Khảo sát nồng độ Oestrogen trên bệnh nhân nữ lao phổi

Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận bệnh nhân nữ mắc lao phổi tập trung chủ yếu ở lứa tuổi 30 – 49 (16 trường hợp, 66,8%). Tuổi trung bình 38,2. Điều này cũng phù hợp trong y văn(3,4). Ngoài ra, trong các phản ứng phụ xảy ra trong quá trình điều trị lao ở bệnh nhân nữ thì biểu hiện thay đổi tình dục là gặp nhiều nhất (75%), nhiều hơn so với các phản ưng phụ khác. Biểu hiện tăng ham muốn về tình dục xảy ra trong quá trình điều trị lao nhiều hơn so với thời điểm trước khi điều trị lao cũng như sau khi điều trị lao. Điều này cũng tương ứng với sự gia tăng lượng estradiol/máu trong suốt thời gian điều trị lao và tăng cao điểm sau 6 tháng điều trị. Sau đó, lượng estradiol/máu giảm dần về trị số ban đầu sau khi chấm dứt điều trị lao. Các biểu đồ trên cũng đã cho thấy rõ điều đó. Sự thay đổi lượng estradiol/máu thấy rõ nhất ở lứa tuổi từ 30 – 49. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi bước đầu ghi nhận sự thay đổi khả năng tình dục xảy ra tương ứng cùng với sự thay đổi nồng độ estradiol/máu. Do điều kiện khách quan và chủ quan, chúng tôi chưa thể lý giải được sự thay đổi của hiện tượng này. Tuy nhiên, chúng tôi ghi nhận sự thay đổi nồng độ estradiol/máu xảy ra theo từng thời điểm của quá trình điều trị, tức là thuốc lao có ảnh hưởng đến sự thay đổi nồng độ estradiol/máu. Nhưng một vấn đề được đặt ra: trong các thuốc kháng lao đã được sử dụng, thuốc nào đã gây nên sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu?. Như chúng ta đã biết, Rifampicin là chất chiết xuất bán tổng hợp của Rifampicin B, là kháng sinh được phân lập từ nấm Streptomyces Mediterranei. Rifampicin thường gây phản ứng phụ như nổi mẩn ngoài da, sốt, ói, viêm gan. PZA là chất tổng hợp tương tự nicotinamide. PZA có độc tính trên gan và can thiêp vào quá trình bài tiết ra urate. Do đó,viêm khớp là biến chứng thường gặp nhất của PZA. Và INH là hóa chất tổng hợp vào năm 1912 ở Prague. Thuốc sau khi uống vào được phân bố khắp cơ thể. Nồng độ thuốc trong dịch não tủy bằng 1/5 nồng độ thuốc trong huyết tương. INH tăng thải Pyridoxine qua nước tiểu nên có thể gây viêm thần kinh ngoại biên, gây độc gan, và một số phản ứng về tâm thần Theo điều trị lao trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phác đồ hai tháng tấn công bằng RHZ, sau đó chuyển sang điều trị duy trì bằng RH trong 6 tháng (ngưng dùng PZA). Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ estradiol/máu vẫn tiếp tục gia tăng cao cho đến khi tháng thứ 8 của điều trị lao và sau đó nồng độ estradiol/máu có khuynh hướng giảm dần về trị số ban đầu như trước khi điều trị lao. Như vậy, sự thay đổi nồng độ estradiol/máu chỉ có liên quan đến hai thuốc R và/hoặc H mà không liên quan đến PZA. Để có thể xác định một cách chính xác sự thay đổi estradiol/máu là do R hay do H hay do cả hai, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này trong thời gian tới.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát nồng độ Oestrogen trên bệnh nhân nữ lao phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 1 KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ OESTROGEN TRÊN BỆNH NHÂN NỮ LAO PHỔI Trần Minh Trúc Hằng* – Ngô Thanh Bình* TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu trên bệnh nhân nữ được chẩn đoán lao phổi và được điều trị lao. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang phân tích Kết quả: Từ 01/2007 đến 01/2008, có 24 trường hợp bệnh nhân nữ đã được chẩn đoán xác định lao phổi và được điều trị lao với phác đồ 2RHZ/6HR. Tuổi trung bình 38,2 (25 – 68 tuổi). Tập trung nhiều nhất từ 30 – 49 tuổi (66,8%). Tất cả các trường hợp đều đã lập gia đình. Trong quá trình điều trị lao, phản ứng phụ xảy ra nhiều nhất là biểu hiện tăng khả năng ham muốn tình dục (75%). Hiện tượng này xảy ra song hành với sự gia tăng của estradiol trong máu. Mặt khác, chúng tôi ghi nhận sau giai đoạn tấn công (ngưng PZA, chỉ còn sử dụng R và H trong giai đoạn duy trì), ham muốn tình dục và lượng estradiol trong máu vẫn tiếp tục tăng cao. Sau đó, khi ngưng điều trị lao, hiện tượng này và lượng estradiol trong máu giảm cùng lúc về với trị số ban đầu như trước khi điều trị lao. Điều này chứng tỏ R và H tác động đến sự thay đổi nồng độ estradiol/máu trong quá trì nh trong và sau khi điều trị lao. Kết luận: sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu trên bệnh nhân nữ lao phổi bị tác động bởi R và H trong quá trình điều trị lao. ABSTRACT SURVEY OF CONCENTRATION OF OESTROGEN IN BLOOD IN WOMEN PATIENTS WITH PULMONARY TUBERCULOSIS Tran Minh Truc Hang, Ngo Thanh Binh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 152 - 156 Objective: to study the change of concentration of estradiol in blood in women patients who were diagnosed pulmponary tuberculosis (TB) and were treated with antituberculous drugs. Method: analytical cross-sectional study. Results: From 01/2007 to 01/2008, there were 24 women patients who were diagnosed pulmonary TB and were treated with 2RHZ/6HR. Their average age was 38.2 (range, 25 – 68). the most common age were from 30 – 49 (66.8%). All were got married. In the TB treatment, the most common side-effect was the increase of libido in the women (75%). This phenomenon took place at the same time of the increase of estradiol in blood. On the other hand, after intial phase of the TB treatment (stop PZA, only use R and H in the continuing phase), libido and estradiol in blood still continued to increase. Then, when completing of the TB treatment, both returned concurrently to the previous situation (before treating TB drugs). As a result, R and H influenced to the chang of concentration of estradiol in blood in the TB treatment. Conclusion: the chang of concentration of estradiol in blood in women patients with pulmonary TB was involved by R and H in the TB treatment. * Bộ Môn Lao và Bệnh phổi – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 2 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh lao có một lịch sử lâu đời và kéo dài đến tận ngày nay. Bệnh lao đã được ghi nhận trong y văn của Ai Cập, Ấn Độ và Trung Quốc từ rất lâu, cách nay từ 5.000 năm, 3.300 năm và 2.300 năm(3,4,9). Bệnh lao đã tác động đáng kể không những đến sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến các khía cạnh đời sống sinh hoạt của con người. Các phác đồ điều trị lao thường kéo dài đến 8 tháng. Các tác dụng phụ của thuốc kháng lao cũng thường xảy ra và rất đa dạng(1,2,5-8,10,11). Tuy nhiên qua tham khảo nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng như tại Việt nam chưa thấy đề cập đến tác dụng phụ của thuốc kháng lao gây rối loạn về nội tiết ở bệnh nhân nữ được điều trị lao. Qua quan sát một vài trường hợp trên lâm sàng, chúng tôi có ghi nhận ban đầu có sự biểu hiện về thay đổi khả năng tình dục xảy ra ở các bệnh nhân nữ trong quá trình điều trị lao. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu định lượng estradiol trong máu nhằm mong muốn tìm câu trả lời về sự thay đổi này. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả các trường hợp nữ mắc lao phổi đã được chẩn đoán và điều trị tại phòng khám phổi, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ 01/2007 đến 01/2008, đều được định lượng estradiol trong máu với thời gian theo dõi trung bình là 9 tháng. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang Phương pháp tiến hành nghiên cứu Bệnh nhân nữ sau khi được chẩn đoán chính xác lao phổi và tiến hành điều trị lao với phác đồ 2RHZ/6HR. Ngoài các xét nghiệm tầm soát giúp chẩn đoán bệnh cũng như xét nghiệm giúp đánh giá, theo dõi trong quá trị điều trị lao, chúng tôi tiến hành đo lượng estradiol trong máu của các bệnh nhân này vào các thời điểm sau: trước khi điều trị lao, sau khi điều trị lao được 1 tháng, 2 tháng, 6 tháng, 8 tháng và sau khi ngưng điều trị lao 1 tháng. Vì nồng độ estradiol trong máu thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt nên chúng tôi tiến hành đo estradiol của tất cả bệnh nhân vào giữa chu kỳ kinh nguyệt. Riêng đối với các trường hợp mãn kinh thì đo ở bất kỳ thời điểm nào trong tháng. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân chưa lập gia đình Bệnh nhân đang mắc các bệnh lý nội khoa nặng gây suy gan, suy thận, suy hô hấp cấp, suy tim, rối loạn đông máu, đái tháo đường và nhiễm HIV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ 01/2007 đến 01/2008, chúng tôi thu dung được 24 trường hợp bệnh nhân nữ đã được chẩn đoán xác định lao phổi và được điều trị lao với phác đồ 2RHZ/6HR. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân: Bảng 1: Đặc điểm tuổi của nhóm nghiên cứu Tuổi Số trường hợp Tỉ lệ (%) < 30 4 16,6 30 – 39 9 37,5 40 – 49 7 29,3 ≥ 50 4 16,6 Tuổi nhỏ nhất là 25 và lớn nhất là 68. Tuổi trung bình 38,2. Tập trung nhiều nhất từ 30 – 49 tuổi (16 trường hợp, 66,8%) Các phản ứng phụ của thuốc kháng lao: Bảng 2: Các phản ứng phụ của thuốc kháng lao Lứa tuổi Các phản ứng phụ N < 30 30 – 39 40 – 49 ≥ 50 Chán ăn 1 0 0 1 0 Ói – Buồn ói 5 1 3 1 0 Ngứa – đỏ da 1 0 1 0 0 Mất ngủ 4 0 0 2 2 Thay đổi về tình dục 18 3 7 6 2 Phản ứng phụ của thuốc kháng lao gặp nhiều nhất ở bệnh nhân nữ là thay đổi về tình dục (18 trường hợp, chiếm 75%), trong đó tập trung nhiều ở lứa tuổi từ 30 – 49 tuổi. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 3 Sự thay đổi về trị số trung bình của estradiol của nhóm nghiên cứu Bảng 3: Bảng theo dõi kết quả trị số trung bình của estradiol của nhóm nghiên cứu trước, trong và sau khi điều trị lao. Lứa tuổi Trước khi điều trị lao Sau điều trị lao 1 tháng Sau điều trị lao 2 tháng Sau điều trị lao 6 tháng Sau điều trị lao 8 tháng Sau khi ngưng điều trị lao 1 tháng < 30 379,75 401,50 434,25 459,75 462,50 394 30 – 39 382,78 408,89 422,11 433,89 446,67 350 40 – 49 188,43 268 272,43 278 307,14 238 ≥ 50 80,5 88 101 112 129 86,75 Trong thời gian điều trị lao chỉ số estradiol/máu đều tăng cao hơn so với lúc trước khi điều trị lao, cũng như cao hơn so với thời gian sau điều trị lao 1 tháng. Đồng thời, chỉ số estradiol/máu đều tăng theo thời gian điều trị lao và khi ngưng điều trị lao, các chỉ số estradiol/máu có khuynh hướng trở về bình thường. Điều này xảy ra tương tự nhau ở tất cả các lứa tuổi. Ở nữ, trị số bình thường của estradiol/máu là: 6 (pg/ml) Ở thời kỳ có kinh nguyệt: Giai đoạn nang tố: estradiol 39 – 189 pg/ml Giai đoạn giữa chu kỳ: 94 – 508 pg/ml Giai đoạn hoàng thể: 48 – 309 pg/ml Thời kỳ mãn kinh: < 20 – 41 pg/ml * Các sơ đồ theo dõi sự thay đổi estradiol theo từng lứa tuổi trong nhóm nghiên cứu: Trước khi điều trị lao Sau khi điều trị lao 1 tháng Sau khi điều trị lao 2 tháng Sau khi điều trị lao 6 tháng Sau khi điều trị lao 8 tháng Sau khi ngưng điều trị lao 1 tháng Nhóm b?nh nhân dư?i 30 tu?i 380 394 402 434 460 463 0 100 200 300 400 500 I II III IV V VI Th?i gian Tr u n g bì n h e st ra di ol Biểu đồ 1: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân < 30 tuổi 383 409 422 434 447 350 0 50 100 150 200 250 300 350 400 450 500 I II III IV V VI Th?i gian Tr u n g bì n h es tr ad io l Biểu đồ 2: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân 30 – 39 tuổi 188 268 272 278 307 238 0 50 100 150 200 250 300 350 I II III IV V VI Th?i gian Tr u n g bì nh es tr ad io l Biểu đồ 3: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân 40 – 49 tuổi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 4 81 88 101 112 129 87 0 20 40 60 80 100 120 140 I II III IV V VI Th?i g ian Tr u n g bì n h e st ra di o l Biểu đồ 4: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi BÀN LUẬN Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận bệnh nhân nữ mắc lao phổi tập trung chủ yếu ở lứa tuổi 30 – 49 (16 trường hợp, 66,8%). Tuổi trung bình 38,2. Điều này cũng phù hợp trong y văn(3,4). Ngoài ra, trong các phản ứng phụ xảy ra trong quá trình điều trị lao ở bệnh nhân nữ thì biểu hiện thay đổi tình dục là gặp nhiều nhất (75%), nhiều hơn so với các phản ưng phụ khác. Biểu hiện tăng ham muốn về tình dục xảy ra trong quá trình điều trị lao nhiều hơn so với thời điểm trước khi điều trị lao cũng như sau khi điều trị lao. Điều này cũng tương ứng với sự gia tăng lượng estradiol/máu trong suốt thời gian điều trị lao và tăng cao điểm sau 6 tháng điều trị. Sau đó, lượng estradiol/máu giảm dần về trị số ban đầu sau khi chấm dứt điều trị lao. Các biểu đồ trên cũng đã cho thấy rõ điều đó. Sự thay đổi lượng estradiol/máu thấy rõ nhất ở lứa tuổi từ 30 – 49. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi bước đầu ghi nhận sự thay đổi khả năng tình dục xảy ra tương ứng cùng với sự thay đổi nồng độ estradiol/máu. Do điều kiện khách quan và chủ quan, chúng tôi chưa thể lý giải được sự thay đổi của hiện tượng này. Tuy nhiên, chúng tôi ghi nhận sự thay đổi nồng độ estradiol/máu xảy ra theo từng thời điểm của quá trình điều trị, tức là thuốc lao có ảnh hưởng đến sự thay đổi nồng độ estradiol/máu. Nhưng một vấn đề được đặt ra: trong các thuốc kháng lao đã được sử dụng, thuốc nào đã gây nên sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu?. Như chúng ta đã biết, Rifampicin là chất chiết xuất bán tổng hợp của Rifampicin B, là kháng sinh được phân lập từ nấm Streptomyces Mediterranei. Rifampicin thường gây phản ứng phụ như nổi mẩn ngoài da, sốt, ói, viêm gan. PZA là chất tổng hợp tương tự nicotinamide. PZA có độc tính trên gan và can thiêp vào quá trình bài tiết ra urate. Do đó,viêm khớp là biến chứng thường gặp nhất của PZA. Và INH là hóa chất tổng hợp vào năm 1912 ở Prague. Thuốc sau khi uống vào được phân bố khắp cơ thể. Nồng độ thuốc trong dịch não tủy bằng 1/5 nồng độ thuốc trong huyết tương. INH tăng thải Pyridoxine qua nước tiểu nên có thể gây viêm thần kinh ngoại biên, gây độc gan, và một số phản ứng về tâm thần Theo điều trị lao trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phác đồ hai tháng tấn công bằng RHZ, sau đó chuyển sang điều trị duy trì bằng RH trong 6 tháng (ngưng dùng PZA). Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ estradiol/máu vẫn tiếp tục gia tăng cao cho đến khi tháng thứ 8 của điều trị lao và sau đó nồng độ estradiol/máu có khuynh hướng giảm dần về trị số ban đầu như trước khi điều trị lao. Như vậy, sự thay đổi nồng độ estradiol/máu chỉ có liên quan đến hai thuốc R và/hoặc H mà không liên quan đến PZA. Để có thể xác định một cách chính xác sự thay đổi estradiol/máu là do R hay do H hay do cả hai, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này trong thời gian tới. KẾT LUẬN Hóa trị liệu lao là chìa khóa của sự lành bệnh lao. Tuy nhiên, với kết quả nghiên cứu của chúng tôi bước đầu ghi nhận sự thay đổi nồng độ estradiol/máu chỉ có liên quan đến hai thuốc R và/hoặc H. Từ đó dẫn đến sự thay đổi khả năng tình dục cho bệnh nhân trước, trong và sau khi điều trị lao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. CDC (1998), “Prevention and treatment of tuberculosis: Principles of therapy and revised recommendations”, MMWR, 47CRR(20), pp.1 – 51 2. Forget E.J., Menzies D. (2006), “Adverse reactions to first-line antituberculosis drugs”. Expert Opin Drug Saf, (5), pp. 231-49 3. Fraser and Pare (2005), “Infectious Diseases of the Lung: Mycobacteria”, Synopsis of Diseases of the chest, pp. 315 – 321. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 5 4. Gordin F. (1999), “Mycobacterium tuberculosis”, AIDS Therapy, pp. 359 – 374 5. Iseman M.D. (2000), “Tuberculosis chemotherapy, Including Directly observed therapy” pp 271 – 316. 6. Pedro Almeida da Silva and J. A. Aínsa (2007), “Drugs and Drug Interactions”, Textbook of tuberculosis, pp.593-634. 7. Philip C. Hopewell (2006), “Treatment of Tuberculosis”, Reichman and Hershfield's Tuberculosis: A Comprehensive, International Approach, pp 183-214. 8. Small P.M., and sepcer V.M. (2001), “Dosages and adverse reactions of anti- tuberculosis drugs”, Chemotherapy of tuberculosis pp. 200 -210. 9. Sylvia C.Leao and Francoise Portaels, “History”, Textbook of Tuberculosis 2007, pp.25-51. 10. WHO/ TB/ 04 (2004), “treatment of tuberculosis: Guideline for National programmes” 11. World Health Organization (2007) Global tuberculosis control: surveillance, planning, financing. WHO report 2007. Geneva, (WHO/HTM/TB/2007.376). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 6 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 7

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_nong_do_oestrogen_tren_benh_nhan_nu_lao_phoi.pdf
Tài liệu liên quan