KẾT LUẬN
- U mô đệm đường ống tiêu hóa là một loại
u hiếm xuất hiện và có thể chẩn đoán, xử trí
bằng phẫu thuật và hóa trị bổ túc sau phẫu
thuật. Tuy nhiên chúng ta cần phải theo dõi
bệnh nhân một thời gian lâu dài để phòng
ngừa và điều trị tái phát.
- Lâm sàng của u mô đệm đường ống tiêu
hóa thường mơ hồ và chỉ là đau hay rối loạn tiêu
hóa do khối u phát triển từ dưới niêm mạc ống
tiêu hóa. Khám thấy khối u thường là muộn do
khối u phát triển chậm.
- Chẩn đoán nghi ngờ chúng ta có thể sử
dụng siêu âm để tầm soát khối u tuy nhiên khi
chẩn đoán nghi ngờ qua siêu âm có GIST thì
chúng ta có thể sử dụng CT Scan có cản quang
bụng cho chẩn đoán chuyên biệt và đặc hiệu
rất cao. Đôi khi chúng ta phải sử dụng nội soi
tiêu hóa trên hay tiêu hóa dưới khi cần chẩn
đoán chắc chắn u từ ngoài đè vào lòng ống
tiêu hóa chứ không phải từ niêm mạc đường
tiêu hóa hay khi có tình trạng xuất huyết trong
khi cấp cứu cho bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa
có nghi ngờ do GIST.
- Phẫu thuật nội soi ít xâm lấn cho phép
phẫu thuật viên xử trí tốt thương tổn mà vẫn
đảm bảo tính an toàn cũng như yêu cầu của
phẫu thuật cắt u khi đường kính u nhỏ hơn 5cm
hay không xâm lấn mô xung quanh.
- Hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật chỉ đặt ra khi
kết quả giải phẫu bệnh cho kết luận u có độ ác
cao hay có đường kính khối lớn hơn 5 cm. Đối
với bệnh nhân sau hóa trị cần theo dõi suốt đời
và có thể sử dụng công thức hóa trị mới với bệnh
nhân tái phát và có kháng trị với Imatinib bằng
các thuốc khác như Sunitinib.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 145 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát lâm sàng và kết quả sớm điều trị u mô đệm đường tiêu hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 546
KHẢO SÁT LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ SỚM ĐIỀU TRỊ
U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA
Trương Nguyễn Duy Linh*, Nguyễn Võ Vĩnh Lộc*, Võ Thị Thuỷ*, Lê Ngọc Nhung*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả sớm điều trị của bệnh nhân u mô đệm
đường tiêu hóa (Gastro Intestinal Stromal Tumor GIST).
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu và mô tả cắt ngang tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật và
chẩn đoán giải phẫu bệnh là u mô đệm đường ống tiêu hóa (Gastro Intestinal Stromal Tumor: GIST) trong 2 năm
2009-2011. Các số liệu của bệnh nhân được thu thập và xử lý thống kê bằng phần mềm xử lý thống kê SPSS. Kết
quả được phân tích và đánh giá đưa ra các kết luận ban đầu chẩn đoán và điều trị u mô đệm đường ống tiêu hóa
(GIST).
Kết quả: Qua 2 năm nghiên cứu 2009-2011, chúng tôi có 32 trường hợp u mô đệm đường ống tiêu hóa được
chẩn đoán và phẫu thuât tại bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng tôi có 13 (40,6%) bệnh nhân nam và 19 (59,4%) bệnh
nhân nữ.Tuổi trung bình 58 (36 - 85 tuổi). Có 11 trường hợp (34,4%) được phẫu thuật cấp cứu với tình trạng
xuất huyết tiêu hóa trên do chảy máu từ khối u: từ dạ dày 5/16; ruột non 4/7 và tá tràng 2/5 các trường hợp. Xuất
huyết tiêu hóa dưới qua đi cầu phân đen 12 trường hợp (37,5%), có 1 trường hợp không có nôn ra máu là do u ở
trực tràng. Lâm sàng biểu hiện rõ nhất là Đau và Rối loạn tiêu hóa (đầy bụng và chán ăn hay nôn ói bí trung đại
tiện) xuất hiện 100% trường hợp, khối U sờ thấy hay nhìn thấy 31 trường hợp (96,9%) và 1 trường hợp không sờ
thấy u chỉ phát hiện qua CT scan và siêu âm do u nhỏ. Siêu âm chẩn đoán chính xác vị trí thương tổn 23 (71,9%)
trường hợp, sai 8 (25%) và không phát hiện 1 trường hợp (3,1%). Chẩn đoán CT Scan chính xác 100%. Nội soi
cho thấy thương tổn từ ngoài đè vào 22/24 trường hợp (91,66%). Chỉ có 1 trường hợp nội soi đại tràng có sang
thương chảy máu ở trực tràng. Có 6/7 (85,77%) ghi nhận u có đường kính khối u < 3cm và 16/17 (94,11%) khi u
> 3cm. U dạ dày có16/32 (50%), U tá tràng 5/32 (15,62%), U ruột non 7/32 (15,62%), u có ở cả dạ dày và ruột
non chiếm 3/32 (9,37%). U có đường kính lớn hơn 3cm 22/329 (68,75%), nhỏ hơn 3cm là 9/32 (28,12%) và có 1
u ở trực tràng có đường kính rất to 8cm. Có 27/32 (84,4%) phẫu thuật mở bụng, phẫu thuật nội soi thực hiện
5/32 (15,6%). Không có tử vong và biến chứng trong lô nghiên cứu.U có độ ác thấp chiếm 25/32 (78,1%), độ ác
tính cao 7/32 (21,9%). Tất cả các u có độ ác cao đều được hóa trị với Imatinib cho kết quả tốt và không tử vong
hay tái phát.
Kết luận: U mô đệm đường tiêu hóa là loại u xuất hiện không nhiều, tiến triển chậm và có độ ác tính thấp, u
có biểu hiện lâm sàng là khối u, nghẽn tắc đường tiêu hóa hay có biến chứng chảy máu hoặc thủng vì thế u
thường phát hiện muộn. Chẩn đoán dựa vào CT Scan với độ chính xác cao và sự hỗ trợ của nội soi đường tiêu hóa
trên và dưới cho phép loại trừ u xuất phát từ niêm mạc ống tiêu hóa. Phẫu thuật có thể thực hiện an toàn qua kỹ
thuật nội soi ổ bụng khi u có dường kính dưới 3cm. Nếu u có kết quả giải phẫu bệnh nghi ngờ ác tính nên cho xác
định thêm qua hóa mô miễn dịch. Nếu u có độ ác tính cao và đường kính u lớn hơn 5cm chúng ta nên có kế hoạch
hóa trị bổ túc sau mổ.
Từ khóa: U; U mô đệm ống tiêu hóa.
* Khoa Ngoại tiêu hóa BV Chợ Rẫy,
Tác giả liên lạc: BS. Trương Nguyễn Duy Linh, ĐT: 0913920747, email: duylinhmd@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 547
ABSTRACT
CLINICAL FEATURES AND EARLY RESULT TREATMENTS
FOR GASTROINTESTINAL STROMAL TUMOR
Truong Nguyen Duy Linh, Nguyen Vo Vinh Loc, Vo Thi Thuy, Le Ngoc Nhung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 546-552
Background: Gastrointestinal Stromal Tumor (GIST) is uncommon mesenchymal tumors of the
gastrointestinal tract. It only has 1 - 3 % of all gastrointestinal malignancies. GISTs develop very slowly so that
clinical symptoms of the tumor rarely happen. CT scanner and immunohistochemistry define this tumor.
Adjuvant chemotherapy could help for treatment of the tumor after operation.
Objective: We want to define clinical features of Gastrointestinal Stromal Tumor and early results
treatments this tumor
Methods: Prospective study all of the patients Gastrointestinal Stromal Tumor performed operation in Cho
Ray Hospital in 2009 - 2011
Results: We had 32 cases Gastro intestinal stromal tumor in two years (2009 - 2011) in research at Cho Ray
hospital. We had 13 (40.6%) Male and 19 (59.4%) Female: Mean ages 58 (36 - 85). We had 11 cases (34.4%) that
were performed emergency operations due to hematemese from stomach 5/16; small bower 4/7 cases and duodenal
2/5 cases. Bleeding from lower GI with blood in the stool had 12 cases (37.5%) and 1 case none bleeding upper GI
due to tumor was in rectal colon. Abdominal pain is common clinicals dyspepsia as vomiting or constipation
100% cases, Tumor mass were found 31 cases (96,9%) and 1 cases could not touch tumor and only found in CT
Scaner and Ultrasound. DiangosticUltrasound found correctly 23 (71.9%) cases, false diagnosis 8 (25%) and not
sure situation tumor 1 case (3.1%). CT Scaner found correctly 100%. Endoscopic GI tract found tumor outsite
press into the GI not on the mucus of the GI tract 22/24 cases (91.66%). Only 1 case no blood in the colon when
endoscpic into the colo - rectal. We had 6/7 (85.77%) cases small tumor diameter under 3cm and 16/17 (94.11%)
cases over 3cm diameter (1 case in the rectal 8cm). We had 9/32 cases small tumor with diameter under 3 cm and
23/32 big tumor over 3cm. Stomach tumor16/32 (50%) cases, Duodenal tumor 5/32 (15.62%) cases , tumor in
small bower 7/32 (15.62%), tumor in stomach and small bower 3/32 (9.37%). We performed 27/32 (84.4%) by
Laparotomie and 5/32 (15.6%) by Laparoscopie. We had not mortality and morbidity in this research. We had
25/32 (78.1%) cases lower malignancy and higher malignancy 7/32 (21.9%). All of them were treated by Imatinib
with best result with no mortality and no recurrence.
Conclusion: Gastrointestinal Stromal Tumor is rarely tumor of the gastrointestinal tract and borderline
malignance tumor. This tumor grown up slowly so that clinical features of the tumor is not clearly. When the
tumor is very big that make complicated as obstruction, haemorrhage or rupture. CT Scan and immunohistologie
diagnosed and that were gold standard for diagnosis Gastrointestinal Stromal Tumor. Endoscopic of GI tract help
for CT Scan and immunohistologie define Gastrointestinal Stromal Tumor. We can perform operation
Gastrointestinal Stromal Tumor by Laparoscope with tumors under 3cm because of no invasive lympho-node.in
this tumor. Adjuvant chemotherapy help survivor of the patients longer.
Key words: Tumor, Gastrointestinal stromal tumor
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong khoảng hơn mười năm gần đây chúng
tôi và các tác giả khác ghi nhận có nhiều bệnh
nhân đến với chúng tôi và được phẫu thuật với
chẩn đoán giải phẫu bệnh lý sau mổ bằng hóa
mô miễn dịch là u trung mô đường ống tiêu hóa
(GIST)(10,2,11). Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm
sàng có những đặc điểm riêng biệt và chung của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 548
u đường ống tiêu hóa(10,11,7,1). Trong điều trị chúng
tôi nhận thấy GIST thường có những biến chứng
có thể phải phẫu thuật cấp cứu như là: Xuất
huyết tiêu hóa trên hay dưới hoặc tắc ruột(5,11,6,7).
Chúng ta có thể thực hiện phẫu thuật mở bụng
khi cấp cứu hay phẫu thuật chương trình như
một loại u đường tiêu hóa bình thường khác.
Phẫu thuật mở bụng hay phẫu thuật nội soi ổ
bụng có thể thực hiện dễ dàng vì nội dung phẫu
thuật chỉ cắt u và mép an toàn cách xa u hơn 2cm
mà không cần nạo hạch do u không di căn theo
đường bạch mạch(6,12,9). Phẫu thuật là điều trị
chính nhưng hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật cũng
nên đặt ra khi thương tổn ghi nhận có độ ác tính
cao hoặc đường kính u lớn hơn 5cm để tránh
tình trạng tái phát và kéo dài thời gian sống còn
của bệnh nhân(2,4,1). Chính vì những lý do trên
chúng tôi muốn tiến hành khảo sát lâm sàng, cận
lâm sàng và kết quả điều trị sớm của u mô đệm
đường tiêu hóa (GIST) tại Bệnh Viện Chợ Rẫy
trong 2 năm (2009-2011).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu và mô tả cắt ngang tất cả
các bệnh nhân được phẫu thuật và chẩn đoán
giải phẫu bệnh là u mô đệm đường ống tiêu hóa
(Gastro Intestinal Stromal Tumor: GIST) trong 2
năm 2009-2011. Các số liệu của bệnh nhân được
thu thập và xử lý thống kê bằng phần mềm xử lý
thống kê SPSS. Kết quả được phân tích và đánh
giá đưa ra các kết luận ban đầu chẩn đoán và
điều trị u mô đệm đường ống tiêu hóa (GIST).
KẾT QUẢ
Tỉ lệ giới tính
Số lượng Tỷ lệ
Nữ 19 59.4
Nam 13 40.6
Tổng 32 100.0
Khác biệt nam nữ không có ý nghĩa thống kê
Phân bố tuổi
Tuổi thường thấy từ 32- 87 tuổi với tuổi
trung bình là 59,44 tuổi cho thấy GIST thường
thấy ở tuổi trưởng thành.
Tỷ lệ xuất huyết tiêu hóa trên
Vị trí u
Tổng Dạ
dày
Ruột
non
tá
tràng
Trực
tràng
Dạ dày +
ruột non
Xuất huyết
tiêu hóa trên
Không 11 3 3 1 3 21
Có 5 4 2 0 0 11
Tổng 16 7 5 1 3 32
Chúng ta có thể thấy GIST ở ruột non có
nguy cơ xuất huyết cao hơn dạ dày
Tỷ lệ xuất huyết tiêu hóa dưới
Vị trí u
Tổng Dạ
dày
Ruột
non
tá
tràng
Trực
tràng
Dạ dày +
ruột non
Xuất huyết
tiêu hóa dưới
Không 11 3 3 0 3 20
Có 5 4 2 1 0 12
Tổng 16 7 5 1 3 32
Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng đau bụng mơ hồ hay khối u và
rối loạn tiêu hóa là triệu chứng điển hình gặp ở
tất cả các bệnh nhân GIST và đó cũng là nguyên
nhân đưa bệnh nhân nhập viên khám và điều trị.
Siêu âm
Vị trí u
Tổng Dạ
dày
Ruột
non
tá
tràng
Trực
tràng
Dạ dày +
ruộtt non
Siêu âm
chẩn đoán
Không 1 0 0 0 0 1
Có 12 4 4 1 2 23
Chẩn
đoán sai
3 3 1 0 1 8
Tổng 16 7 5 1 3 32
Siêu âm cho phép tầm soát GIST tốt vì không
xâm lấn và có độ chính xác cao.
CT scan
100% (32/32) phát hiện u.
CT Scaner cho phép chẩn đoán chính xác vị
trí GIST tuyệt đối và cho độ đặc hiệu rất cao.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 549
Nội soi ống tiêu hóa
Có sự phối hợp với CT Scan để xác định u
không phát triển từ niêm mạc ống tiêu hóa mà
từ ngoài chèn vào.GIST ở ruột non thường
không soi thấy trừ khi nôi soi ruột non (Kỹ thuật
nội soi double balloon). 1 trường hợp u trực
tràng phát hiện qua nội soi đại tràng.
Vị trí u
Tổng Dạ
dày
Ruột
non
tá
tràng
Dạ dày +
ruột non
Nội soi dạ
dày tá tràng
không sang
thương
1 7 1 0 9
có sang
thương
15 0 4 3 22
Tổng 16 7 5 3 31
Độ lớn khối u
Đường kính u
Tổng Nhỏ hon
3cm
Lớn hơn hay
bằng 3cm
Đường kính u
sau mổ
Dạ dày 3 6 9
Tá tràng và
ruột non
6 16 22
Tổng 9 22 31
U dạ dày có đường kính thương lớn, u tá
tràng và ruột non có đường kính nhỏ nhưng đã
có biểu hiện lâm sàng. Có 1 trường hợp đặc biệt
u ở trực tràng có dường kính rất to 8-10 cm mà
triệu chứng lâm sàng cũng rất mơ hồ là táo bón
và đi phân dẹt.
Vị trí u
Số ca Tỷ lệ
Dạ dày 16 50.0
Ruột non 7 21.9
Tá tràng 5 15.6
Trực tràng 1 3.1
Dạ dày + ruột non 3 9.4
Tổng 32 100.0
GIST thường thấy ở dạ dày và ruột non hiếm
khi ở trực tràng và rất hiếm khi xuất hiện ở mạc
treo, mạc nối lớn hay ở đường mật.
Phương pháp phẫu thuật
Phương pháp mổ Số ca Tỷ lệ
Mổ mở 27 84.4
Mổ nội soi 5 15.6
Tổng 32 100.0
Chúng ta hoàn toàn có thể phẫu thuật nội soi
cắt u với mép cắt cách u trên 2cm mà vẫn bảo
đảm yêu cầu phẫu thuật ung thư và độ an toàn
phẫu thuật vì u ít xâm lấn xung quanh cũng như
di căn theo đường bạch mạch khi u có kích thước
gọn và chưa xâm lấn xung quanh. Tuy nhiên với
những khối u có đường kính lớn hơn 3 cm 1 số
tác giả khuyên hạn chế phẫu thuật nội soi để
tránh reo rắc tế bào ung thư trong mổ.
Độ ác tính của khối u
Vị trí u
Tổng
Dạ dày
Ruột
non
tá
tràng
Trực
tràng
Dạ dày +
ruộtt non
Đô ác
Thấp 11 6 4 1 3 25
cao 5 1 1 0 0 7
Tổng 16 7 5 1 3 32
Độ ác tính cao của GIST ở dạ dày thường
cao hơn những nơi khác như ruột non hay
trực tràng.
Biến chứng và tử vong
Chúng tôi không có biến chứng và tử vong
trong mẫu nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Qua 2 năm nghiên cứu 2009-2011, chúng tôi
có 32 trường hợp u mô đệm đường ống tiêu hóa
được chẩn đoán và phẫu thuật tại bệnh viện Chợ
Rẫy. Không có biến chứng và tử vong trong mẫu
nghiên cứu.
Trong đó có 13 (40,6%) bệnh nhân nam và 19
(59,4%) bệnh nhân nữ. Tỷ lệ nam nữ chênh lệch
không có ý nghĩa thống kê, điều này cũng phù
hợp với các nghiên cứu của các tác giả khác(10,5,6,7).
Tuổi trung bình 58 (36 - 85 tuổi). Chúng tôi
nhận thấy bệnh nhân có ở tất cả các lứa tuổi, tuy
vậy thường tập trung khoảng tuổi 30-40 tuổi, lứa
tuổi trung niên thường hay gặp nhất cho thấy sự
kiểm soát gen đột biến của lứa tuổi nầy bắt đầu
có sự sai lệch đó củng là lý do phát triển của các
loại u khác trong cơ thể(5,2,3,6,4).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 550
Có 11 trường hợp (34,4%) được phẫu thuật
cấp cứu với tình trạng xuất huyết tiêu hóa trên
do chảy máu từ khối u: từ dạ dày 5/16; ruột non
4/7 và tá tràng 2/5 các trường hợp. Xuất huyết
tiêu hóa dưới qua đi cầu phân đen 12 trường
hợp (37,5%), có 11 trường hợp xuất huyết tiêu
hóa trên và có 1 trường hợp không có nôn ra
máu là do u ở trực tràng. Tình trạng xuất huyết
tiêu hóa thường xảy ở bệnh nhân có u mô đệm
đường tiêu hóa(11,4,7,1).
GIST thường có khuynh hướng dễ thoái hóa
và hoại tử nên khối u thường có tình trạng loét
và chãy máu(10,3,4). Khi bệnh nhân có xuất huyết
thường khó cầm nhất là khi có tổn thương vào
mạch máu lớn của u, vì thế chúng tôi thường
phải can thiệp cấp cứu(3,7,1). Chúng tôi cũng nhận
thấy chảy máu u thường xuất hiện khi vị trí của
u nằm ở ruột non, điều này có lẽ do u ở ruột non
chịu nhu động cao và ruột non có thành mỏng
và nhiều mạch máu(10,11,7).
Lâm sàng biểu hiện rõ nhất là Đau và Rối
loạn tiêu hóa (đầy bụng và chán ăn hay nôn ói bí
trung đại tiện) xuất hiện 100% trường hợp. Triệu
chứng đau của bệnh nhân thường cảm thấy mơ
hồ và không rõ vị trí đau, thường đau thấy theo
rễ thần kinh mạc treo ruột do sự căng dãn ruột
và sự chèn ép của khối u gây ra cho nên đau
thường thấy ở thượng vị và ít xuyên lan có cơn
theo nhu động đường tiêu hóa(10,3,11,4,7). Rối loạn
tiêu hóa cũng không rõ ràng, bệnh nhân thường
cảm thấy ăn đầy bụng chậm tiêu, chướng bụng
đôi khi có triệu chứng của tình trạng bán tắc ruột
do u chèn ép lòng ống tiêu hóa như đau quặn
sau đó cảm giác thoát hơi thì hết đau(11,7,1).
Khối U sờ thấy hay nhìn thấy chiếm 31
trường hợp (96,9%) và 1 trường hợp không sờ
thấy u chỉ phát hiện qua CT scan và siêu
âm(5,3,11,7). Có lẽ do những triệu chứng cơ năng
mơ hồ nên bệnh nhân khi đến khám thường
muộn, chúng ta thường có thể sờ thấy hay đôi
khi có thể nhìn thấy trên bụng của bệnh
nhân(10,11,7,1).
Siêu âm chẩn đoán chính xác vị trí thương
tổn 23 (71,9%) trường hợp, sai lầm vị trí u có 8
(25%) và không phát hiện khối u có 1 trường hợp
(3,1%). Điều nầy cho thấy siêu âm có thể chẩn
đoán chính xác thương tổn u do ghi nhận thành
của đường tiêu hóa dầy bất thường. Vì thế siêu
âm chẩn đoán vị trí khối u chính xác không cao
(71,9%) điều nầy có lẽ do cản trở của không khí
trong đường ống tiêu hóa hay ruột có khuynh
hướng chuyển động làm cho siêu âm dễ lầm khi
xác định vị trí của u trong ổ bụng ngoài ra độ
nhạy và đặc hiệu của siêu âm còn phụ thuộc vào
trình độ người đọc và của máy siêu âm. Tuy vậy,
siêu âm vẫn là phương tiện không xâm lấn và it
tốn kém được sử dụng để tầm soát GIST(3,11,6,4).
CT Scan cho độ nhạy cũng như độ chuyên
biệt chẩn đoán tuyệt đối, vì thế khi có nghi ngờ
trong khi khám lâm sàng chúng ta có thể dùng
siêu âm tầm soát và sau đó sử dụng CT Scan để
chẩn đóan chính xác thương tổn cũng như vị trí
thương tổn(10,11,7).
Nội soi giúp cho thấy thương tổn từ ngoài đè
vào 22/24 trường hợp (91,66%), điều này cho
phép chúng ta nghĩ nhiều thương tổn là GIST so
với các loại u dưới niêm hay phát xuất từ niêm
mạc ống tiêu hóa khác(5,3,11,7).
Chúng tôi chỉ có 1 trường hợp nội soi đại
tràng có sang thương chảy máu ở trực tràng do
thương tổn u ở trực tràng có loét(10,3,11,4).
Có 9/32 trường hợp ghi nhận u khi đường
kính khối u < 3cm và 13/32 trường hợp u có
đường kính lớn hơn 3 cm. Có nhiều tác giả cho
rằng thương tổn u có đường kính lớn hơn 3cm
có khuỵnh hướng ác tính cao (kết hợp tiêu chuẩn
có hơn 5 phân bào trên vi thể). Tuy vậy chúng tôi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 551
cũng nhận thấy độ ác tính khối u không phụ
thuộc hoàn toàn vào đường kính khối u nếu tính
đến 3cm, điều này chỉ xét khả năng phẫu thuật
nội soi hay mổ mở(10,5,11,6,7). Chúng tôi nghĩ rằng
có lẽ tiêu chuẩn 5cm như các tác giả Mỹ là phù
hợp hơn(10,2,6,1).
Khi u > 3cm. U dạ dày có 16/32 (50%), U tá
tràng 5/32 (15,62%).U lớn hơn 3cm 22/32 (68,75%)
và nhỏ hơn 3cm là 9/32 (28,12%) và 1 u ở trực
tràng rất to >5cm. Chúng tôi nhận thấy những u
của dạ dày thường có đường kính rất lớn có lẽ
do u phát triển ở vị trí không gây chèn ép và
xuất huyết do lòng dạ dày lớn hơn lòng ruột nên
bệnh nhân không phát hiện ra sớm, điều này
cũng đúng với trực tràng(5,4,7). U có ở dạ dày và
ruột non chiếm 3/32 (9,37%).
Có 27/32 (84,4%) phẫu thuật mở bụng.
Phẫu thuật nội soi thực hiện 5/32 (15,6%).
Phẫu thuật mở bụng thường được chọn lựa
trong thời gian đầu. Tuy vậy, sau một thời
gian nghiên cứu nhận thấy GIST không di căn
theo dường bạch huyết và ăn lan tại chỗ cũng
hạn chế, vì thế, chúng tôi và nhiều tác giả bắt
đầu thực hiện phẫu thuật nội soi với GIST và
nhận thấy phẫu thuật nội soi thực hiện dễ
dàng và có độ an toàn cao người bệnh. (Trong
một số báo cáo mới đây có đề cập những u có
đường kính trên 3cm nên được phẫu thuật mở
bụng vì nghi ngờ u có thể di căn do reo rắc tế
bào trong khi phẫu thuật)(2,12,9).
Độ ác của u thấp 25/32 (78,1%), ác tính cao
7/32 (21,9%) tất cả đều được hóa trị với Imatinib
cho kết quả tốt và không tử vong hay tái phát
sau 2 năm nghiên cứu(2,11,7). Chúng tôi không thấy
tỉ lệ tái phát hay biến chứng hoặc tử vong đối với
những trường hợp GIST được phẫu thuật bóc
trọn khối u.
KẾT LUẬN
- U mô đệm đường ống tiêu hóa là một loại
u hiếm xuất hiện và có thể chẩn đoán, xử trí
bằng phẫu thuật và hóa trị bổ túc sau phẫu
thuật. Tuy nhiên chúng ta cần phải theo dõi
bệnh nhân một thời gian lâu dài để phòng
ngừa và điều trị tái phát.
- Lâm sàng của u mô đệm đường ống tiêu
hóa thường mơ hồ và chỉ là đau hay rối loạn tiêu
hóa do khối u phát triển từ dưới niêm mạc ống
tiêu hóa. Khám thấy khối u thường là muộn do
khối u phát triển chậm.
- Chẩn đoán nghi ngờ chúng ta có thể sử
dụng siêu âm để tầm soát khối u tuy nhiên khi
chẩn đoán nghi ngờ qua siêu âm có GIST thì
chúng ta có thể sử dụng CT Scan có cản quang
bụng cho chẩn đoán chuyên biệt và đặc hiệu
rất cao. Đôi khi chúng ta phải sử dụng nội soi
tiêu hóa trên hay tiêu hóa dưới khi cần chẩn
đoán chắc chắn u từ ngoài đè vào lòng ống
tiêu hóa chứ không phải từ niêm mạc đường
tiêu hóa hay khi có tình trạng xuất huyết trong
khi cấp cứu cho bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa
có nghi ngờ do GIST.
- Phẫu thuật nội soi ít xâm lấn cho phép
phẫu thuật viên xử trí tốt thương tổn mà vẫn
đảm bảo tính an toàn cũng như yêu cầu của
phẫu thuật cắt u khi đường kính u nhỏ hơn 5cm
hay không xâm lấn mô xung quanh.
- Hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật chỉ đặt ra khi
kết quả giải phẫu bệnh cho kết luận u có độ ác
cao hay có đường kính khối lớn hơn 5 cm. Đối
với bệnh nhân sau hóa trị cần theo dõi suốt đời
và có thể sử dụng công thức hóa trị mới với bệnh
nhân tái phát và có kháng trị với Imatinib bằng
các thuốc khác như Sunitinib.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 552
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blanchard DK, Budde JM, Hatch GF, Wertheimer-Hatch L,
Hatch KF, Davis GB và cs. (2000). World J Surg. Tumors of the
small intestine, 24(4), 421-429.
2. DeMatteo RP (2009). Ann Surg Oncol. Nanoneoadjuvant
therapy of gastrointestinal stromal tumor (GIST), 16(4), 799-800.
3. Egloff E, Lee EY & Dillon JE. (2005). Pediatr Radiol.
Gastrointestinal stromal tumor (GIST) of stomach in a pediatric
patient, 35(7), 728-729.
4. El H, Chehal A & El Saghir NS (2005). Dig Dis Sci. Recurrent GI
bleeding and surgery following the initial response to imatinib
therapy in GIST of the stomach, 50(1), 65-69.
5. Gouveia M., Pimenta AP, Capelinha AF, de la Cruz D, Silva PJ,
Lopes M. (2008). World J Surg. Surgical margin status and
prognosis of gastrointestinal stromal tumor, 32(11), 2375-2382.
6. Hannon JK, Snow LL, Weinstein LS & Lane DR (2000). Surg
Endosc. Balloon-tipped cannulas for use in laparoscopic
diagnosis and treatment of acute upper GI bleeding, 14(2), 123-
126.
7. Khoury MG, Aulicino MR. (2007). Abdom Imaging.
Gastrointestinal stromal tumor (GIST) presenting in a Meckel's
diverticulum, 32(1), 78-80.
8. Nguyễn Văn Mão, Nguyễn Phúc Cương, Trần Văn Hợp, Phạm
Kim Bình, Tạ Văn Tờ & Nguyễn Phi Hùng. (2010).. Phân loại,
phân độ ác tính u mô đệm (gist) và một số u trung mô khác của
dạ dày-ruột sau nhuộm hóa mô miễn dịch, Y học thực hành 730,
56-60.
9. Otani Y, Kitajima M (2005). Gastric Cancer. Laparoscopic
surgery for GIST: too soon to decide, 8(3), 135-136.
10. Privette A, McCahill L, Borrazzo E, Single RM & Zubarik R.
(2008). Laparoscopic approaches to resection of suspected gastric
gastrointestinal stromal tumors based on tumor location, Surg
Endosc. 22(2), 487-494.
11. Tryggvason G, Kristmundsson T, Orvar K., Jonasson JG,
Magnusson MK & Gislason HG (2007). Dig Dis Sci. Clinical
study on gastrointestinal stromal tumors (GIST) in Iceland, 1990-
2003, 52(9), 2249-2253.
12. Warsi AA & Peyser PM. (2010). Surg Endosc. Laparoscopic
resection of gastric GIST and benign gastric tumours: evolution
of a new technique, 24(1), 72-78.
Ngày nhận bài: 06/02/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 27/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_lam_sang_va_ket_qua_som_dieu_tri_u_mo_dem_duong_tie.pdf