Nghiên cứu này vẫn còn nhiều mặt hạn chế:
Đây là nghiên cứu tiến cứu và lấy kết quả tế bào
học FNAC làm tiêu chuẩn tham khảo. Như chúng ta
đều biết, FNAC luôn tồn tại một tỉ lệ âm tính giả - dương
tính giả nhất định. Tiêu chuẩn vàng để xác định hạt giáp
lành - ác vẫn là kết quả giải phẫu bệnh. Tuy nhiên, với
một kết quả tế bào học lành tính, bệnh nhân thường
được theo dõi mà không cần phẫu thuật. Và trong điều
kiện trung tâm hiện có, chúng tôi không thể lấy giải
phẫu bệnh làm kết quả đối chiếu. Chúng tôi mong muốn
trong tương lai có thể làm nghiên cứu hồi cứu với mẫu
lớn hơn, đa trung tâm nhằm giảm thiểu sai số và có kết
quả toàn diện hơn.
Kết quả FNAC có 4 tổn thương dạng nang, được
xem như một loại tổn thương trung gian. Tất cả bệnh
nhân có kết quả này thông thường được khuyến cáo
phẫu thuật vì khả năng ác tính xấp xỉ 1/3 số trường
hợp. Hơn nữa, vì số ca khá ít nên chúng tôi ghép nhóm
tổn thương này vào nhóm tổn thương ác tính để có thể
thực hiện được các phép kiểm thống kê.
Với tiêu chuẩn chọn mẫu là tất cả bệnh nhân phát
hiện hạt giáp trên siêu âm, kể cả hạt giáp < 10mm,
điều này có thể làm ảnh hưởng đến kết quả trên máy
ACUSON S2000 vì máy có vùng ROI khá lớn. Chúng
tôi đề xuất tiêu chuẩn chọn mẫu ở những nghiên cứu
sau là chọn kích thước hạt giáp sao cho vùng ROI nằm
trọn vẹn trong hạt giáp.
Mảng bệnh lý tuyến giáp lan tỏa kèm theo hạt
giáp là khá phổ biến, nhưng vì số ca trong nghiên cứu
còn ít ỏi và không thể kiểm định bằng test thống kê
nên chúng tôi sẽ cố gắng thực hiện mảng đề tài này ở
những nghiên cứu sau.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát kĩ thuật tạo hình xung lực bức xạ âm Arfi trong chẩn đoán hạt giáp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 12 - 07 / 2013524
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMAry
KHẢO SÁT KĨ THUẬT TẠO HÌNH
XUNG LỰC BỨC XẠ ÂM ARFI
TRONG CHẨN ĐOÁN HẠT GIÁP
Study the feasibility of acoustic radiation force impulse
(ARFI) imaging in the diagnosis of thyroid nodules
Võ Mai Khanh*, Nguyễn Thiện Hùng*
Purpose: To assess the feasibility of acoustic radiation
force impulse (ARFI) imaging (VTQ and VTI) for differentiation of
benign and malignant thyroid nodules.
Materials and methods: A total of 130 thyroid nodules
underwent conventional ultrasound, including Color Doppler
ultrasound using a 7.5MHz linear transducer; ARFI imaging
was performed at 4MHz using Siemens Acuson S2000 B-mode-
ARFI combination transducer; and FNAC (Fine needle aspiration
cytology) assessment of thyroid nodule as reference criteria.
Results: 130 nodules were analysed. 103 nodules were
benign, 23 nodules were malignant and 4 follicular lesions. The
median velocity of ARFI imaging in the normal nodule-free thyroid
gland, as well as benign and malignant thyroid nodules was
1.41m/s (range 0.84 - 3m/s); 2.15m/s (range 0.8 - 4.04m/s) and
3.2m/s (range 0.9 - 9.22m/s), respectively. At cut-off 2.16m/s, a
sensibility of 79.4% and specificity of 53.7% of VTQ could be
achieved (AUROC = 0.731). The difference between VTQ of
normal thyroid tissue and thyroid nodule (benign, malignant) has
the sensibility of 79.5% and specificity of 51% at the cut-off of
0.63 (AUROC = 0.72). A significant difference was found between
VTI on the one hand and benign or malignant thyroid nodules on
the other hand, a = 0.001.
Conclusions: VTQ and VTI of ARFI can be useful in the
assessment of benign and malignant thyroid nodules. These
novel quantitative and qualitative elastography method should be
combined to give a more reliable result. Further investigations are
needed to compare these baseline findings in thyroid nodules in
healthy thyroid tissue with those in thyroid diffuse diseases.
* Trung tâm Chẩn đoán
Y khoa Medic
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 12 - 07 / 2013 525
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tạo hình biến dạng mô (tissue strain imaging)
dựa trên sự khác biệt về độ cứng (stiffness) của tổn
thương ác tính và lành tính, áp dụng vào nhiều cơ quan
như: gan, vú, tuyến giáp, tiền liệt tuyến Ngoài MR
elastography, siêu âm có nhiều cách tạo hình biến dạng
mô; trên thị trường hiện nay có các máy siêu âm để
phân tích định tính và định lượng biến dạng mô (tissue
strain), độ cứng (stiffness). Phân làm 2 loại chính: tĩnh
(static) và động (dynamic).
+ Static: mô phản ứng với nguồn kích thích cơ học
trực tiếp bằng cách đè ấn đầu dò siêu âm. Hiện có các
dòng máy Philips, GE, Hitachi (với HiRTE: Hitachi Real-
Time Tissue Elastography).
+ Dynamic: mô phản ứng với sự đè ấn nhanh hoặc
rung động, gồm các dòng máy Fibroscan, Supersonic
Imaging Aixplorer (với shear wave), Acuson Siemens
S2000 (với ARFI: Acoustic Radiation Force Impulse).
Nghiên cứu này tập trung vào kĩ thuật tạo hình đàn
hồi xung lực bất xạ âm ARFI.
Xung lực bức xạ âm (Acoustic radiation force
impulse) tạo kích thích mô mạnh và khu trú dưới 0,1
milisec. Đầu dò siêu âm tiếp xúc trên da đủ để khám,
không phải đè ấn. Đáp ứng mô được theo dõi bằng
chính đầu dò siêu âm dùng tạo ra lực và lặp lại nhiều
lần trong vùng khám trên siêu âm 2D. Hình tạo ra do
đáp ứng mô trong vùng bị kích thích (dời chỗ sau khi lực
mất đi, thời gian hồi phục,) dùng để đánh giá thông
tin về cấu trúc của mô. Kĩ thuật này cho kết quả trong cả
bản đồ đàn hồi (elastogram) màu mã hóa định tính và
bản đồ đàn hồi định lượng (theo đơn vị kPa) hoặc vận
tốc sóng biến dạng (theo đơn vị cm/s). Phương pháp
này khách quan hơn strain EUS vì không cần nén mô,
đánh giá trực tiếp độ đàn hồi với số đo định lượng.
Hiện nay, có vài công bố của các tác giả về kĩ
thuật ARFI ở hạt giáp, chủ yếu là đo tốc độ đàn hồi
ARFI (Virtual Touch Tissue Quantification: VTQ) và
các kết quả, nhận định còn nhiều khác biệt. Nghiên
cứu này cũng dựa trên chỉ số VTQ (định lượng/0
của hạt giáp, kết hợp với VTI (Virtual Touch Tissue
Imaging) (định tính).
Mục tiêu nghiên cứu:
- Khảo sát giá trị VTQ (định lượng) trên mô giáp
bình thường, hạt giáp lành tính và ác tính. Khảo sát mối
liên hệ giữa VTQ và hạt giáp lành – ác.
- Khảo sát VTI (định tính) trên hạt giáp lành tính
và ác tính.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Đối tượng và phương pháp:
+ Đối tượng: 130 hạt giáp (103 hạt lành tính và
27 hạt ác tính) trên siêu âm tại khoa Siêu âm của Trung
tâm Chẩn đoán Y khoa Medic từ tháng 08/2011 đến
tháng 10/2012.
+ Phương pháp lấy mẫu: bệnh nhân được thực
hiện siêu âm quy ước B-mode và chọn vào mẫu nghiên
cứu khi phát hiện hạt giáp. Tiếp theo, chúng tôi thực
hiện khảo sát đo độ đàn hồi ARFI (VTQ và VTI) của hạt
giáp bằng máy siêu âm Acuson Siemens S2000. Mỗi
bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều hạt giáp. Vùng
ROI (Region of interest) được đặt ở trung tâm của hạt
giáp và mỗi lần đo giá trị VTQ, chúng tôi ghi nhận như
một mẫu độc lập. Sau đó, tất cả những hạt giáp được
khảo sát đều được làm FNAC (Fine needle aspiration
cytology) dưới hướng dẫn của siêu âm.
Xử lý số liệu: phần mềm Medcalc.
III. KẾT QUẢ
Đặc điểm nhóm nghiên cứu:
- Tuổi: trung bình 45 (16 - 69 tuổi).
- Kích thước hạt giáp: trung bình 14mm (5 - 47mm).
Giá trị định lượng VTQ:
- Trung bình của mô giáp lành: 1,51m/s (0,84 –
3m/s).
- Trung bình của hạt giáp lành tính: 2,15m/s (0,8 –
4,04m/s).
- Trung bình của hạt giáp ác tính: 3,21m/s (0,9 –
9,22m/s).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 12 - 07 / 2013526
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Mối liên hệ giữa độ nhạy và độ chuyên của VTQ và
hạt giáp lành tính - ác tính được thể hiện bằng biểu đồ
đường cong ROC với diện tích dưới đường cong (AUC)
là 0,731 (p < 0,0001) được đánh giá là khá tốt. Tương
tự với độ chênh lệch VTQ giữa mô giáp bình thường và
hạt giáp (lành, ác) có AUC là 0,72 (p < 0,0001).
Biểu đồ 1. Biểu đồ ROC của VTQ và hạt giáp lành-ác
Với Q = 102,553 > c bình phương, độ tự do 3 =
16,27, ngưỡng sai lầm µ = 0,001, ta kết luận có sự phụ
thuộc giữa hạt giáp lành tính - ác tính và VTI.
Biểu đồ 2. Biểu đồ ROC của độ chênh lệch VTQ
giữa mô giáp bình thường và hạt giáp lành – ác
IV. BÀN LUẬN
Giá trị VTQ trung bình thấp nhất ở mô giáp bình
thường, cao hơn ở hạt giáp lành tính và cao nhất ở hạt
giáp ác tính. Điều này là phù hợp vì các hạt giáp ác tính
nhìn chung có mật độ cứng hơn hạt giáp lành tính.
Tuy nhiên, giá trị VTQ giữa các nhóm này dao động
khá rộng và có sự chồng lấp lên nhau. Một hạt giáp ác
tính vẫn có thể có giá trị VTQ nằm trong phạm vi của
Đặc điểm định tính VTI:
Bảng 1. Bảng phân phối tần số chi bình phương của hạt giáp lành tính - ác tính theo VTI
Codes X VTI
Codes Y FNAC
Codes X
Codes Y 1 2 3 4
0 30 10 89 70 199 (76,5%)
1 51 1 4 5 61 (23,5%)
81
(31,0%)
11
(4,2%)
93
(35,7%)
75
(29,1%)
260
Chi-square 102,553
DF 3
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 12 - 07 / 2013 527
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
mô giáp bình thường hoặc hạt giáp lành tính và ngược
lại. Điều này lý giải được nguyên nhân của độ nhạy và
độ chuyên của VTQ trong phân biệt hạt giáp lành tính
- ác tính chỉ ở mức khá và diện tích dưới đường cong
AUC chỉ là 0,731. Có thể bàn luận kết quả này như sau:
Hạt giáp ác tính không hoàn toàn là một khối cứng
đồng nhất, bên trong vẫn có những vùng hoại tử, hóa
nang. Tương tự, hạt giáp lành tính có thành phần đặc
và nang, thậm chí có vôi hóa lớn...
Vùng ROI (Region of interest) của máy Acuson
Siemens S2000 là khá lớn (D=6x5mm) và không thể
điều chỉnh được. Một số hạt giáp < 6mm nằm lọt hoàn
toàn trong vùng ROI, do đó không thể kiểm soát được
cả mô giáp lành cũng được đưa vào đo xung lực bức xạ
âm của vùng. Hiện nay, hãng Siemens đang đưa vào
giới thiệu máy Acuson S3000 với vùng ROI được thu
nhỏ lại nhằm tăng độ tập trung vào mô cần khảo sát.
Mặc dù vậy, với AUC là 0,731, VTQ trong ARFI
được xem là một phương pháp giúp ích trong việc chẩn
đoán phân biệt hạt giáp lành tính – ác tính.
Một số trường hợp hạt giáp trên nền bệnh lý tuyến
giáp lan tỏa (Basedow, viêm giáp Hashimoto,...), bệnh
nhân béo phì (platysma dày), hạt giáp ở vị trí sâu hoặc
ngay dưới da có thể sẽ ảnh hưởng đến giá trị của VTQ.
Theo nghiên cứu của Sporea I. và cộng sự, độ cứng
của mô giáp lành có VTQ thấp hơn so với mô giáp trong
bệnh Graves và viêm giáp mạn tính tự miễn. Trong quá
trình thực hiện nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận phần lớn
hạt giáp có giá trị VTQ cao hơn so với mô giáp lành.
Song, trong một số ít trường hợp có hạt giáp trên nền
bệnh lý tuyến giáp lan tỏa, giá trị VTQ của hạt giáp có
thay đổi (1 ca phình giáp có VTQ thấp hơn VTQ của mô
giáp nền, 1 ca ác tính có VTQ là 1,92 khá thấp). Tuy
nhiên, do số ca có hạt giáp kèm theo bệnh lý tuyến giáp
lan tỏa trong mẫu nghiên cứu là rất ít nên chúng tôi chỉ
ghi nhận sự quan sát này và chờ đợi ở một nghiên cứu
khảo sát với cỡ mẫu lớn về sự ảnh hưởng của bệnh
lý tuyến giáp lan tỏa lên mật độ và giá trị VTQ của hạt
giáp. Dù vậy, chúng tôi vẫn thực hiện việc đo VTQ của
mô giáp nền của thùy đối bên ở cùng độ sâu và lấy hiệu
số giữa VTQ của hạt giáp và mô giáp nền để khảo sát
mối liên hệ. Với AUC là 0,72, ta thấy hiệu số này cũng
có giá trị khá tốt trong chẩn đoán phân biệt lành - ác của
hạt giáp. Hạt giáp càng cứng và có độ chênh lệch VTQ
càng cao so với mô giáp nền thì độ ác tính càng cao.
VTI là một biến số định tính nên việc khảo sát giá
trị này khá phụ thuộc vào người làm siêu âm (operator
dependance). Với việc phân làm bốn nhóm hình ảnh
VTI (dark, iso, bright, mixed), kết quả nghiên cứu cho
thấy các hạt giáp ác tính có hình ảnh cứng (dark) trội
hơn và các hạt giáp lành tính có hình ảnh mềm hoặc
hỗn hợp (bright hoặc mixed). Phân tích với test c bình
phương, kết quả cho thấy có sự phụ thuộc giữa VTI và
hạt giáp lành tính - ác tính có ý nghĩa thống kê, ngưỡng
sai lầm a = 0,001.
VTI có thể xem như một dạng biểu hiện khác của
siêu âm B-mode. Tuy nhiên, VTI với bản đồ màu (color
map) được cho là dễ phân biệt độ cứng-mềm hơn
(xanh dương, xanh lá - vàng, đỏ) so với siêu âm thang
xám (xám - đen). Đặc điểm này giúp ích trong những
trường hợp cần phân biệt các khối dạng dịch không
thuần nhất với khối đặc hoặc khối đặc có hồi âm rất
kém trên B-mode với một khối dạng dịch thật sự. Ngoài
ra, đặc điểm trên còn giúp chọn lựa vị trí thực hiện chọc
hút tế bào bằng kim nhỏ trong những trường hợp khối
lớn và có bản chất phức tạp.
Nghiên cứu này vẫn còn nhiều mặt hạn chế:
Đây là nghiên cứu tiến cứu và lấy kết quả tế bào
học FNAC làm tiêu chuẩn tham khảo. Như chúng ta
đều biết, FNAC luôn tồn tại một tỉ lệ âm tính giả - dương
tính giả nhất định. Tiêu chuẩn vàng để xác định hạt giáp
lành - ác vẫn là kết quả giải phẫu bệnh. Tuy nhiên, với
một kết quả tế bào học lành tính, bệnh nhân thường
được theo dõi mà không cần phẫu thuật. Và trong điều
kiện trung tâm hiện có, chúng tôi không thể lấy giải
phẫu bệnh làm kết quả đối chiếu. Chúng tôi mong muốn
trong tương lai có thể làm nghiên cứu hồi cứu với mẫu
lớn hơn, đa trung tâm nhằm giảm thiểu sai số và có kết
quả toàn diện hơn.
Kết quả FNAC có 4 tổn thương dạng nang, được
xem như một loại tổn thương trung gian. Tất cả bệnh
nhân có kết quả này thông thường được khuyến cáo
phẫu thuật vì khả năng ác tính xấp xỉ 1/3 số trường
hợp. Hơn nữa, vì số ca khá ít nên chúng tôi ghép nhóm
tổn thương này vào nhóm tổn thương ác tính để có thể
thực hiện được các phép kiểm thống kê.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 12 - 07 / 2013528
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Với tiêu chuẩn chọn mẫu là tất cả bệnh nhân phát
hiện hạt giáp trên siêu âm, kể cả hạt giáp < 10mm,
điều này có thể làm ảnh hưởng đến kết quả trên máy
ACUSON S2000 vì máy có vùng ROI khá lớn. Chúng
tôi đề xuất tiêu chuẩn chọn mẫu ở những nghiên cứu
sau là chọn kích thước hạt giáp sao cho vùng ROI nằm
trọn vẹn trong hạt giáp.
Mảng bệnh lý tuyến giáp lan tỏa kèm theo hạt
giáp là khá phổ biến, nhưng vì số ca trong nghiên cứu
còn ít ỏi và không thể kiểm định bằng test thống kê
nên chúng tôi sẽ cố gắng thực hiện mảng đề tài này ở
những nghiên cứu sau.
V. KẾT LUẬN
Tóm lại, qua nghiên cứu này, kĩ thuật tạo hình xung
lực bức xạ âm ARFI có thể giúp ích trong chẩn đoán
phân biệt hạt giáp lành tính - ác tính. Tuy nhiên, vì đây
là kĩ thuật mới và chưa được FDA chuẩn y, với độ nhạy
và độ chuyên ở mức khá, ta chỉ nên xem đây như là
tiêu chuẩn hỗ trợ trong chẩn đoán (tương tự Doppler
màu). Cần kết hợp VTQ và VTI để có kết quả tốt hơn.
Hy vọng trong tương lai, với những cải tiến mới, ARFI
có thể được đưa vào kết quả tường trình siêu âm
(sonographic feature) như là một đặc điểm tham khảo
và hỗ trợ chẩn đoán tích cực.
TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát các đặc điểm của kĩ thuật tạo hình xung lực bức xạ âm ARFI trong chẩn đoán phân biệt hạt
giáp lành - ác.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang. 130 hạt giáp được thực hiện siêu âm
quy ước B-mode và tạo hình xung lực bức xạ âm ARFI bằng máy siêu âm Acuson Siemens S2000 tại Medic từ
tháng 08/2011 đến tháng 10/2012. Tất cả hạt giáp đều được thực hiện FNAC sau đó để làm giá trị đối chiếu. Xử lý
số liệu: phần mềm Medcalc.
Kết quả: khảo sát 130 hạt giáp gồm 103 hạt lành tính, 23 carcinôm tuyến giáp dạng nhú và 4 tổn thương dạng
nang. Giá trị VTQ trung bình của mô giáp lành, hạt giáp lành và ác tính lần lượt là 1,41m/s (range 0,84 – 3m/s);
2,15m/s (range 0,8 – 4,04m/s) và 3,2m/s (range 0,9 – 9,22m/s). Tại điểm cắt 2,16m/s, độ nhạy và độ chuyên của
ARFI trong phân biệt hạt giáp lành tính và ác tính là 79,4% và 53,7% (diện tích dưới đường cong ROC là 0,731). Độ
chênh lệch giá trị VTQ giữa mô giáp bình thường và hạt giáp (lành, ác) có độ nhạy là 79,5% và độ chuyên là 51%
tại điểm cắt 0,63 (diện tích dưới đường cong ROC là 0,72). Có sự phụ thuộc có ý nghĩa thống kê giữa VTI và phân
biệt hạt giáp lành - ác, ngưỡng sai lầm a = 0,001.
Kết luận: VTQ của hạt giáp và độ chênh lệch giá trị VTQ giữa mô giáp bình thường và hạt giáp có thể giúp
ích trong chẩn đoán phân biệt hạt giáp lành tính và ác tính. Có thể phối hợp với VTI để tăng thêm giá trị chẩn đoán.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: TS. Bùi Văn Giang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andy Milkowski: Elasticity reaching Clinical
Maturity, Siemens.
2. Eric Bavu, Jean-Luc Gennisson, Mathieu
Couade, Jeremy Bercoff, Vincent Mallet, Mathias Fink,
Anne Badel, Anais Vallet-Pichard, Bertrand Nalpas,
Mickael Tanter, Stanislas Pol: Noninvasive In Vivo Liver
Fibrosis Evaluation Using Supersonic Shear Imaging:
A clinical Study on 113 Hepatitis C virus Patients,
Ultrasound in Medicine and Biology, Volume 37, Issue
9, Pages 1361-1373, September 2011.
3. Josef Jaros: Ultrasound Elastography,
University of Kuopio, Finland.
4. K J Parker, M M Doyley and D J Rubens:
Imaging the elastic properties of tissue: the 20 year
perspective, Phys. Med. Biol. 56 (2011).
5. Mark L.Palmeri – Kathryn R. Nightingale:
Acoustic Radiation Force-Based Elasticity Imaging
Methods, Interface Focus (2011).
6. Peter NT Wells, Hai Dong Liang: Medical
Ultrasonic: Imaging of Soft Tissue Strain and Elasticity,
J.R.Soc.Interface 16 June 2011.
7. Sporea I, Vlad M, Bota S, Sirli RL, Popescu
A, Danila M, Sendroiu M, Zosin I: Thyroid stiffness
assessment by acoustic radiation force impulse
elastography (ARFI).
8. Stanislav Emelianov: Ultrasound Elasticity
Imaging, University of Texas.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_ki_thuat_tao_hinh_xung_luc_buc_xa_am_arfi_trong_cha.pdf