Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe người bệnh sau điều trị đột quỵ não tại khu vực thị xã Sơn Tây, Hà Nội

3. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của BN sau ĐQN. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của BN sau ĐQN: có người chăm sóc: 104 BN (52%); tái khám: 155 BN (77,5%); tư vấn sức khỏe: 132 BN (66%); điều trị: 173 BN (86,5%); lao động: 102 BN (51%); tham gia các hoạt động xã hội: 147 BN (73,5%). Kết quả này tương đồng một phần với các nghiên cứu trước đây về nhu cầu chăm sóc sau ĐQN [5, 6]. Như vậy, phần lớn BN sau ĐQN có nhu cầu tái khám, tư vấn sức khỏe, điều trị và phục hồi di chứng rất lớn. Do đó, cần nỗ lực để đáp ứng các nhu cầu của BN, giúp BN sớm phục hồi, phòng chống tái phát, khiếm khuyết và trở lại với cộng đồng và xã hội. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 200 BN ĐQN điều trị tại Bệnh viện Quân y 105, sau ra viện cư trú tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội thấy lứa tuổi thường gặp từ 60 - 80 (55%), tiếp theo là 40 - 59 tuổi (26,5%). Tỷ lệ BN nam 60,5%, nữ 39,5%. Sau ĐQN để lại nhiều di chứng như: rối loạn vận động (76,5%); rối loạn cảm giác (68,5%) và rối loạn ngôn ngữ (63%). Sau ĐQN, tỷ lệ BN tuân thủ chế độ tái khám, tư vấn sức khỏe, điều trị thấp. 67,5% BN không thực hiện chế độ tái khám sau ĐQN, tái khám ít nhất 1 lần 32,5%. BN không gọi điện cho nhân viên y tế để được tư vấn sức khỏe 77,5%, gọi ít nhất 1 lần 22,5%; nhân viên y tế không gọi điện tư vấn sức khỏe cho BN sau ĐQN 82%, gọi ít nhất 1 lần 18%. Sau ĐQN, 90,5% nhân viên y tế không trực tiếp đến gia đình BN thăm khám, tư vấn sức khỏe, đến ít nhất 1 lần 9,5%. Sau ĐQN, BN có nhu cầu cao về chăm sóc sức khỏe, 52% BN cần có người chăm sóc, tái khám 77,5%, tư vấn sức khỏe 66%, điều trị 86,5%, lao động 51%, tham gia các hoạt động xã hội 73,5%. Cần thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe BN sau ĐQN nhằm phòng ngừa ĐQN tái phát, phục hồi chức năng, giúp BN tái hòa nhập xã hội.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe người bệnh sau điều trị đột quỵ não tại khu vực thị xã Sơn Tây, Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020 27 KHẢO SÁT NHU CẦU CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI BỆNH SAU ĐIỀU TRỊ ĐỘT QUỴ NÃO TẠI KHU VỰC THỊ XÃ SƠN TÂY, HÀ NỘI Hồ Văn Thạnh1; Nguyễn Biên Cương1; Vũ Văn Thà1 TÓM TẮT Mục tiêu: khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe người bệnh sau điều trị đột quỵ não tại khu vực thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu 200 bệnh nhân đột quỵ não được cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Quân y 105, Sơn Tây từ 2017 - 2018. Kết quả: tuổi thường gặp từ 60 - 80 (110/200 bệnh nhân = 55%), tiếp theo là 40 - 59 tuổi (53/200 bệnh nhân = 26,5%). Bệnh nhân nam 60,5%, nữ 39,5%. Sau đột quỵ não để lại nhiều di chứng thường gặp như: rối loạn vận động (76,5%), rối loạn cảm giác (68,5%) và rối loạn ngôn ngữ (63%). Qua khảo sát thấy thực trạng người bệnh tuân thủ chế độ tái khám, tư vấn sức khỏe sau đột quỵ não còn thấp. 67,5% người bệnh không thực hiện chế độ tái khám sau đột quỵ não. 77,5% người bệnh thường không gọi điện cho nhân viên y tế để được tư vấn sức khỏe, 82% nhân viên y tế thường không gọi điện tư vấn sức khỏe cho người bệnh sau điều trị. 90,5% nhân viên y tế không đến nhà người bệnh thăm khám, tư vấn sức khỏe. Sau đột quỵ não, người bệnh có nhu cầu cao về chăm sóc sức khỏe, cần có người chăm sóc (52%), tái khám 77,5%, tư vấn sức khỏe 66%, điều trị 86,5%, lao động 51%, tham gia các hoạt động xã hội 73,5%. Kết luận: cần thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe người bệnh sau đột quỵ não nhằm phòng ngừa đột quỵ não tái phát, phục hồi chức năng, giúp người bệnh tái hòa nhập xã hội. * Từ khóa: Đột quỵ não; Nhu cầu chăm sóc sức khỏe. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng thứ ba sau các bệnh lý về tim mạch và ung thư, nhưng đứng đầu về tỷ lệ tàn tật ở người trưởng thành. Hằng năm, ở châu Âu có khoảng một triệu bệnh nhân (BN) vào viện điều trị đột quỵ não (ĐQN) [1]. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ ĐQN là 794/100.000 dân, 5% dân số > 65 tuổi bị ĐQN [8]. Ở Nhật Bản, tỷ lệ này là 340 - 352/100.000 dân [3]. Ở Trung Quốc là 219/100.000 dân [10]. Ở Việt Nam, theo số liệu tổng hợp từ các bệnh viện có khoa thần kinh trên toàn quốc, mỗi năm có > 200.000 người bị đột quỵ, hơn 50% trong số đó tử vong và 90% số người sống sót sau đột quỵ phải sống chung với các di chứng [4]. Theo thống kê của Bệnh viện Quân y 105, hằng năm Bệnh viện thu dung khoảng 800 BN ĐQN. Hơn một nửa số BN trên sau đột quỵ có di chứng cần tiếp tục điều trị, chăm sóc, phục hồi đúng phương pháp. 1. Trường Cao đẳng Quân y 1 Người phản hồi (Corresponding author): Hồ Văn Thạnh (hovanthanh1975@gmail.com) Ngày nhận bài: 30/11/2019; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/12/2019 Ngày bài báo được đăng: 06/01/2020 T¹P CHÝ Y - d−îc HäC QU¢N Sù Sè 1-2020 28 Tuy nhiên, hiện nay chưa có hệ thống chăm sóc và phục hồi chức năng cho BN ĐQN đạt chuẩn. Mặt khác, chưa có tài liệu nào xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của BN sau điều trị ĐQN. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài nhằm: Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe của BN sau điều trị ĐQN tại khu vực thị xã Sơn Tây, Hà Nội. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu. 200 BN ĐQN được điều trị tại Bệnh viện Quân y 105 từ tháng 1 - 2017 đến 6 - 2018. Sau ra viện cư trú tại khu vực thị xã Sơn Tây, Hà Nội. 2. Phương pháp nghiên cứu. * Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang. * Phương pháp thu thập số liệu: Sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn đối tượng nghiên cứu, thu thập thông tin về nhân chủng học (tuổi, giới, nghề nghiệp), thông tin về nhu cầu chăm sóc sức khỏe sau đột quỵ. * Xử lý số liệu: Theo các phương pháp thống kê y học, bằng phần mềm SPSS 22.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu. Bảng 1: Đặc điểm nhân chủng học. Đặc điểm n Tỷ lệ (%) p Nam 121 60,5 Giới tính Nữ 79 39,5 < 0,05 ≤ 40 0 0,0 40 - 59 53 26,5 60 - 79 110 55,0 Nhóm tuổi ≥ 80 37 18,5 < 0,05 Kết quả cho thấy, tỷ lệ nam giới nhiều hơn nữ giới, sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Dương Hữu Bắc (2018) [1], Nguyễn Văn Chương (2015) [3] và Nguyễn Ngọc Trìu (2014) [9] với tỷ lệ nam giới bị ĐQN lần lượt là 60,7%; 61,7% và 60,6%. Điều này được lý giải là do các yếu tố nguy cơ gây ĐQN thường gặp ở nam như tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng lipid máu... Lứa tuổi thường gặp từ 60 - 80, tiếp theo là 40 - 59 tuổi. Theo Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Thị Mai Dung, Nguyễn Trọng Lưu, ĐQN thường xảy ra ở lứa tuổi > 50, gặp nhiều nhất từ 60 - 79 tuổi [3, 4, 5], vì ở tuổi này, các yếu tố nguy cơ có xu hướng gia tăng, mặt khác yếu tố bảo vệ có chiều hướng suy giảm. t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020 29 Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng ĐQN. Đột quỵ nhồi máu (n = 174) Đột quỵ chảy máu (n = 26) Thể bệnh Di chứng n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Rối loạn vận động 129 74,1 24 92,3 Rối loạn cảm giác 115 66,1 23 88,4 Rối loạn ngôn ngữ 105 60,3 21 80,7 Rối loạn thị giác 50 28,7 15 57,6 Rối loạn thính giác 51 29,3 12 46,1 Rối loạn giấc ngủ 84 48,3 22 84,6 Rối loạn tâm thần 3 1,7 4 15,3 Đau đầu 86 49,4 24 92,3 Giảm trí nhớ 78 44,8 21 80,7 Sau ĐQN, BN có nhiều tổn thương thần kinh như rối loạn vận động; rối loạn cảm giác và rối loạn ngôn ngữ. Điều trị cứu sống tính mạng BN là ưu tiên hàng đầu; nhưng chăm sóc, phục hồi di chứng cho BN sau đột quỵ lại là mục tiêu rất quan trọng [4, 5]. 2. Thực trạng tái khám, tư vấn, điều trị BN sau ĐQN. Bảng 3: Đặc điểm tái khám, tư vấn, điều trị BN sau ĐQN. Chưa lần nào (n = 200) Ít nhất 1 lần (n = 200) Số lần Nội dung n % n % BN tái khám sau điều trị ĐQN 135 67,5 65 32,5 BN gọi điện cho nhân viên y tế để được tư vấn sức khỏe 155 77,5 45 22,5 Nhân viên y tế gọi điện cho BN để tư vấn sức khỏe 164 82 32 18 Nhân viên y tế trực tiếp đến gia đình BN để thăm khám, điều trị, tư vấn 181 90,5 19 9,5 Tỷ lệ tái khám thấp so với khuyến cáo của WHO, BN cần tái khám tốt nhất 1 tháng/lần, tối thiểu 3 tháng/lần [10]. Tái khám giúp thầy thuốc nhận định tình trạng bệnh, di chứng sau ĐQN để có kế hoạch điều trị, chăm sóc và phục hồi di chứng sau ĐQN. Theo Thrift A.G (Mỹ), tỷ lệ BN sau ĐQN gọi điện cho nhân viên y tế hoặc nhân viên y tế gọi điện cho BN, người chăm sóc BN ít nhất 1 tháng/lần là 86,3%; tỷ lệ này ở Na Uy là 91,6%; Pháp 77,3% [10]. Theo WHO, tốt nhất người bệnh và nhân viên y tế nên liên lạc với nhau qua điện thoại để tư vấn sức khỏe 1 tháng/lần, tối thiểu 3 tháng/lần [10]. T¹P CHÝ Y - d−îc HäC QU¢N Sù Sè 1-2020 30 Theo WHO, chăm sóc BN sau ĐQN có nhiều mô hình, phương pháp, trong đó Ngành Y tế cử các đội chăm sóc ngoại viện đến cộng đồng, vào tận gia đình chăm sóc người bệnh sau ĐQN, đây là một phương pháp hiệu quả [10]. Tuy nhiên, thực trạng phục hồi chức năng của BN điều trị ngoại trú ở khu vực thị xã Sơn Tây, Hà Nội còn thấp. Cần tăng cường hoạt động chăm sóc người bệnh sau ĐQN ngoại trú và tại cộng đồng. Tái khám, tư vấn, điều trị BN sau ĐQN đóng vai trò quan trọng, giúp người bệnh hồi phục, phòng ngừa tái phát. 3. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của BN sau ĐQN. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của BN sau ĐQN: có người chăm sóc: 104 BN (52%); tái khám: 155 BN (77,5%); tư vấn sức khỏe: 132 BN (66%); điều trị: 173 BN (86,5%); lao động: 102 BN (51%); tham gia các hoạt động xã hội: 147 BN (73,5%). Kết quả này tương đồng một phần với các nghiên cứu trước đây về nhu cầu chăm sóc sau ĐQN [5, 6]. Như vậy, phần lớn BN sau ĐQN có nhu cầu tái khám, tư vấn sức khỏe, điều trị và phục hồi di chứng rất lớn. Do đó, cần nỗ lực để đáp ứng các nhu cầu của BN, giúp BN sớm phục hồi, phòng chống tái phát, khiếm khuyết và trở lại với cộng đồng và xã hội. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 200 BN ĐQN điều trị tại Bệnh viện Quân y 105, sau ra viện cư trú tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội thấy lứa tuổi thường gặp từ 60 - 80 (55%), tiếp theo là 40 - 59 tuổi (26,5%). Tỷ lệ BN nam 60,5%, nữ 39,5%. Sau ĐQN để lại nhiều di chứng như: rối loạn vận động (76,5%); rối loạn cảm giác (68,5%) và rối loạn ngôn ngữ (63%). Sau ĐQN, tỷ lệ BN tuân thủ chế độ tái khám, tư vấn sức khỏe, điều trị thấp. 67,5% BN không thực hiện chế độ tái khám sau ĐQN, tái khám ít nhất 1 lần 32,5%. BN không gọi điện cho nhân viên y tế để được tư vấn sức khỏe 77,5%, gọi ít nhất 1 lần 22,5%; nhân viên y tế không gọi điện tư vấn sức khỏe cho BN sau ĐQN 82%, gọi ít nhất 1 lần 18%. Sau ĐQN, 90,5% nhân viên y tế không trực tiếp đến gia đình BN thăm khám, tư vấn sức khỏe, đến ít nhất 1 lần 9,5%. Sau ĐQN, BN có nhu cầu cao về chăm sóc sức khỏe, 52% BN cần có người chăm sóc, tái khám 77,5%, tư vấn sức khỏe 66%, điều trị 86,5%, lao động 51%, tham gia các hoạt động xã hội 73,5%. Cần thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe BN sau ĐQN nhằm phòng ngừa ĐQN tái phát, phục hồi chức năng, giúp BN tái hòa nhập xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Hữu Bắc, Nguyễn Ngọc Anh. Đánh giá kết quả áp dụng quy trình điều dưỡng xử trí BN ĐQN tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện TWQĐ 108. Tạp chí Y Dược Lâm sàng 108. 2018, 13, tr.6-8. 2. Mai Hồng Bàng. Điều trị và chăm sóc người bệnh ĐQN tại Bệnh viện TWQĐ 108. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. 2017, tr.10-12. 3. Nguyễn Văn Chương. Đột quỵ não. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. 2015, tr.37. t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 1-2020 31 4. Nguyễn Thị Mai Dung, Nguyễn Như Bình. Đánh giá tình hình chăm sóc và quản lý BN ĐQN tại Bệnh viện Quân y 91, Quân khu 1. Tạp chí Y Dược Lâm sàng 108. 2018, 13, tr.2-3. 5. Nguyễn Trọng Lưu. Tình hình chăm sóc và quản lý BN bị tai biến mạch máu não tại Bệnh viện Đa khoa Trà Vinh. 2010, tr.46. 6. Hồ Hữu Lương. Tai biến mạch máu não. Nhà xuất bản Y học. 1998, tr.44-67. 7. Lê Văn Thành. Bệnh thần kinh học. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh. 1998, tr.125-144. 8. Nguyễn Văn Thông. Đột quỵ não - Cấp cứu, điều trị, dự phòng. Nhà xuất bản Y học. 2005, tr.77. 9. Nguyễn Ngọc Trìu. Công tác chăm sóc phục hồi chức năng BN ĐQN tại Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 7, Quân khu 3. Hội nghị Khoa học Điều dưỡng. 2014, tr.3-8. 10. Thrift A.G, McNeil J.J, Forbes A, Donnan G.A. Risk factors for cerebral hemorrhage in the era of well-controlled hypertension. 1996, 27 (11), pp.2020-2025.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_nhu_cau_cham_soc_suc_khoe_nguoi_benh_sau_dieu_tri_d.pdf
Tài liệu liên quan