Khảo sát những yếu tố tác động đến việc cấp phát thuốc tâm thần tại tuyến xã, phường giai đoạn 2001 – 2005

Nhóm quản lý dược 100% các xã có phân công cán bộ phụ trách dược. Tuy nhiên như phần trên đã phân tích, chỉ có 52% số xã có dược sỹ trung học, trung bình 02 xã mới có một dược sỹ trung học phụ trách dược của trạm. Như chúng ta biết, việc phân cán bộ khác phụ trách dược sẽ không đảm bảo việc thực hiện công tác quản lý dược được tốt. Bởi lẽ nếu không có chuyên môn về dược thì công tác xuất, nhập và bảo quản thuốc sẽ không đảm bảo theo đúng qui định. Chính từ điều này mà phần lớn các công tác quản lý thuốc tâm thần thời gian qua tại nhiều xã phường không đạt yêu cầu. Có thể chính việc không nắm vững qui định hoặc cố tình không thực hiện đúng về quản lý dược mà có đến 15% ý kiến xác nhận công tác quản lý dược tại tuyến xã phường không được kiểm tra, đối chiếu thường xuyên. 100% ý kiến đều cho rằng thuốc điều trị tâm thần cung cấp cho tuyến xã luôn đầy đủ và kịp thời. Điều này cho thấy việc cung cấp thuốc của tuyến huyện và tuyến tỉnh luôn được đảm bảo Nhóm yếu tố tác động đến bệnh nhân Giao thông đi lại: Mặc dù trong những năm qua, phong trào xây dựng giao thông nông thôn ở Cà Mau đạt nhiều thành tựu đáng kể, hầu hết các xã và các huyện đã có đường xe 02 bánh nối với nhau, tạo thuận lợi cho người lưu thông. Tuy nhiên do đặc điểm dân cư Cà Mau sống phân tán, nên còn nhiều gia đình gặp khó khăn trong việc đi lại. Qua nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, có đến 20% ý kiến cho rằng bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân còn gặp trở ngại về giao thông trong việc đi lãnh thuốc. Điều chúng tôi không khỏi băn khoăn là có gần 42% bệnh nhân tự nhận thuốc. Bởi vì ở bệnh nhân tâm thần có đảm bảo họ giữ thuốc và uống thuốc đúng hay không? Chương trình đã qui định thuốc tâm thần phải do người nhà bệnh nhân nhận và kiểm soát bệnh nhân uống hàng ngày. Tuy nhiên, nhiều xã phường đã không thực hiện đúng qui định này, cũng như thực hiện chưa tốt công tác hướng dẫn thân nhân bệnh nhân quản lý điều trị.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát những yếu tố tác động đến việc cấp phát thuốc tâm thần tại tuyến xã, phường giai đoạn 2001 – 2005, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 1 KHẢO SÁT NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC CẤP PHÁT THUỐC TÂM THẦN TẠI TUYẾN XÃ, PHƯỜNG GIAI ĐOẠN 2001 – 2005 Trần Hiến Khóa*, Đặng Văn Bê** TÓM TẮT: Đặt vấn đề: Trước đây bệnh nhân tâm thần nhận thuốc điều trị tại tuyến huyện hoặc tỉnh. Việc nhận thuốc như thế gặp không ít khó khăn do việc đi lại không thuận lợi và tốn kém. Năm 2001, thuốc tâm thần được đưa về cấp tại tuyến xã, phường. Sau 5 năm thực hiện, thu được nhiều thuận lợi, nhưng gặp không ít khó khăn. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát những thuận lợi và khó khăn trong việc đưa thuốc tâm thần về cấp tại tuyến xã, phường, thị trấn (tuyến y tế cơ sở). Những yếu tố nào tác động tạo nên những thuận lợi, khó khăn đó. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích. Thu thập dữ liệu đặc tính của nhân viên tuyến y tế cơ sở và một số nhận xét về công tác quản lý, cấp phát thuốc tâm thần. Kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại 69 xã, phường đã triển khai cấp thuốc tâm thần,cùng 369 nhân viên y tế cho thấy: 75% trạm y tế Bác sĩ, trung bình 02 trạm có 01 dược sĩ trung học và có đến 98,7% nhân viên được hỏi đã đồng ý việc đưa thuốc tâm thần về cấp phát tại tuyến y tế cơ sở. 69,4% cho rằng nhân viên phụ trách Chương trình BVSK TT CĐ thực hiện tốt nhiệm vụ, 35,5% cho rằng nhân viên phụ trách thường thay đổi, 84,6% xác nhận có tiến hành kiểm tra, đối chiếu định kỳ, 20% cho rằng việc đi lại nhận thuốc của bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân còn gặp khó khăn. Kết luận: Tuyệt đại đa số nhân viên tuyến y tế cơ sở đồng ý và cơ sở trạm y tế cho phép việc cấp thuốc tâm thần tại tuyến cơ sở. ABSTRACT SURVEY EFFECTS OF ISSUE MENTAL DRUG AT COMMUNES, IN CA MAU PROVINCE PERIOD FROM 2001 TO 2005 Tran Hien Khoa, Dang Van Be * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 72 - 77 Background: Before mental patien reiceived drug at district and province line. That receive there was difficul very much because they traved to have not advantage and costly money. At 2001, mental drug was issued at ward line. After 5 years, there was advantage and very much difficutly Objective: Survey the advantages and difficutlies in process issue mental drug at wards line (at grassroots level line). The factors what effected those advantages and difficutlies Method: A descriptive cross-sectional and analyse study design was applied. Collect infomations of employees at grassroots leve line and the comment about manage distrisbution mental drug Result: The sample size was 69 wards deployed manage distrisbution mental drug, with 369 employees at grassroots level line. The result 75% there were doctors, 01 secondary pharmacist for each 02 wards, 98.7% employees agreed deployed manage distrisbution mental drug at at grassroots level line. 69.4% to think that agents manage to complete one’s mission; 35.5% to think that agents manage to be change, 84.6% empoyees was confirmed the mental drug to be to control and to compare periodical, 20% to think that the difficutly for the travel of patient and relative patient * Trung Tâm Phòng, Chống Các Bệnh Xã Hội tỉnh Cà Mau Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 2 Conclusion: Almost health employees at grassroots leve line agree and material facilities of medical station permit to issue mental drug at at grassroots level line. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo các nhà tâm thần học, tỷ lệ bệnh tâm thần nói chung ngày một tăng ở xã hội công nghiệp. Hay nói cách khác, xã hội càng phát triển thì tỷ lệ bệnh tâm thần càng cao. Phần lớn các rối loạn tâm thần không thể điều trị triệt để(2), do đó bệnh tâm thần luôn tăng lũy tiến qua các năm. Tại Việt Nam nói chung và Cà Mau nói riêng, phần lớn bệnh tâm thần đến với Chương trình bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng (CT. BVSKTTCĐ) là người nghèo, cuộc sống kinh tế gia đình rất khó khăn. Bệnh nhân tâm thần được Nhà nước cấp thuốc điều trị miễn phí. Trước đây bệnh nhân tâm thần nhận thuốc điều trị tại tuyến huyện hoặc tỉnh. Việc nhận thuốc tại tuyến huyện hoặc tuyến tỉnh đã gặp nhiều khó khăn cho những gia đình bệnh nhân do khó khăn về tài chính đi lại, giao thông không thuận tiện, công việc làm ăn của người đi lãnh thuốc(1). Năm 2001, CT. BVSKTTCĐ tiến hành đưa thuốc tâm thần về cấp phát cho bệnh nhân tại tuyến xã phường. Đây là một chủ trương rất tốt trong việc đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần đến gần cộng đồng hơn. Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện việc đưa thuốc tâm thần về cấp phát tại tuyến xã phường ngoài những ưu điểm về thuận lợi cho bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân cũng đã bộc lộ một số khó khăn cho tuyến y tế cơ sở trong việc quản lý, điều trị và cấp phát thuốc cho bệnh nhân. Nếu không quản lý tốt việc cấp phát thuốc điều trị bệnh tâm thần sẽ dễ đưa đến một bệnh nhân có thể nhận thuốc điều trị ở nhiều nơi. Điều này có thể đưa đến những tác hại khó lường. Không ít người làm công tác tâm thần, kể cả chuyên gia tuyến trung ương còn băn khoăn bởi câu hỏi: Có nên đưa thuốc tâm thần về cấp phát tại tuyến xã, phường không, những yếu tố nào bất lợi tác động đến công việc này Từ trước đến nay, theo chúng tôi biết được chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này, để tìm ra một giải pháp thích hợp, cho việc cấp thuốc phát thuốc tâm thần tại xã phường. Để khảo sát vấn đề trên và tạo điều kiện tốt hơn cho gia đình người bệnh, nhận thuốc và điều trị bệnh tâm thần được thuận lợi; Đồng thời, nhằm đánh giá hiệu quả việc đưa thuốc về xã - phường. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này. Câu hỏi nghiên cứu: Việc đưa thuốc điều trị bệnh tâm thần về cấp phát tại tuyến xã phường có những thuận lợi và khó khăn gì? Những yếu tố nào tác động đến những thuận lợi, khó khăn đó? Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Khảo sát sự thuận lợi và khó khăn trong việc đưa thuốc điều trị bệnh tâm thần cấp, phát tại xã, phường. Những yếu tố nào tác động tạo nên những thuận lợi, khó khăn đó. Mục tiêu cụ thể Xác định tỷ lệ đồng ý của nhân viên y tế xã, phường có đưa thuốc tâm thần về cấp phát Xác định và phân tích tỷ lệ đồng ý của nhân viên y tế xã, phường có đưa thuốc tâm thần về cấp phát theo các yếu tố như tuổi, giới, trình độ chuyên môn, nơi ở. Xác định tỷ lệ yếu tố thuận lợi và khó khăn trong việc đưa thuốc tâm thần về cấp phát, theo nhóm nhân lực, cơ sở vật chất, cung ứng và quản lý cấp phát, giao thông đi lại ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả. Đối tượng nghiên cứu Nhân viên và cơ sở trạm y tế xã, phường, thị trấn. Dân số mục tiêu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 3 Nhân viên và cơ sở trạm y tế xã phường, thị trấn. Dân số chọn mẫu Nhân viên và cơ sở trạm y tế có triển khai quản lý Chương trình theo chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 - 2005. Tất cả nhân viên y tế làm việc tại trạm y tế có thời gian công tác trên 01 năm tính đến ngày phỏng vấn. Cỡ mẫu 100% cán bộ và nhân viên y tế 69 xã phường đã triển khai việc cấp phát thuốc tâm thần tại trạm và có thời gian làm việc tại nơi được nghiên cứu từ một năm trở lên. Kết quả, chúng tôi chọn được 369 mẫu đạt yêu cần. Đây cũng là cở mẫu cho nghiên cứu này. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế bảng câu hỏi. Điều tra thử. Dùng bảng câu hỏi đã được chỉnh sửa, trực tiếp phỏng vấn đối tượng nghiên cứu. Số liệu thu thập qua bảng câu hỏi, được nhập vào máy và phân tích bằng phần mềm Epi Info 6.04c. Một số chỉ số so sánh được kiểm định bằng các test thống kê. Vấn đề y đức trong nghiên cứu này Đây là một nghiên cứu thăm dò về thực trạng hoạt động Chương trình bảo vệ sức khỏe tâm thần ở tuyến cơ sở và các vấn đề có liên quan đến công tác này. Nghiên cứu này không gây ảnh hưởng bất lợi về mặt vật chất lẫn tinh thần, cũng như sức khỏe của người tham gia, nên không vi phạm vấn đề y đức KẾT QUẢ: Bảng 1. Đặc tính của mẫu nghiên cứu: Nhóm đặc tính Đặc tính chi tiết Tần số quan sát Tỉ lệ % Nam 211 57,2 Giới Nữ 158 42,8 Dưới 30 142 38,5 Từ 30  45 218 59,1 Nhóm tuổi Trên 45 9 2,4 Bác sĩ 51 13,8 Trình độ chuyên môn Y sỹ 234 63,4 Nhóm đặc tính Đặc tính chi tiết Tần số quan sát Tỉ lệ % Dược sỹ trung học 36 9,8 Khác 48 13,0 Thành thị 314 85,1 Nơi ở Nông thôn 55 14,9 Đồng ý 361 97,8 Ý kiến về cấp phát thuốc TT tại trạm y tế Không đồng ý 8 2,2 Nam có tần số quan sát là 211, chiếm 57,2%. Nhóm tuổi từ 30 – 45 có tần số quan sát là 218 chiếm 59,1%. Về trình độ chuyên môn, Y sỹ là 234 chiếm 63,4%. Có 361 ý kiến (chiếm 97,8%) đồng ý đưa thuốc tâm thần về cấp phát tại trạm y tế tuyến xã phường. Bảng 2. Ý kiến của CBYT xã, phường phân theo giới tính Đồng ý Đặc điểm Có Không OR CI P Nam 208 3 Giới tính Nữ 153 5 2,27 0,43 -14,78 0,43 Thành thị 306 8 Nơi ở Nông thôn 55 0 0,1 – 3,36 0,23 Dưới 30 141 01 Từ 30 - 45 211 07 Độ tuổi > 45 09 00 0,25 Bác sỹ 49 02 Y sỹ 229 05 D.sỹ TH 35 01 Chuyên môn Khác 48 00 0,6 Bảng 3. Nhóm cơ sở vật chất Thuận lợi Không thuận lợi Yếu tố tác động n % n % Cơ sở trạm 369 100 00 0,0 Cán bộ đảm nhiệm tốt chương trình 256 69,4 113 30,6 Sự thay đổi CB phụ trách 238 64,5 131 35,5 Vững về chuyên môn 246 66,7 123 33,3 CB quản lý dược riêng 369 100 00 0,0 Bảo quản thuốc đạt 364 98,6 05 1,2 Cung ứng kịp thời 369 100 00 0,0 Thường kiểm tra, đối chiếu 312 84,5 57 15,5 Giao thông đi lại 298 80,7 71 19,3 Thân nhân nhận 216 58,5 153 41,5 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 4 Thuận lợi Không thuận lợi Yếu tố tác động n % n % thuốc BÀN LUẬN Đặc tính mẫu nghiên cứu Giới tính Tỷ lệ CBYT nam/nữ là 1,33/1. Dù chúng ta đã thực hiện chế độ nam nữ bình quyền khá lâu. Tuy nhiên, nam giới vẫn tham gia các hoạt động xã hội nhiều hơn nữ giới. Do vậy, trong nghiên cứu này tỷ lệ CBYT nam cao hơn nữ cũng là điều bình thường Nhóm tuổi Hơn 50% ở vào nhóm tuổi từ 30 – 45. Điều này khá phù hợp vì đây là lực lượng lao động chính trong xã hội. Hơn nữa trong những năm qua, trường THYT Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long... , đã đào tạo cho tỉnh nhà một lực lượng trung cấp y tế khá đông, lực lượng này đã về các trạm y tế xã phường một mặt bổ sung cho lực lượng cán bộ y tế cơ sở, mặt khác đã thay dần lực lượng lớn tuổi đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác. Nhóm tuổi từ 45 trở lên rất ít, do lực lượng trẻ thay thế dần, nên lực lượng trên 45 dần dần giảm đi là điều dễ hiểu Trình độ chuyên môn Phần lớn CBYT là trung cấp, trong đó y sỹ chiếm trên 60%. Trung bình mỗi trạm y tế cơ sở có khoảng 6 nhân lực, thường không quá 01 bác sỹ cho mỗi trạm, thậm chí có nhiều trạm chưa có bác sỹ vì vậy lực lượng trung cấp ở các trạm trong nghiên cứu này chiếm tỷ lệ cao là điều dễ hiểu. Chỉ có 13,8% có trình độ bác sỹ. Đến thời điểm lý tưởng, mỗi trạm y tế có từ 8 đến 10 nhân lực, trong đó có 01 bác sỹ, thì tỷ lệ bác sỹ cũng dao động quanh chỉ số này. Điều quan trọng là làm sao tất cả trạm y tế phải có bác sỹ 75,3% xã, phường có bác sỹ. Mặc dù đây là một tỷ lệ thấp, tuy nhiên nếu so với trước, thì tỷ lệ này đã phản ánh sự cố gắng rất lớn của ngành y tế Cà Mau trong việc bố trí để mỗi trạm y tế cơ sở có ít nhất 01 bác sỹ. Dược sỹ trung học rất thấp (36), trung bình 02 xã mới có 01 dược sỹ trung học. Đây là điều phòng y tế và các huyện, thành phố cần quan tâm. Bởi lẽ phụ trách công tác dược tuyến xã phải là dược trung học. Tình trạng những nơi thiếu dùng lực lượng dược sơ học hoặc cán bộ khác bố trí phụ trách dược sẽ không đảm bảo thực hiện tốt công việc được giao, đặc biệt là việc thực hiện qui chế trong xuất, nhập, bảo quản thuốc. Nơi ở Do xếp thị trấn vào khu vực thành thị nên tỷ lệ CBYT được điều tra có nơi ở là thành thị chiếm tỷ lệ khá cao (trên 85%) Ý kiến đồng thuận của CBYT tuyến xã phường. Có đến 97,8% CBYT tuyến xã phường nhất trí về việc đưa thuốc điều trị bệnh tâm thần về cấp phát tại tuyến xã phường. Điều đó cho thấy, mặc dù việc đưa thuốc điều trị bệnh tâm thần về cấp phát tại xã, phường sẽ làm cho công việc tại trạm y tế vốn bận rộn, nay sẽ bận rộn hơn. Tuy nhiên, tuyệt đại đa số CBYT được hỏi đã ý thức nhiệm vụ được giao là chăm sóc sức khỏe nhân dân một cách tốt nhất. Đặc biệt là bệnh nhân tâm thần, nhằm thực hiện tốt phương châm là cả cộng đồng cùng chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ bệnh nhân tâm thần để mau hồi phục sớm hòa nhập xã hội. Nhóm các yếu tố tác động Cở sở trạm Do ý thức được rằng thuốc điều trị bệnh tâm thần là thuốc hương thần, thuốc gây nghiện cần phải được quản lý chặt chẽ. Nên 100 lãnh đạo các trạm y tế đã bố trí tủ hoặc ngăn tủ riêng để bảo quản thuốc tâm thần. Nhóm nhân lực 52/69 xã có bác sỹ (75%), đây là một phấn đấu lớn của ngành y tế tỉnh nhà trong việc nâng dần chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân tại địa phương, hạn chế tối đa việc điều trị vượt tuyến không cần thiết. Chúng ta chắc chắn thống nhất với nhau một điều có bác sỹ sẽ hỗ trợ rất có Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 5 hiệu quả trong việc điều trị bệnh nhân tâm thần nói riêng và các chương trình y tế khác nói chung tại tuyến xã. Tuy nhiên vẫn còn ¼ (25%) số xã, phường vẫn chưa có bác sỹ. Để thực hiện tốt chiến lược chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn đến 2010 và tầm nhìn 2020, ngành y tế cần có kế hoạch tăng cường đạo tạo bác sỹ cho tuyến xã, tăng cường việc đưa bác sỹ về phục vụ tại các xã, phường đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Có 35,5% ý kiến cho rằng cán bộ phụ trách chương trình thường xuyên thay đổi. Tỷ lệ này hoàn toàn phụ hợp với quá trình theo dõi của chúng tôi. Cán bộ phụ trách chương trình muốn làm tốt phải được tập huấn kỹ và có thời gian đúc kết kinh nghiệm từ thực tế hoạt động. Việc có một lượng lớn cán bộ phụ trách chương trình thường xuyên thay đổi có do 03 lý do: đi học, thuyên chuyển công tác hoặc nghỉ việc và do sự chia tách tạo thành các xã mới. Cũng chính do thường xuyên thay đổi cán bộ phụ trách nên chỉ có 66,7% ý kiến cho rằng các cán bộ phụ trách chương trình tại các xã, phường hiện nay đảm bảo được về mặt trình độ chuyên môn. 1/3 số còn lại cần tập huấn, đào tạo lại. Nhóm quản lý dược 100% các xã có phân công cán bộ phụ trách dược. Tuy nhiên như phần trên đã phân tích, chỉ có 52% số xã có dược sỹ trung học, trung bình 02 xã mới có một dược sỹ trung học phụ trách dược của trạm. Như chúng ta biết, việc phân cán bộ khác phụ trách dược sẽ không đảm bảo việc thực hiện công tác quản lý dược được tốt. Bởi lẽ nếu không có chuyên môn về dược thì công tác xuất, nhập và bảo quản thuốc sẽ không đảm bảo theo đúng qui định. Chính từ điều này mà phần lớn các công tác quản lý thuốc tâm thần thời gian qua tại nhiều xã phường không đạt yêu cầu. Có thể chính việc không nắm vững qui định hoặc cố tình không thực hiện đúng về quản lý dược mà có đến 15% ý kiến xác nhận công tác quản lý dược tại tuyến xã phường không được kiểm tra, đối chiếu thường xuyên. 100% ý kiến đều cho rằng thuốc điều trị tâm thần cung cấp cho tuyến xã luôn đầy đủ và kịp thời. Điều này cho thấy việc cung cấp thuốc của tuyến huyện và tuyến tỉnh luôn được đảm bảo Nhóm yếu tố tác động đến bệnh nhân Giao thông đi lại: Mặc dù trong những năm qua, phong trào xây dựng giao thông nông thôn ở Cà Mau đạt nhiều thành tựu đáng kể, hầu hết các xã và các huyện đã có đường xe 02 bánh nối với nhau, tạo thuận lợi cho người lưu thông. Tuy nhiên do đặc điểm dân cư Cà Mau sống phân tán, nên còn nhiều gia đình gặp khó khăn trong việc đi lại. Qua nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, có đến 20% ý kiến cho rằng bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân còn gặp trở ngại về giao thông trong việc đi lãnh thuốc. Điều chúng tôi không khỏi băn khoăn là có gần 42% bệnh nhân tự nhận thuốc. Bởi vì ở bệnh nhân tâm thần có đảm bảo họ giữ thuốc và uống thuốc đúng hay không? Chương trình đã qui định thuốc tâm thần phải do người nhà bệnh nhân nhận và kiểm soát bệnh nhân uống hàng ngày. Tuy nhiên, nhiều xã phường đã không thực hiện đúng qui định này, cũng như thực hiện chưa tốt công tác hướng dẫn thân nhân bệnh nhân quản lý điều trị. Giá trị ứng dụng của nghiên cứu Qua nghiên cứu, chúng ta đã rút ra được 6 vấn đề có giá trị trong việc thực hiện đưa thuốc điều trị bệnh tâm thần về cấp phát tại trạm y tế xã. Đồng thời đã trả lời thõa đáng có nên đưa thuốc tâm thần về cấp phát tại trạm y tế cơ sở hay không. Từ nghiên cứu này đã làm tiền đề cho việc củng cố công tác quản lý, cấp phát thuốc các chương trình tại trạm y tế cơ sở ngày một hoàn thiện hơn. Cũng từ nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề xuất với Sở Y tế Phòng Y tế và Trung tâm YTDP các huyện thành phố một số giải pháp cho việc củng cố và phát triển các chương trình thuộc khối PCCBXH nói riêng và các trình y tế khác nói chung ngày càng vững mạnh, góp phần Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 6 hòan thành nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày một tốt hơn. KẾT LUẬN Tuyệt đại đa số (98,7%) ý kiến đồng tình trong việc đưa thuốc điều trị tâm thần về cấp phát tại trạm y tế xã. Chỉ có 75% trạm y tế xã phường trong mẫu điều tra có bác sỹ. Tỷ lệ xã có dược sỹ trung học rất thấp (52%), trung bình 02 xã mới có 01 dược sỹ trung học. Điều này có liên quan đến vấn đề quản lý thuốc tâm thần tại xã chưa đạt yêu cầu trong thời gian qua. Do luôn thay đổi, dẫn đến kiến thức chuyên môn của cán bộ quản lý chương trình tại tuyến xã phường hiện tại không vững. Một tỷ lệ không nhỏ bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân còn gặp khó khăn về việc đi lại khi nhận thuốc Còn nhiều bệnh nhân tự nhân thuốc mà đáng lẻ ra phải do người nhà nhận và quản lý. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Các cấp, các ngành tiếp tục tăng cường hỗ trợ cấp phát thuốc tâm thần tại tuyến xã, phường. Sở Y tế, Phòng Y tế có kế hoạch tăng cường đào tạo và bố trí bác sỹ, đảm bảo mỗi trạm y tế ít nhất phải có 01 bác sỹ Sở Y tế, Phòng Y tế và Trường trung học y tế có kế hoạch tăng cường đào tạo và bố trí dược sỹ trung học, đảm bảo mỗi trạm y tế có 01 dược sỹ trung học phụ trách công tác dược. Hạn chế tối đa việc thay đổi cán bộ phụ trách chương trình tuyến xã, phường. Phòng Y tế, Trung tâm YTDP huyện, thành phố cần có kế hoạch đào tạo hoặc phối hợp Chương trình tuyến tỉnh đào tạo lại cán bộ phụ trách chương trình tuyến xã, phường. Đặc biệt là các xã phường quản lý chương trình chưa đạt yêu cầu. Có kế hoạch và thường xuyên kiểm tra công tác dược tại trạm y tế xã, phường trên các lĩnh vực xuất, nhập, bảo quản. Các trạm y tế cần giải thích rõ và kiên quyết không để bệnh nhân tự nhận thuốc, để hạn chế việc bệnh nhân có thể dùng thuốc quá liều. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Viết Nghị (2000). Hướng dẫn chẩn đoán và quản lý các rối loạn tâm thần trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nhà xuất bản Hygrefe và Huber. 2. Trần Quốc Việt (2003). Một số quan điểm về bệnh sinh tâm thần phân liệt. Tập san chuyên ngành tâm thần của Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 số 37, quý II, năm 2003. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng và Y Học Dự Phòng 8

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_nhung_yeu_to_tac_dong_den_viec_cap_phat_thuoc_tam_t.pdf
Tài liệu liên quan