1. Có thể tiến hành nghiên cứu này với khoảng thời
gian dài hơn, quy mô rộng hơn để khảo sát tỷ lệ nhiễm
bệnh qua các năm, có được góc nhìn tổng quan trên
cả nước.
2. Thu thập thêm các yếu tố nguy cơ (quan hệ tình
dục, tiêm chích, xăm hình, phẫu thuật ) để xác định
sự tương quan giữa các yếu tố này với tỷ lệ dương tính
tác nhân nhiễm.
3. Những trường hợp âm tính với HBV bằng huyết
thanh học và dương tính với NAT nên được nghiên
cứu thêm và theo dõi các dấu ấn huyết thanh (HBsAg,
anti-HBc, anti-HBs, HBe, và anti-HBe) và HBV-DNA
để xác định tình trạng nhiễm (Giai đoạn cửa sổ, tiềm
ẩn, mạn hay cấp, đang hồi phục).
4. Việc ứng dụng kỹ thuật NAT giúp đảm bảo an toàn
truyền máu, phát hiện thêm các trường hợp dương
tính và huyết thanh học không phát hiện được, nhờ
đó giảm thiểu nguy cơ lây truyền HBV, HCV, HIV qua
đường truyền máu. Vậy nên, việc triển khai kỹ thuật
NAT trong quy trình sàng lọc máu hiến là cần thiết tại
các ngân hàng máu lớn ở Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát hiệu quả của xét nghiệm Nucleic Acid Testing (NAT) trong sàng lọc người hiến máu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu
1Khoa Y Đại học Quốc gia TPHCM
2Bệnh viện Truyền máu Huyết học
TPHCM
Liên hệ
Tô Đông Kha, Khoa Y Đại học Quốc gia
TPHCM
Email: khadong@gmail.com
Lịch sử
Ngày nhận: 2020-08-24
Ngày chấp nhận: 2020-10-28
Ngày đăng: 2020-11-17
DOI :
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Khảo sát hiệu quả của xét nghiệmNucleic Acid Testing (NAT) trong
sàng lọc người hiếnmáu
Tô Đông Kha1,*
, Lâm Thị Ngọc Trâm1, Nguyễn Phương Anh1, Hồ Tấn Trung1, Lò Thị Thảo Nguyên1,
Cai Thị Thu Ngân2, Phù Chí Dũng2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Tổngquan. Để đảm bảo an toàn truyềnmáu, từ tháng 6/2015, kỹ thuật Nucleic Acid Testing (NAT)
đã được áp dụng trong quy trình sàng lọc máu tại một số khu vực ở Việt Nam. Mục tiêu của đề tài
chúng tôi là khảo sát hiệu quả của kỹ thuật này, nhằm đưa ra những bằng chứng cụ thể, cập nhật,
làm cơ sở đẩy mạnh triển khai áp dụng kỹ thuật NAT trong sàng lọc người hiến máu. Đối tượng
và phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, thực hiện trên 412.705 mẫu máu
hiến thỏa tiêu chẩn chọn mẫu tại BV.TMHH từ ngày 01/01/2017 đến ngày 01/01/2019. Tất cả mẫu
máu thu nhận đươc sàng lọc HBV, HCV, HIV bằng kỹ thuật huyết thanh học, sau đó những mẫu
cho kết quả âm tính sẽ tiếp tục được sàng lọc bằng kỹ thuật NAT. Kết quả xét nghiệm và thông tin
người hiến máu sẽ đươc lưu trữ trên cơ sở dữ liệu của BV. TMHH. Kết quả và bàn luận. Nhờ ứng
dụng sàng lọc NAT, nghiên cứu chúng tôi đã phát hiện thêm 369 mẫu máu dương tính với vật liệu
di truyền của virus mà huyết thanh học đã không phát hiện được, trong đó: 352 mẫu phản ứng
với HBV-DNA (0,0871%), 10 mẫu phản ứng với HCV-RNA (0,0025%) và 6mẫu phản ứng với HIV-RNA
(0,0017%). Do đó, việc ứng dụng NAT vào quy trình sàng lọc máu là cần thiết để nâng cao an toàn
truyền máu. Về đặc điểm của các trường hợp dương tính với các tác nhân nhiễm, chúng tôi ghi
nhận tỷ lệ dương tính với HBV, HIV ở nam giới cao hơn nữ giới, kể cả khi xét nghiệm bằng huyết
thanh học hay bằng kỹ thuật NAT (có ý nghĩa thống kê, P<0,05); tỷ lệ dương tính với 3 tác nhân này
ở những người hiến máu lần đầu cao hơn so với những người hiến máu lặp lại, có ý nghĩa thống
kê khi sàng lọc huyết thanh học (P0,05).
Kết luận. Việc ứng dụng kỹ thuật NAT vào quy trình sàng lọc máu là cần thiết và hiệu quả, giúp
cải thiện an toàn truyền máu.
Từ khoá: HBV, HCV, HIV, Huyết thanh học, Nucleic acid testing, Sàng lọc máu, người hiến máu
ĐẶT VẤNĐỀ
Mỗi năm có hơn 112,5 triệu mẫu máu hiến được
thu nhận trên toàn thế giới. Năm 2016, Việt Nam
thu nhận khoảng 1,2 triệu đơn vị máu1,2. Bên cạnh
những lợi ích không thể bàn cãi, truyềnmáu vẫn tiềm
ẩn những nguy cơ lây truyền bệnh nhiễm cho người
bệnh. Do đó, việc loại trừ các tác nhân truyền nhiễm
ở những đơn vị máu hiến là vô cùng quan trọng và
thiết yếu. Để đảm bảo an toàn truyền máu, các kỹ
thuật sàng lọc huyết thanh học (HTH) đã được triển
khai từ những năm 80 của thế kỷ trước 3. Cuối những
năm 90, kỹ thuật NAT đã được phát triển và ứng dụng
ở các nước tiên tiến, khởi đầu tại Đức vào năm 1997
trong sàng lọc HCV, đến năm 2002, sàng lọc HBV,
HCV, HIV bằng kỹ thuật NAT đã được Cục Quản
Lý Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ (US Food and
Drug Administration - FDA) công nhận và ứng dụng
rộng rãi4–6. Nucleic Acid Testing (NAT) là một kỹ
thuật sinh học phân tử phát hiện vật liệu di truyền của
virus, hiện nay thường dùng để phát hiện HBV-DNA,
HCV-RNA, HIV-RNA. Dựa trên nguyên tắc khuếch
đại trình tựmục tiêu của acid ribonucleic hay acid de-
oxyribonucleic, kỹ thuật này giúp phát hiện sớm tác
nhân gây bệnh, rút ngắn giai đoạn cửa sổ huyết thanh
so với các xét nghiệm khác. Hơn nữa, kỹ thuật NAT
còn tìm ra những trường hợp nhiễm mà xét nghiệm
huyết thanh học không phát hiện được. Nhận thấy
được tầm quan trọng của NAT, nhiều quốc gia đã
áp dụng kỹ thuật NAT trong sàng lọc máu hiến bên
cạnh xét nghiệmhuyết thanh học nhằmgiảm thiểu tối
đa nguy cơ lây truyền bệnh nhiễm qua đường truyền
máu. Tại Việt Nam, theo thông tư số 26/2013/TT-
BYT, kỹ thuật NAT đã được triển khai thường quy
tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế từ năm
2015 và tại Viện Truyền máu - Huyết học CầnThơ từ
năm20167. ệnh viện TruyềnmáuHuyết học TPHCM
(BV.TMHH) đã chính thức sử dụng kỹ thuật NAT
trong sàng lọc HBV, HCV, HIV trên các đơn vị máu
hiến từ tháng 6/20152. Dựa trên các mẫu máu hiến
của Ngân Hàng Máu BV.TMHH, chúng tôi thực hiện
Trích dẫn bài báo này: Kha T D, Trâm L T N, Anh N P, Trung H T, Nguyên L T T, Ngân C T T, Dũng P C. Khảo
sát hiệuquả của xét nghiệmNucleicAcid Testing (NAT) trong sàng lọc người hiếnmáu. Sci. Tech. Dev.
J. - Health Sci.; 1(1):35-43.
35
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
đề tài này để khảo sát hiệu quả của kỹ thuậtNAT so với
xét nghiệm huyết thanh trong sàng lọc HBV, HCV và
HIV, nhằm đưa ra những bằng chứng cụ thể và thuyết
phục, làm cơ sở để đẩy mạnh triển khai áp dụng kỹ
thuật NAT trong sàng lọc người hiến máu.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những người hiến máu tại ngân hàng máu BV.
TMHH trong khoảng thời gian từ 01/01/2017 đến
01/01/2019. Tiêu chuẩn chọn mẫu: Người hiến máu
thỏa thông tư số 26/2013/TT-BYT về hướng dẫn hoạt
động truyềnmáu. Chọnmẫu theo phương pháp chọn
mẫu thuận tiện. Ước tính cỡ mẫu dựa trên công thức:
với n: cỡ mẫu; P: chỉ số tiên đoán dương (P=0,5);
a : ngưỡng sai lầm loại I, tương ứng với KTC 95%,
a=0,05; d: sai số chuẩn, d=0,01; Z: Z score tương ứng
với mức ý nghĩa thống kê.
N =
Z21 a=2P(1 P)
d2
Với những tham số trên, cỡ mẫu chúng tôi tính được
cho nghiên cứu này là n= 9.604 mẫu. Thực tế, nghiên
cứu của chúng tôi thu thập toàn bộ số mẫu trong
thời gian và địa điểm nghiên cứu đã trình bày, tương
ứng 412.705 mẫu, lớn hơn so với 9.604 mẫu. Do đó,
nghiên cứu của chúng tôi đủ số lượng mẫumang tính
đại diện.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kê theo mô hình mô tả hàng
loạt ca.
Vật liệu, trang thiết bị và thuốc thử gồm có: 5ml máu
dông và 4ml máu chống đông EDTA, bộ sinh phẩm
xét nghiệm huyết thanh học, cụ thể: (1) Nhóm ELISA
gồm có Murex HBsAg Ver3, Murex HCV Ag/Ab
Combination, Murex HIV Ag/Ab Combination trên
hệ thống máy Etimax (2) Nhóm hóa phát quang bao
gồm HBsAg Qualitative II, Anti-HCV, HIV Ag/Ab
Combo trên hệ thống máy Architect (3) Nhóm điện
hóa phát quang gồm có HBsAg II, Anti HCV II, HIV
combi PT trên hệ thốngmáy Cobas 8000. Xét nghiệm
NAT sử dụng bộ kít Cobas® MPX Test trên hệ thống
máy Cobas 6800. Quy trình xét nghiệm được thực
hiện như sau: Bước đầu, mẫu máu đã ly tâm tách
huyết tương được sử dụng sàng lọc HBV (HBsAg)
bằng kỹ thuật huyết thanh học (xét nghiệmmiễn dịch
ELISA, xét nghiệm miễn dịch vi hạt hóa phát quang,
xét nghiệmmiễn dịch điện hóa phát quang). Cácmẫu
được phân tích cùng với các chứng dương và chứng
âm của bộ kít. Nếu kết quả dương tính hay nghi ngờ
với HBsAg, các mẫu đó sẽ được loại bỏ. Các mẫu có
kết quả âm tính sẽ tiếp tục sàng lọc HIV, HCV để tiếp
tục loại bỏ cácmẫudương tính hay nghi ngờ. Cácmẫu
có kết quả âm tính trong sàng lọc huyết thanh học sẽ
được sàng lọc NAT trên hệ thống máy Cobas 6800.
Huyết thanh từ 6 mẫu máu được phối trộn tạo thành
1 mẫu gộp 6 (pool 6). Các mẫu gộp 6 dương tính sẽ
được thực hiện lại toàn bộ quy trình trên với mẫu đơn
nhằm xác định mẫu máu bị nhiễm. Các thông tin về
người hiến máu (Mã số mẫu máu, mã số người hiến,
giới tính, năm sinh, số lần hiến máu trước đây), kết
quả xét nghiệm huyết thanh, kết quả xét nghiệmNAT
đều được ghi nhận và thu thập từ cơ sở dữ liệu của
BV. TMHH. Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm
R 3.6.0. Phương pháp kiểm định là Chi-square với giá
trị P có ý nghĩa thống kê là P<0,05. Tỷ lệ dương tính
của xét nghiệm được tính theo công thức:
Tỷ lệ dương tính = (Số mẫu dương tính)/(Số mẫu làm
xét nghiệm)
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tỷ lệ phát hiện HBV, HCV, HIV bằng xét
nghiệm huyết thanh học
Khi tiến hành xét nghiệm sàng lọc huyết thanh học
trên 412.705 mẫu máu, chúng tôi ghi nhận: Tỷ lệ
dương tính với HBV là cao nhất, chiếm 1,56%, Tỷ lệ
này với HCV là 0,23% và với HIV là 0,19%, thấp nhất
trong 3 virus.
So sánh với các nghiên cứu thực hiện trong nước và
một số nước Châu Á (Bảng 1), đa số các kết quả của
chúng tôi là thấp hơn, có thể do ý thức người dân được
nâng cao, khâu sàng lọc máu từ bước đầu được cải
thiện và việc tiêm phòng HBV, HCV hiệu quả. Khi
so sánh với các nc ở Mỹ, Châu Âu, tỷ lệ tương ứng ở
các nước này là thấp hơn đáng kể so với kết quả của
chúng tôi.
Tỷ lệ phát hiện HBV, HCV, HIV bằng xét
nghiệmNAT
Trong 403.974 mẫu máu âm tính với kỹ thuật huyết
thanh học, chúng tôi tiếp tục sàng lọc bằng kỹ thuật
NAT và phát hiện thêm 352 mẫu dương tính HBV,
chiếm 0,0871%, 10 mẫu dương tính với HCV, chiếm
0,0025% và 7 mẫu dương với HIV chiếm 0,0017%.
Như vậy, kỹ thuật NAT đã giúp phát hiện được thêm
369mẫunhiễmmàHTHkhông phát hiện được, là bởi
vì NAT có thể phát hiện được mẫu nhiễm trong giai
đoạn cửa sổ huyết thanh cũng như các mẫu nhiễm
thể tiềm ẩn và đột biến. Giai đoạn cửa sổ huyết thanh
học – là thời gian từ khi nhiễm virus đến ngày đầu
tiên phát hiện kháng nguyên dương tính trong máu.
So với xét nghiệm huyết thanh học, kỹ thuật NAT đã
36
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
Bảng 1: So sánh tỷ lệ dương tính HBV, HCV, HIV bằng xét nghiệm huyết thanh học với các nghiên cứu khác.
Tác giả Năm Quốc Gia HBV HCV HIV
Nantachit 8 2007 Thái Lan 5,60% 0,7% 0,3%
P. Pallavi 9 2017 Ấn Độ 0,52% 0,31% 0,22%
Viện HHTMTW 10 2015 Hà Nội 4,4% 0,58% 0,11%
Phạm Lê Nhật Minh 11 2016 TPHCM 1,58% 0,5% 0,31%
S. Laperche 12 2017 Pháp 0,009% 0,007% 0,001%
Stramer 13 2017 Mỹ 0,005% 0,014% 0,001%
Chúng tôi 2017 Việt Nam 1,56% 0,23% 0,19%
giúp rút ngắn thời gian phát hiện virus HBV từ 35 - 44
ngày xuống 20 - 22 ngày, virus HCV từ 70 ngày xuống
còn 3 - 5 ngày và virus HIV từ 17 - 22 ngày xuống còn
5 - 6 ngày14,15. Nhiễm viêm gan B tiềm ẩn (Occult
Hepatitis B Infection – OBI) được định nghĩa là tình
trạng hiện diện HBV-DNA kéo dài trong nhu mô gan
(một vài trường hợp là trong huyết thanh) ở những cá
thể cóHBsAg (-). VirusHBV tiềm ẩn biểu hiệnDNA-
HBV trong máu với nồng độ rất thấp. Những cá thể
nhiễm OBI qua thời gian có thể không thể phát hiện
được anti-HBc và anti-HBe và trong một số trường
hợp, HBV-DNA là marker duy nhất. Tác giả Yang và
cộng sự (Trung Quốc, 2013) đã phát hiện 54 trường
hợp dương tính với NAT và âm tính với huyết thanh
học, trong đó 33 trường hợp nhiễm HBV tiềm ẩn16.
Kĩ thuật NAT còn có khả năng phát hiện các trường
hợp nhiễm HCV, HIV đột biến. Nhờ nghiên cứu tạo
ra các đoạnmồi đặc hiệu và cập nhật liên tục các trình
tự mồi, kĩ thuật NAT có khả năng phát hiện ra HCV,
HIV thể đột biến. HCV có đặc tính rất riêng là không
đồng nhất di truyền trong phạmvi loài và phân nhóm.
HCV có sáu kiểu gen từ 1 đến 6 và trên 100 phân
nhóm. Kiểu gen 1 và phân nhóm 1b là biến thể phổ
biến nhất trên thế giới. Các cá thể bị nhiễm HCV lưu
hành dưới dạngmột loài giả (quasispecies) trình tự bộ
gen thường khác biệt 1-2 % so với bộ gen gốc. Những
đột biến như vậy cho phép HCV trốn tránh được hệ
thống miễn dịch của kí chủ và nhân đôi hiệu quả 17.
Đối với HIV, chủng HIV-1 chia thành 3 nhóm: M,
O, N. Trên 90% ca nhiễm là HIV-1 nhóm M, trong
nhóm M có trên 9 phân nhóm: A, B, C, D, F, G, H,
J, K. Đột biến ở HIV thường xảy ra khi hai virus ở
hai phân nhóm khác nhau cùng nhiễm trong một tế
bào của kí chủ, và vật liệu di truyền được tái tổ hợp
tạo một thể đột biến mới17. Nhờ việc phát hiện được
thêm các mẫu máu phản ứng với HBV, HCV, HIV,
nhiều người nhận máu đã được bảo vệ khỏi nguy cơ
lây truyền bệnh. Tại BV. TMHH, một mẫu máu hiến
có thể được sản xuất thành ít nhất 3 chế phẩm máu:
hồng cầu, huyết tương tươi đông lạnh và tiểu cầu. Khi
ứng dụng kỹ thuật NAT, bằng việc phát hiện được
thêm 369 mẫu máu phản ứng với HBV, HCV, HIV,
chúng tôi đã tránh được nguy cơ lây nhiễm bệnh cho
hơn 1.107 (369 x 3) trường hợpnhậnmáu. Dođó, việc
ứng dụng kỹ thuật NAT vào quy trình sàng lọc máu là
vô cùng cần thiết, giúp đảm bảo an toàn truyền máu,
giảm thiểu nguy cơ lây truyền bệnh cho người nhận
máu và giảm thiểu gánh nặng y tế đối với việc điều trị
bệnh.
Khi so sánh về tỷ lệ mẫu nhiễm HBV dương tính với
NAT và âm tính với HTH (Bảng 2), kết quả của chúng
tôi là thấp hơn không nhiều so với cácNC trong nước.
So sánh với các NC nước ngoài, kết quả của chúng tôi
là cao hơn, thậm chí cao hơn rất nhiều khi so với các
NC ở Mỹ, Pháp, được giải thích bởi nước ta nằm ở
vùng có tỷ lệ lưu hành HBV cao.
Bàn về tỉ lệ tương ứng đối với HCV (Bảng 3), kết quả
của chúng tôi là thấp hơn so nghiên cứu tại Huế, Ấn
Độ và Parkistan, tuy nhiên lại cao hơn so với nghiên
cứu tại Hà Nội và Thái Lan, Trung Quốc, Ý và Pháp.
Lý giải cho sự khác biệt này, có thể do tỷ lệ lưu hành
HCV của nước ta ở mức trung bình.
Bàn về sàng lọcHIV (Bảng 4), kết quả của chúng tôi là
cao hơn so với các nghiên cứu khác. Sự khác biệt với
NC tại Ấn Độ là không nhiều, trong khi đó so với các
NC thực hiện tại Trung Quốc, Thái Lan thì sự khác
biệt lớn hơn, và đặc biệt đáng kể nếu so với NC thực
hiện ở Mỹ, Pháp và Parkistan.
Đặc điểm các trường hợp dương tính với
HBV, HCV, HIV
Về giới tính
Khi sàng lọc HTH, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ dương
tính với 3 loại virus ở nam đều cao hơn ở nữ, có
ý nghĩa thống kê đối với HBV và HIV, không có ý
nghĩa thống kê đối với virus HCV (Bảng 5). Kết quả
này tương đồng với tác giả Đoàn Thành 23. Khi sàng
lọc với NAT, giống như khi xét nghiệm HTH, chúng
37
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
Bảng 2: So sánh tỷ lệ phản ứng với HBV-DNA khi xét nghiệmNAT.
Tác giả Năm Quốc gia Cỡ mẫu Tỷ lệ HBV-DNA (thể hiện theo %
và theo tỉ lệ so với 1)
Stramer 13 2011 Mỹ 3.694.858 0,0002% 1:410.540
S. Laperche 12 2017 Pháp 16.500.000 0,0003% 1:383.720
Saifullah K. Niazi 18 2015 Pakistan 54.438 0,042% 1:2367
C. Kabita 19 2016 Ấn Độ 193.167 0,073% 1:1370
Xianlin Ye 20 2013 Trung Quốc 307.740 0,031% 1:3239
Soisaang Ph 21 2009 Thái Lan 486.676 0,036% 1:2800
NguyễnThị T. Dung 22 2016 Hà Nội 395.849 0,0958% 1:1044
ĐoànThành 23 2016 Huế 27.483 0,109% 1:916
Chúng tôi 2019 TPHCM 403.794 0,087% 1:1148
Bảng 3: So sánh tỷ lệ phản ứng với HCV-RNA khi xét nghiệmNAT.
Tác giả Năm Quốc gia Cỡ mẫu Tỷ lệ HCV-RNA
Claudio Velati 24 2008 Ý 10.776.288 0,00025% 1:400.000
S. Laperche 12 2017 Pháp 40.000.000 0,00004% 1:2.666.666
Saifullah K. Niazi 18 2015 Pakistan 54.438 0,0073% 1:13.609
C. Kabita 19 2016 Ấn Độ 193.167 0,0372% 1:2683
Xianlin Ye 20 2013 Trung Quốc 307.740 0,0003% 1:307.740
Soisaang Ph 21 2009 Thái Lan 486.676 0,0002% 1:486.676
NguyễnThị T. Dung 22 2016 Hà Nội 395.849 0,0008% 1:131.949
ĐoànThành 23 2016 Huế 27.483 0,0073% 1:13.742
Chúng tôi 2019 TPHCM 403.794 0,0025% 1:40.397
Bảng 4: So sánh tỷ lệ phản ứng với HIV-RNA khi xét nghiệmNAT.
Tác giả Năm Quốc gia Cỡ mẫu Tỷ lệ HIV-RNA
Stramer 13 2011 Mỹ 3.694.858 0,00005% 1:1.847.429
S. Laperche 12 2017 Pháp 40.000.000 0,00006% 1:1.818.182
Saifullah K. Niazi 18 2015 Pakistan 54.438 0%
C. Kabita 19 2016 Ấn Độ 193.167 0,0010% 1:96.584
Xianlin Ye 20 2013 Trung Quốc 307.740 0,0003% 1:307.740
Soisaang Ph 21 2009 Thái Lan 486.676 0,0010% 1:97.000
NguyễnThị T. Dung 22 2016 Hà Nội 395.849 0,0008% 1:131.949
ĐoànThành 23 2016 Huế 27.483 0% 1:142.857
Chúng tôi 2019 Việt Nam 403.794 0,0017% 1:57.711
38
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
Bảng 5: Đặc điểm về giới tính của các trường hợp dương tính với HBV, HCV, HIV
XN HBV (+)
N (%)
HCV (+)
N (%)
HIV (+)
N (%)
HTH Nam 3.847
(1,74%)*
523
(0,24%)^
552
(0,25%)*
Nữ 2.589
(1,35%)*
410
(0,21%)^
220
(0,11%)*
NAT Nam 227
(0,11%)*
2
(0,0009%)
7
(0,0032%)
Nữ 125
(0,07%)*
8
(0,0042%)
0
(0,0%)
Chú thích: *P<,001 ^P=0,11 P=0,035 P=0,013
tôi ghi nhận tỷ lệ dương tính ở nam cao hơn nữ có
ý nghĩa thống kê đối với virus HBV và HIV, tương
đồng với kết quả của Đoàn Thành 23 và Claudio Ve-
lati 24. Riêng với virus HCV, tỉ lệ này ngược lại ở 2
giới, và có ý nghĩa thống kê với P=0,035. Kết quả của
chúng tôi ngược lại so với kết quả của Claudio Velati
(Ý, 2008)24. Tóm lại, nghiên cứu chúng tôi đã chỉ ra
rằng tỉ lệ nhiễm virus HBV và HIV ở nam cao hơn nữ
có ý nghĩa thống kê, cho dù sàng lọc bằng xét nghiệm
HTH hay xét nghiệm NAT. Điều này có thể được giải
thích bởi nam giới tiếp xúc nhiều hơn với các yếu tố
nguy cơ nhiễm như tiêm chích, xăm trổ, quan hệ tình
dục đồng tính nam Bàn về sự khác biệt trong tỷ lệ
dương tính HCV, nguyên nhân có thể là nhóm đối
tượng nghiên cứu còn khu trú và chưa đại diện được
cho cộng đồng chung.
Về số lần hiếnmáu
Khi sàng lọc bằng xét nghiệm HTH, tỷ lệ dương tính
với 3 loại virus ở nhóm hiến máu lần đầu cao hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm hiến máu lặp lại
(Bảng 6). Kết quả này tương đồng với NC của tác giả
Đoàn Thành23. Các mẫu âm tính với HTH tiếp tục
được sàng lọc với NAT, cho thấy kết quả về sự khác
biệt 2 nhóm ngược lại so với kết quả của HTH, tuy
nhiên không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này là tương
đồng với NC của Đoàn Thành 23 và ShimianZou25,
tuy nhiên ngược lại với các NC của Claudio Velati 24.
Điểm chung của tất cả các kết quả trên là đều không
có ý nghĩa thống kê. Do đó chưa thể đưa ra một kết
luận mang tính đại diện và phổ quát. Tuy nhiên kết
quả của chúng tôi cũng phần nào thể hiện vai trò của
NAT trong việc phát hiện virus ở nhóm hiến máu lặp
lạimà huyết thanh học đã không phát hiện được. Tóm
lại, dựa vào các kết quả có ý nghĩa thống kê, cụ thể là
tỷ lệ dương tính ở nhómhiếnmáu lần đầu cao hơn lặp
lại khi xét nghiệm bằng HTH, có thể nhận thấy tầm
quan trọng của những người hiếnmáu lặp lại, cả về số
lượng, đóng góp đa số những mẫu máu hiến, lẫn chất
lượng, đóng góp những mẫu máu an toàn, ít nguy cơ
lây truyền bệnh.
Về độ tuổi
Khi tiến hành sàng lọc với HTH, chúng tôi nhận thấy
tỷ lệ dương tính với HBV ở độ tuổi từ 18 đến 25 tuổi
là cao nhất (Hình 1), chiếm 1,91%, tỷ lệ dương tính
với HCV ở độ tuổi 36 đến 45 tuổi là cao nhất, chiếm
0,38%, Tỷ lệ dương tính với HIV ở độ tuổi 26 đến
35 tuổi là cao nhất, chiếm 0,26%. Kết quả của chúng
tôi tương đương với các kq của Phan Nguyễn Thanh
Vân26 và Claudio Velati27.
Trong số các mẫu máu âm tính với HTH và dương
tính với NAT, chúng tôi ghi nhận độ tuổi trung bình
đối với HBV, HCV, HIV lần lượt là 39,64; 34 và 24
(Bảng 7). So với 2 tác giả Laperche12 và Vetali24, độ
tuổi dương tính với HBV của chúng tôi cao hơn, độ
tuổi với HCV tương đương còn với HIV thì thấp hơn.
HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu thực hiện trong 2 năm tại BV. TMHH,
mặc dù thu thậpđược số lượngmẫu lớn, tuy nhiên, xét
về thời gian và quy mô thực hiện, nghiên cứu này vẫn
còn hạn chế so với các nghiên cứu nước ngoài, thực
hiện trong khoảng 10-15 năm, theo dõi tỷ lệ dương
tính qua các năm, trên quy mô cả nước. Nghiên cứu
này chỉ thực hiện kỹ thuật NAT trên mẫu âm tính với
sàng lọc huyết thanh học, do đó không thể so sánh
trực quan giữa 2 phương pháp, cũng như phát hiện
các trường hợp dương giả hay âmgiả vớiNAT.Nghiên
cứu chúng tôi không tiến hành theo dõi bệnhnhân, do
đó không xác định được nguyên nhân của các trường
hợp dương tính với NAT và âm tính với huyết thanh
học.
Dựa trên những điểm hạn chế trên, chúng tôi đưa ra
một số kiến nghị:
39
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
Bảng 6: Đặc điểm về số lần hiếnmáu của các trường hợp dương tính với HBV, HCV, HIV
HBV (+) HCV (+) HIV (+)
HTH Lần đầu 5.201
(4,57%)*
425
(0,37%)*
318
(0,28%)*
Lặp lại 1.235
(0,41%)*
508
(0,17%)*
454
(0,15%)*
NAT Lần đầu 82
(0,08%)^
2
(0,0018%)
1
(0,0009%)
Lặp lại 270
(0,09%)^
8
(0,0027%)
6
(0,0020%)
Chú thích: *P<,001 ^P=0,18 P=0,64 P=0,47
Hình 1: Biểu đồ phân bố độ tuổi của mẫu máu dương tính với HBV, HCV, HIV khi xét nghiệm huyết thanh học.
Bảng 7: Đặc điểm về độ tuổi của các trường hợp phản ứng với HBV, HCV, HIV phát hiện bằng xét nghiệmNAT.
Tuổi trung bình HBV-DNA (+) HCV-RNA (+) HIV-RNA (+)
Chúng tôi 39,64 34 24
Laperche (Pháp, 2017) 12 28,7 34,5 40,6
Claudio Vetali (Ý, 2008) 24 32 36 35,5
1. Có thể tiến hành nghiên cứu này với khoảng thời
gian dài hơn, quymô rộng hơn để khảo sát tỷ lệ nhiễm
bệnh qua các năm, có được góc nhìn tổng quan trên
cả nước.
2. Thu thập thêm các yếu tố nguy cơ (quan hệ tình
dục, tiêm chích, xăm hình, phẫu thuật) để xác định
sự tương quan giữa các yếu tố này với tỷ lệ dương tính
tác nhân nhiễm.
3. Những trường hợp âm tính với HBV bằng huyết
thanh học và dương tính với NAT nên được nghiên
cứu thêm và theo dõi các dấu ấn huyết thanh (HBsAg,
anti-HBc, anti-HBs, HBe, và anti-HBe) vàHBV-DNA
để xác định tình trạng nhiễm (Giai đoạn cửa sổ, tiềm
ẩn, mạn hay cấp, đang hồi phục).
4. Việc ứng dụng kỹ thuật NAT giúp đảm bảo an toàn
truyền máu, phát hiện thêm các trường hợp dương
tính và huyết thanh học không phát hiện được, nhờ
đó giảm thiểu nguy cơ lây truyềnHBV,HCV,HIV qua
đường truyền máu. Vậy nên, việc triển khai kỹ thuật
NAT trong quy trình sàng lọcmáu hiến là cần thiết tại
các ngân hàng máu lớn ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thực hiện trên 412.705 mẫu máu
hiến thỏa tiêu chẩn chọn mẫu tại BV.TMHH từ ngày
01/01/2017 đến ngày 01/01/2019, chúng tôi đưa ra kết
luận như sau: Tỷ lệ dương tính của HBV, HCV, HIV
với xét nghiệm huyết thanh học lần lượt là 1,56%,
0,23%, 0,19%. Các mẫu âm tính với xét nghiệm HTH
tiếp tục được sàng lọc NAT, phát hiện thêm 369 mẫu
máu phản ứng, trong đó: tỷ lệ phản ứng với HBV-
DNA là 0,0871%, HCV-RNA là 0,0025% vàHIV-RNA
là 0,0017%. Do đó, việc ứng dụng NAT vào quy trình
sàng lọcmáu là cần thiết và hiệu quả, giúp nâng cao an
40
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
toàn truyền máu. Về đặc điểm các trường hợp dương
tính với HBV, HCV, HIV: tỷ lệ dương tính với HBV,
HIV ở nam giới cao hơn nữ giới, có ý nghĩa thống kê
kể cả khi xét nghiệm bằng huyết thanh học hay bằng
kỹ thuật NAT; tỷ lệ dương tính với HBV, HCV, HIV ở
những người hiến máu lần đầu cao hơn so với những
người hiến máu lặp lại, có ý nghĩa thống kê khi sàng
lọc huyết thanh học (P<,001); tuổi trung bình của các
trường hợp dương với NAT và âm với HTH đối với
HBV, HCV, HIV lần lượt là 39,64; 34 và 24.
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Các tác giả không có xung đột lợi ích nào trong bài
báo.
ĐẠOĐỨC NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đã được phê duyệt về các vấn đề đạo đức,
chấp thuận số 484/TMHH-HĐĐĐ củaHội đồngĐạo
đức trong nghiên cứu y sinh học.
LỜI CẢM TẠ
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn quý thầy
cô, bác sĩ, nhân viên tại Bệnh viện Truyền máu Huyết
học TP. HCM đã tạo điều kiện để nhóm hoàn thành
đề tài; cảm ơn các thầy cô Khoa Y Đại học Quốc gia
TPHCM đã góp ý, chỉnh sửa, hoàn thiện bài báo cáo.
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Cai Thị Thu Ngân và Phú Chí Dũng đã giới thiệu đề
tài, hướng dẫn, chỉnh sửa, góp ý cho nội dung của bài
báo.
Lâm Thị Ngọc Trâm, Nguyễn Phương Anh, Hồ Tấn
Trung, Lò Thị Thảo Nguyên đã đóng góp nội dung,
hoàn thành các nhiệm vụ phân công để hoàn thiện
bài báo.
TôĐôngKha là nhóm trưởng, chịu trách nhiệm chính
phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đăng báo.
DANHMỤC VIẾT TẮT
Tiếng Việt
BV. TMHH : Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học (TP
HCM)
Viện TMHHTW : Viện Truyền Máu – Huyết học
Trung Ương
Tiếng Anh
AIDS : Acquired ImmuneDeficiency Symdrome (Hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)
Anti HBs : Anti Hepatitis B surface (Kháng thể kháng
kháng nguyên bề mặt virus viêm gan B)
Anti HBc : Anti Hepatitis B core (Kháng thể kháng
kháng nguyên lõi virus viêm gan B)
Anti HBe : Anti Hepatitis B envelope (Kháng thể
kháng kháng nguyên vỏ virus viêm gan B)
CMIA : Chemiluminescense ImmunoAssay (Kỹ thuật
vi hạt hóa phát quang)
CDC : Centers for Disease Control and Prevention
(Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa
Kỳ)
DNA : Deoxyribonucleic Acid
ELISA : Enzyme Linked Immunosorben Assay (Kỹ
thuật miễn dịch gắn men)
ECLIA : Electrochemiluminescense Immunoassay
(Kỹ thuật điện hóa phát quang)
FDA : Food and Drug Administration (Cục quản lý
Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ)
HBcAg : Hepatitis B core Antigen (Kháng nguyên lõi
virus viêm gan B)
HBsAg : Hepatitis B surface Antigen (Kháng nguyên
bề mặt virus viêm gan B)
HBeAg : Hepatitis B envelope Antigen (Kháng
nguyên vỏ virus viêm gan B)
HBV : Hepatitis B virus (Virus viêm gan B)
HVC : Hepatitis V virus (Virus viêm gan C)
NAT : Nucleic Acid Amplification Testing or Nucleic
Acid Testing (Xét nghiệm khuếch đại vaatk liệu di
truyền)
PCR : Polymerase Chain Reaction (Phản ứng chuỗi
trùng hợp)
RNA : Acid Ribonucleic
TMA : Transcription Mediated Amplification (Kỹ
thuật khuếch đại qua trung gian phiên mã)
WHO : World Health Organization (Tổ chức Y tế thế
giới)
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Hiếu C. Năm 2016 cả nước đã tiếp nhận được 1,2
triệu đơn vị máu. Vietnammoi. 2016;Available from:
duoc-12-trieu-don-vi-mau-14337.html.
2. Vân PNT, et al. Bước đầu triển khai kỹ thuật khuếch đại acid
nucleic (KT NAT) trong sàng lọc máu để phát hiện HIV, HCV
và HBV tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học. Hội nghị truyền
máu huyết học phía Nam lần 3. Hội nghị truyền máu huyết
học phía Nam lần 3. 2015;19(4):373–376.
3. Worldwide ATaCT. Highlights of Transfusion Medicine
History: Advancing Transfusion and Cellular Therapies
Worldwide;Available from:
highlights.aspx.
4. Hourfar MK, Jork C, Schottstedt V, Weber-Schehl M, Brixner
V, Busch MP, et al. Experience of German Red Cross blood
donor services with nucleic acid testing: results of screening
more than 30million blood donations for human immunode-
ficiency virus-1, hepatitis C virus, and hepatitis B virus. Trans-
fusion. 2008;48(8):1558–1566. PMID: 18466173. Available
from: https://doi.org/10.1111/j.1537-2995.2008.01718.x.
5. WHO. Screening donated blood for transfusion-transmissible
infections: recommendations: World Health Organization.
2010;.
6. WHO. Blood safety and availability;Available from: http://
www.who.int/mediacentre/factsheets/fs279/en/.
7. Bộ Y tế. Thông tư số 26/2013/TT-BYT - Hướng dẫn hoạt động
truyền máu. 2013;.
41
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):35-43
8. Nantachit N, Thaikruea L, Thongsawat S, Leetrakool N,
Fongsatikul L, Sompan P, et al. Evaluation of a multiplex hu-
man immunodeficiency virus-1, hepatitis C virus, and hepati-
tis B virus nucleic acid testing assay to detect viremic blood
donors in northern Thailand. Transfusion. 2007;47(10):1803–
1808. PMID: 17880604. Available from: https://doi.org/10.
1111/j.1537-2995.2007.01395.x.
9. Prakash P, Basavaraj V, Kumar RB. Recipient hemovigilance
study in a university teaching hospital of South India: An in-
stitutional report for the year 2014-2015. Global Journal of
Transfusion Medicine. 2017;2(2):124. Available from: https:
//doi.org/10.4103/GJTM.GJTM_32_17.
10. TWVHhTm. BáoCáoTổngKếtNăm2014, KếHoạchHoạtĐộng
Năm 2015. 2014;.
11. Minh PLN. Đánh giá hiệu quả kỹ thuật xét nghiệm Nucleic
acid (NAT) đối với HBV, HCV và HIV ở người hiến máu tình
nguyện tại trung tâmTruyềnmáuChợRẫy - BệnhviệnChợRẫy
TPHCM. Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học chuyên
ngành Huyết học - Truyền máu;.
12. Laperche S, Tiberghien P, Roche-Longin C, Pillonel J. Fif-
teen years of nucleic acid testing in France: results and
lessons. Transfusion Clinique et Biologique. 2017;24(3):182–
188. PMID: 28709845. Available from: https://doi.org/10.1016/
j.tracli.2017.06.020.
13. Stramer SL,WendU, Candotti D, Foster GA, Hollinger FB, Dodd
RY, et al. Nucleic Acid Testing to Detect HBV Infection in Blood
Donors. New England Journal of Medicine. 2011;364(3):236–
247. PMID: 21247314. Available from: https://doi.org/10.1056/
NEJMoa1007644.
14. Humar A, Morris M, Blumberg E, Freeman R, Preiksaitis J,
Kiberd B, et al. Nucleic acid testing (NAT) of organ donors:
is the ’best’test the right test? A consensus conference re-
port. American Journal of Transplantation. 2010;10(4):889–
899. PMID: 20121734. Available from: https://doi.org/10.1111/
j.1600-6143.2009.02992.x.
15. BuschMP, Glynn SA, Stramer SL, Strong DM, Caglioti S, Wright
DJ, et al. A new strategy for estimating risks of transfusion-
transmitted viral infections based on rates of detection of
recently infected donors. Transfusion. 2005;45(2):254–264.
PMID: 15660836. Available from: https://doi.org/10.1111/j.
1537-2995.2004.04215.x.
16. Yang Z, Xu L, Liu L, Feng Q, Zhang L, Ma W, et al. Routine
screening of blood donations at Qingdao central blood bank,
China, for hepatitis B virus (HBV) DNA with a real-time, multi-
plex nucleic acid test for HBV, hepatitis C virus, and human im-
munodeficiency virus Types 1 and 2. Transfusion. 2013;53(10
Pt 2):2538–2544. PMID: 23480568. Available from: https:
//doi.org/10.1111/trf.12159.
17. Bukh J, Pietschmann T, Lohmann V, Krieger N, Faulk K, Engle
RE, et al. Mutations that permit efficient replication of hep-
atitis C virus RNA in Huh-7 cells prevent productive replica-
tion in chimpanzees. Proceedings of the National Academy of
Sciences of the United States of America. 2002;99(22):14416–
14421. PMID: 12391335. Available from: https://doi.org/10.
1073/pnas.212532699.
18. Niazi SK, Bhatti FA, Salamat N, Ghani E, Tayyab M. Impact of
nucleic acid amplification test on screeningof blooddonors in
Northern Pakistan. Transfusion. 2015;55(7):1803–1811. PMID:
25648663. Available from: https://doi.org/10.1111/trf.13017.
19. Kabita C, Poonam C, Rahul C, Diptiranjan R, Kanchan D, Parag
F. Five years of experience with ID-NAT at a tertiary care
centre in North India: An interdictory step in preventing
the transfusion-transmitted Infections. ISBT Science Series.
2016;11(1):38–44. Available from: https://doi.org/10.1111/
voxs.12257.
20. Ye X, Yang B, Zhu W, Zheng X, Du P, Zeng J, et al. Six-year
pilot study on nucleic acid testing for blood donations in
China. Transfusion and Apheresis Science. 2013;49(2):318–
322. PMID: 24007868. Available from: https://doi.org/10.1016/
j.transci.2013.08.005.
21. Phikulsod S, Oota S, Tirawatnapong T, Sakuldamrongpanich
T, Chalermchan W, Louisirirotchanakul S, et al. One-year ex-
perience of nucleic acid technology testing for human im-
munodeficiency virus Type 1, hepatitis C virus, and hepatitis B
virus in Thai blood donations. Transfusion. 2009;49(6):1126–
1135. PMID: 19392770. Available from: https://doi.org/10.
1111/j.1537-2995.2009.02176.x.
22. DungNTT.Nghiên cứuứngdụngkỹ thuậtNAT sàng lọc các tác
nhân lây truyền qua đường máu tại viện Huyết học - Truyền
máu TW. Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học chuyên
ngành Huyết học - Truyền máu. 2016;.
23. Thành D, Sằng DS, Tuyết NTB, Phong TQ. Khảo sát tỷ lệ dương
tính HBV, HCV và HIV ở người hiến máu tình nguyện sau khi
bổ sung xét nghiệm NAT tại trung tâm Truyền máu Khu vực
Huế. Tạp chí Y học Việt Nam. 2016;446(9).
24. Velati C, Romanò L, Fomiatti L, Baruffi L, Zanetti AR. Impact of
nucleic acid testing for hepatitis B virus, hepatitis C virus, and
human immunodeficiency virus on the safety of blood sup-
ply in Italy: a 6-year survey. Transfusion. 2008;48(10):2205–
2213. PMID: 18631163. Available from: https://doi.org/10.
1111/j.1537-2995.2008.01813.x.
25. Zou S, Dorsey KA, Notari EP, Foster GA, Krysztof DE, Musavi
F, et al. Prevalence, incidence, and residual risk of human im-
munodeficiency virus and hepatitis C virus infections among
United States blood donors since the introduction of nu-
cleic acid testing. Transfusion. 2010;50(7):1495–1504. PMID:
20345570. Available from: https://doi.org/10.1111/j.1537-
2995.2010.02622.x.
26. Vân PNT, Thảo VTP, Sơn NT, Dũng PC. Nhận xét hiệu quả sàng
lọc virus HBV, HCV, HIV của máu và chế phẩm máu bằng kỹ
thuật NAT (Nucleic Acid Testing) . 2016;.
27. Velati C, Romanò L, Piccinini V, Marano G, Catalano L, Pupella
S, et al. Prevalence, incidence and residual risk of transfusion-
transmitted hepatitis C virus and human immunodeficiency
virus after the implementation of nucleic acid testing in Italy:
a 7-year (2009-2015) survey. Blood transfusion = Trasfusione
del sangue. 2018;16(5):422–432.
42
Science & Technology Development Journal – Health Sciences, 1(1):35-43
Open Access Full Text Article Research Article
1School of Medicine, Vietnam National
University
2Blood Transfusion Hematology Hospital
Correspondence
To Dong Kha, School of Medicine,
Vietnam National University
Email: khadong@gmail.com
History
Received: 2020-08-24
Accepted: 2020-10-28
Published: 2020-11-17
DOI :
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Impact of Nucleic Acid Testing (NAT) on screening blood donors at
a tertiary center in Vietnam
To Dong Kha1,*, Lam Thi Ngoc Tram1, Nguyen Phuong Anh1, Ho Tan Trung1, Lo Thi Thao Nguyen1,
Cai Thi Thu Ngan2, Phu Chi Dung2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
To ensure safe blood transfusion, since June 2015, Nucleic Acid Testing (NAT) technique has been
applied in blood screening process in some areas in Vietnam. The objective of our project is to
examine the effectiveness of this technique, to provide specific, updated evidence, as the funda-
mental for promoting the application of NAT technology in screening blood donors. The study
describes a series of cases, performed on 412,705 blood donated samples meeting inclusion crite-
ria at Blood Transfusion Hematology Hospital from January 1, 2017 to January 1, 2019. All collected
blood samples were screened for HBV, HCV, and HIV by serology technique, then samples with
negative results will continue to be screened by NAT technique. Test results and donor information
will be stored on the the hospital's database. As a result, thanks to NAT screening, our study found
369 more positive blood samples with viral genetic material that serology did not detect, of which:
352 samples reacted with HBV-DNA (0.0871%), 10 samples responded to HCV-RNA (0.0025%) and
6 samples responded to HIV-RNA (0.0017%). Therefore, the application of NAT to the blood screen-
ing process is necessary to improve the safety of blood transfusion. Regarding the characteristics of
positive cases with infectious agents, we recorded a higher rate of positive for HBV, HIV than men,
even when tested by serology or by NAT technique (statistically significant, P <0.05); The positive
rate for these 3 agents was higher for first-time blood donors than for repeat blood donors, statisti-
cally significant with serological screening (P <, 001) and not statistically significant when screening
NAT (P> 0.05). In conclusion, The application of NAT technology in blood screening is essential and
effective, improving blood transfusion safety.
Key words: HBV, HCV, HIV, Serologic testing, Nucleic acid testing, blood screening, blood donor
Cite this article : Kha T D, Tram L T N, Anh N P, Trung H T, Nguyen L T T, Ngan C T T, Dung P C. Impact of
Nucleic Acid Testing (NAT) on screening blood donors at a tertiary center in Vietnam. Sci. Tech. Dev.
J. - Health Sci.; 1(1):35-43.
43
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_hieu_qua_cua_xet_nghiem_nucleic_acid_testing_nat_tr.pdf