74,7%), tuy nhiên có 59,1% đối tượng
không thường xuyên ăn đủ khẩu phần rau củ/trái
cây trong ngày. Đa số người bệnh khi được hỏi đều
biết ĐTĐ phải ăn nhiều rau nhưng lại không nắm rõ
khẩu phần, dẫn đến tình trạng đối tượng có ăn rau
nhưng lại không đủ theo khuyến cáo được đề ra.
Người mắc ĐTĐ đã ý thức được việc hạn chế hấp
thu các loại thực phẩm giàu chất béo, tỷ lệ sử dụng
hạn chế các loại thực phẩm này, tức chỉ dùng từ 0-4
ngày chiếm 79,6%. Nghiên cứu của tác giả Svartholm
S và cộng sự ở Hồ Chí Minh, hầu hết đối tượng thực
hiện chế độ ăn uống lành mạnh “khá thường xuyên”
(5 ngày), 80-85% đối tượng cho biết có ăn đủ 5 khẩu
phần rau ít nhất 1 ngày trở lên [13]. Một nghiên cứu
khác của Elizabeth, kết quả chỉ ra có 58% người thực
hiện chế độ ăn uống lành mạnh từ 5 ngày trở lên và
53% trung bình trong tháng vừa qua, chỉ có 50,0%
đối tượng thường xuyên ăn đủ khẩu phần rau trong
ngày [5]. Nghiên cứu tại Brazil cùng lấy điểm cắt là
4 ngày cho kết quả cao hơn nhiều so với nghiên cứu
của chúng tôi, với 54,7% người thực hiện chế độ ăn
uống lành mạnh từ 5 ngày trở lên, 50,7% người ăn
đủ hoặc nhiều hơn 5 khẩu phần rau củ/trái cây chiếm
và 40,0% người kiêng các loại thực phẩm giàu chất
béo [15]. Qua những phân tích trên có thể thấy việc
ăn không đủ khẩu phần rau củ/trái cây theo khuyến
cáo là vấn đề hay gặp nhất khi thực hiện hành vi tự
chăm sóc về chế độ ăn uống ở những bệnh nhân đái
tháo đường. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng đã
chỉ ra rằng thiếu các hướng dẫn về chế độ ăn lành
mạnh cũng như thiếu sự hỗ trợ từ gia đình là những
yếu tố làm hạn chế việc tuân thủ chế độ ăn uống
lành mạnh ở những bệnh nhân đái tháo đường [10].
Hành vi tự chăm sóc về chế độ hoạt động thể lực
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người thực hiện ít nhất
30 phút hoạt động thể lực từ 5 ngày trở lên chiếm
72,5% và tỷ lệ thường xuyên thực hiện các bài tập
chuyên biệt là 30,8%. Phần lớn đối tượng cho rằng
bản thân không có thời gian luyện tập hoặc sự tiêu
hao năng lượng trong các công việc, làm việc nhà
cũng đủ để bù lại cho các bài tập chuyên biệt. Kết
quả thực hiện ít nhất 30 phút hoạt động thể lực của
chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Elizabeth
và nghiên cứu của Vivian SV, khi tỷ lệ này lần lượt là
37,0% và 25,4% [5], [15]. Tỷ lệ thực hiện các bài tập
chuyên biệt trong nghiên cứu chúng tôi lại cho kết
quả gần giống với nghiên cứu của Elizabeth (39,0%)
[5]. Một số nghiên cứu khác như tại Gujarat, có 40%
người bệnh báo cáo bản thân có thực hiện một số
bài tập thể dục trong thời gian rảnh rỗi ít nhất 3 ngày
trong tuần [12]. Nghiên cứu ở Hồ Chí Minh ghi nhận
kết quả các đối tượng nghiên cứu có thực hiện ít
nhất 30 phút hoạt động thể lực từ 4-5 ngày trong
tuần [13]. Trong khi kết quả nghiên cứu tại Brazil,
tỷ lệ thực hiện các bài tập thể dục chuyên biệt từ 5
ngày trở lên chỉ chiếm 10,7% [15]. Như vậy, phần lớn
ĐTNC có thể thực hiện ít nhất 30 phút hoạt động thể
lực với tần suất thường xuyên, nhưng lại chưa thực
hiện thường xuyên các bài tập chuyên biệt theo như
được khuyến cáo.
Hành vi tự kiểm soát nồng độ Glucose máu
Một trong những yếu tố góp phần quản lý tốt
bệnh đái tháo đường là người bệnh cần theo dõi,
kiểm tra đường huyết tại nhà và khám sức khỏe định
kỳ để kịp thời phát hiện các biến chứng do đái tháo
đường gây ra. Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu
hết người bệnh không tuân thủ tự kiểm soát nồng
độ Glucose máu (99,2%), trong 4 người thường
xuyên đo đường huyết tại nhà có 3 người làm đúng
theo khuyến cáo. Kết quả nghiên cứu ở Hồ Chí Minh
cũng cho thấy chỉ có 8,0% đối tượng có tự đo đường
huyết tại nhà [13]. Nguyên nhân chủ yếu người bệnh
đưa ra là do điều kiện kinh tế khó khăn, không có
tiền mua máy đo đường huyết và que thử (49,1%)
và đường huyết ổn định không cần thử (47,5%) [6].
Bên cạnh đó, một số người bệnh thường đến khám
và nhận thuốc định kỳ hằng tháng tại cơ sở y tế, tại
đây họ sẽ được kiểm tra đường huyết để theo dõi.
Vì vậy, hầu hết người bệnh đều cho rằng không cần
thiết tự kiểm soát đường huyết tại nhà. Một vấn đề
nữa cần bàn luận ở đây chính là tính sẵn có của các
dịch vụ quản lý và theo dõi đường huyết tại tuyến
y tế cơ sở. Ở nước ta, việc quản lý và điều trị bệnh
đái tháo đường chủ yếu được thực hiện tại tuyến
huyện trở lên và hầu hết các Trạm y tế không được
trang bị những thiết bị cơ bản để chẩn đoán và quản
lý ĐTĐ tại Trạm [2],[4]. Đây cũng chính là một rào
cản khiến cho người dân ít chủ động thường xuyên
kiểm tra đường huyết của mình. Nghiên cứu tại
Gujarat cho kết quả cao hơn nghiên cứu của chúng
tôi, tuy nhiên cũng chỉ có 16% người thực hiện tự
kiểm soát nồng độ Glucose máu [12]. Kết quả này
tại Brazil cho thấy có tới 53,4% đối tượng có thực
hiện tự đo đường máu tại nhà từ 5 ngày trong tuần
trở lên và 44,0% thực hiện theo đúng chỉ định được
61
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
khuyến cáo [15]. Nghiên cứu ở Ấn Độ năm 2015 hay
nghiên cứu tương tự ở Đông Ethiopia lại cho kết quả
khá khả quan khi có tỷ lệ người tự kiểm soát đường
máu tại nhà cao hơn so với nghiên cứu của chúng
tôi, lần lượt là 54,0% và 57,7% [1], [7]. Sự khác biệt
này có thể do ảnh hưởng của mức thu nhập kinh tế
khác nhau ở hai quần thể nghiên cứu. Tại Ấn Độ, có
đến 54,0% đối tượng có mức thu nhập cao, trong khi
nghiên cứu của chúng tôi mức thu nhập của người
bệnh chủ yếu là trung bình, chiếm đến 75,8%.
Hành vi tuân thủ điều trị thuốc
Tuân thủ sử dụng thuốc kết hợp với chế độ ăn
uống và luyện tập thể dục giúp duy trì đường máu
ở ngưỡng ổn định, hạn chế các nguy cơ xuất hiện
biến chứng ĐTĐ. Trong 458 người có sử dụng thuốc
uống, có 93,4% đối tượng thường xuyên tuân thủ
liệu pháp điều trị, tuy nhiên có tới 4,1% người dân
không hề uống thuốc dù đã được chỉ định điều trị. Có
89,7% đối tượng tiêm đủ liều Insulin trong cả tuần.
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi tương đồng
với nghiên cứu tiến hành ở Brazil [15], điều này cho
thấy người bệnh nhận thức được rõ ràng tầm quan
trọng của việc tuân thủ sử dụng thuốc đối với tình
trạng bệnh của họ. Ở Gujarat, 82% bệnh nhân đều
tuân theo đúng lịch uống thuốc, 68% người đảm
bảo rằng họ chưa từng bỏ qua một lượt uống thuốc
nào trong tuần qua [12]. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng cao hơn so với nghiên cứu của Ayele
K. với 78,4% thực hiện đúng theo toa thuốc [1]. Sự
khác biệt này có thể vì ở nghiên cứu của chúng tôi
người bệnh được bảo hiểm y tế chi trả phần lớn các
dịch vụ y tế và các loại thuốc điều trị đái tháo đường
trong khi nghiên cứu của Shyamsundar JR và Ayele K
người bệnh tự chi trả cho quá trình điều trị của họ.
Hành vi tự kiểm tra bàn chân
Quần thể nghiên cứu thực hiện hành vi tự chăm
sóc bàn chân trung bình là 3,24 ngày trong tuần, có
đến 14,8% đối tượng không hề thực hiện bất kỳ hoạt
động nào để chăm sóc bàn chân. Cụ thể là, 64,5%
người bệnh không thường xuyên thực hiện tự kiểm
tra bàn chân và 75% người bệnh không thường kiểm
tra giày dép trước khi mang để tránh gây ra các vết
thương cho bàn chân, 39,2% có lau khô kẽ giữa các
ngón chân sau khi rửa chân. Kết quả của Vivian SV tại
Brazil cao hơn so với kết quả của chúng tôi, với các
tỷ lệ lần lượt là 41,4%, 52,0% và 69,4% [15]. Nghiên
cứu của Elizabeth HR (2004) cho thấy tỷ lệ người
thường xuyên tự kiểm tra bàn chân đạt tới 66,0%;
kiểm tra giày dép đạt 40,0% [5]. Phần lớn bệnh nhân
ĐTĐ thường mắc các bệnh lý thần kinh gây mất cảm
giác (đặc biệt là cảm giác đau), các biến chứng bàn
chân ĐTĐ (thần kinh, mạch máu ngoại biên) thường
diễn biến âm thầm, kéo dài làm cho người bệnh có
tâm lý chủ quan, ít chú trọng đến việc dự phòng các
bệnh lý bàn chân đái tháo đường. Hơn nữa, có khá
nhiều người bệnh vẫn chưa nhận được các tư vấn,
hướng dẫn về việc tự kiểm tra và chăm sóc bàn chân
hằng ngày. Chính những điều này dẫn đến các bệnh
nhân bị biến chứng bàn chân ĐTĐ thường nhập viện
trong trường hợp nhiễm trùng rất nặng và khó lành
vết thương. Do đó, tự chăm sóc bàn chân là công
việc cần phải được thực hiện hàng ngày, có thể do
bệnh nhân hoặc người thân tiến hành. Đồng thời,
các cán bộ y tế, y bác sĩ cần tăng cường các hoạt
động tư vấn, hướng dẫn người bệnh thực hiện các
hành vi tự chăm sóc bàn chân.
Xếp loại hành vi tự chăm sóc Đái tháo đường
Kết quả đánh giá từng hành vi tự chăm sóc
cho thấy hành vi tự chăm sóc không tốt tập trung
ở 3 nhóm bao gồm hành vi tự kiểm soát nồng độ
Glucose máu (99,6%), tự chăm sóc bàn chân (66,1%)
và vận động thể lực (68,4%). Trong đánh giá tổng
thể về hành vi tự chăm sóc ĐTĐ, kết quả cho thấy
có 32,4% đối tượng thực hiện tốt hành vi tự chăm
sóc, nghĩa là hơn một nửa đối tượng mắc ĐTĐ type
2 trong nghiên cứu của chúng tôi chưa tự chăm sóc
tốt tình trạng bệnh của mình. Các đối tượng thực
hiện hành vi tự chăm sóc trung bình là 3,37 ngày
trong tuần. Chỉ có 1 đối tượng thực hiện tốt tất cả
hành vi tự chăm sóc trong tất cả các ngày trong tuần.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác biệt so
với nghiên cứu của Nazila N và cộng sự, khi tỷ lệ đối
tượng có hành vi tự chăm sóc đạt loại tốt chỉ chiếm
4,7%, có tới 63,6% người mắc ĐTĐ xếp loại hành vi
tự chăm sóc yếu, còn lại là xếp loại trung bình [8].
Sự khác biệt này có thể bị ảnh hưởng từ cỡ mẫu,
phương pháp đánh giá và trình độ học vấn khác
nhau giữa 2 nghiên cứu. Nghiên cứu của Nazila N.
và cộng sự đánh giá hành vi đạt loại tốt khi ĐTNC
thực hiện tốt từ 72% tổng số điểm trở lên, trong khi
nghiên cứu chúng tôi mốc đánh giá là thực hiện hành
vi trên 4 ngày tương đương từ 57% tổng số điểm trở
lên. Nghiên cứu tại Ấn Độ cho tỷ lệ thực hiện hành
vi tự chăm sóc xếp loại khá tốt/tốt là 54,67%, kết
quả cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi
(32,4%) [7]. Nhóm đối tượng nghiên cứu tại Ấn Độ
có trình độ học vấn và mức thu nhập cao hơn so với
nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể là một
trong những nguyên nhân khiến kết quả nghiên cứu
tại Ấn Độ tốt hơn so với nghiên cứu của chúng tôi.
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy mức độ tuân thủ các hành
vi tự chăm sóc ở bệnh nhân đái tháo đường chưa
cao, đây là một điều đáng lo ngại cho những người
làm công tác y tế. Nhận thức về tầm quan trọng và
62
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
hướng dẫn phương thức thực hiện các hành vi tự
chăm sóc bệnh đái tháo đường của người dân cần
được cải thiện hơn nữa thông qua các chương trình
truyền thông, giáo dục sức khỏe hoặc câu lạc bộ
bệnh nhân đái tháo đường. Bên cạnh đó, cần tăng
cường trang bị máy đo đường huyết cho tuyến y tế
cơ sở nhằm tăng sự sẵn có và khả năng tiếp cận dịch
vụ kiểm soát nồng độ Glucose máu tại cộng đồng
cũng như khuyến khích người bệnh chủ động theo
dõi nồng độ glucose máu của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Annamaria B, Patrizia DG et al (2013), Factors influ-
encing self-management in patients with type 2 diabetes:
A quantitative systematic review protocol, Journal of Ad-
vanced Nursing, 7(1), pp. 187-200.
2. Bộ Y tế Việt Nam (2013), Thông tư số 43/2013/TT-
BYT về Quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật
đối với hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
3. Bộ Y tế Việt Nam (2015), Báo cáo chung Tổng quan
ngành Y tế năm 2014 Tăng cường dự phòng và kiểm soát
bệnh không lây nhiễm, Nhà xuất bản Y học, tr. 158-161.
4. Vũ Mạnh Dương (2016), Đánh giá mô hình đội lưu
động cụm xã nhằm cải thiện hoạt động khám chữa bệnh
của trạm y tế tại 3 huyện của tỉnh Ninh Bình, Luận án Tiến
sĩ, Đại học Y tế Công cộng Hà Nội.
5. Elizabeth HR (2004), Diabetes self-care activities in
older adults and the ability of a nutrition and diabetes ed-
ucation program to effect change, Doctor of Philosophy’s
Thesis, University of Georgia, pp. 92-93.
6. Nguyễn Thị Hải và cộng sự (2015), Thực trạng tuân
thủ điều trị và một số yếu tố liên quan ở người bệnh đái
tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Phòng khám Nội tiết,
Bệnh viện Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh năm 2015, Luận văn
Thạc sĩ quản lý bệnh viện, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội.
7. Manjula GB, Jayarani P (2015), Self Efficacy and Self
Care Behaviour among Patients with Type 2 Diabetes Mel-
litus – A Cross Sectional Survey, International Journal of
Science and Research (IJSR), 4(12), pp. 2047-2051.
8. Nazila N, Mahnaz S, Shiva J et al (2017), Self-Care
and Related Factors in Patients with Type 2 Diabetes,
Asian J Biomed Pharmaceut Sci, 7(61), pp. 6-10.
9. Nyunt WS, Howteerakul N et al (2010), Self-efficacy,
self-care behaviors and glycemic control among type-2
diabetes patients attending two private clinics in Yangon,
Myanmar, Southeast Asian J Trop Med Public Health, 41,
pp. 943-951.
10. Sandra P (2009), Barriers to the self-care of type
2 diabetes from both patients’ and providers’ perspec-
tives: literature review, Journal of Nursing and Healthcare
of Chronic Illness, 1, pp. 4-19.
11. Saurabh RS, Prateek SS, Jegadeesh R (2013),
Role of self-care in management of diabetes mellitus,
Journal of Diabetes & Metabolic Disorders, 12:14.
12. Shyamsundar JR, Singh US, Kumar D (2014),
Self-Care Practices among Diabetic Patients in Anand
District of Gujarat, ISRN Family Medicine, 2014(2014),
13. Svartholm S, Nylander E (2010), Self care
activities of patients with Diabetes Mellitus Type 2 in Ho Chi
Minh City, University thesis, Department of Public Health
and Caring Scienes, Uppsala University Publications.
14. Tadele A, Tefera B et al (2014), Self care practice
and its predictors among adults with diabetes mellitus
on follow up at Nekemte hospital diabetic clinic, West
Ethiopia, World Journal of Medicine and Medical Science,
2(3), pp. 1-16.
15. Vivian SV, Manoel AS et al (2014), Self-care
among patients enrolled in a self-monitoring blood glu-
cose program, Rev Gaúcha Enferm, 35(4), pp. 42-8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_hanh_vi_tu_cham_soc_cua_benh_nhan_dai_thao_duong_ty.pdf