Kiểu rối loạn sắc giác thường gặp
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng ở
giai đoạn cấp,kiểu rối loạn thường gặp nhất là
vàng-xanh da trời. Ơ’thời điểm hồi phục sau 6
tuần điều trị thì kiểu rối loạn trục không chọn lọc
thường gặp hơn và sau 3 tháng điều trị thì kiểu
đỏ-xanh lá thường gặp hơn. Tuy nhiên, cả 3 kiểu
rối loạn này đều thấy ở giai đoạn cấp, sau 6 tuần
và sau 3 tháng.
So với nghiên cứu Barrett Katz.MD và nghiên
cứu của Marilyn ES, Gurilla HP thì trong giai đoạn
cấp rối loạn trục vàng-xanh da trời thường gặp hơn
và sau 6 tháng thì rối loạn đỏ-xanh lá thường gặp
hơn. Như vậy, kết quả của chúng tôi là phù hợp.
Mối liên quan giữa thị lực và sắc giác
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy trong
VTKT có mối tương quan giữa thị lực logMar
và giá trị TES cả 3 lần khám: cấp, sau 6 tuần,
sau 3 tháng có ý nghĩa thống kê. Đây là mối
tương quan nghịch chiều mức độ trung bình.Có
nghĩa là thị lực logMar tăng thì giá trị TES
giảm hay thị lực tăng thì RLSG giảm.
So với nghiên cứu của Mérgge MJ và CS,
dùng hệ số tương quan Spearmen thấy rằng thị
lực logMar và giá trị TES có mối tương quan
nghịch chiều mức độ trung bình. Như vậy, nghiên
cứu chúng tôi phù hợp.
Thay đổi RLSG theo thời gian
Kiểu RLSG thay đổi theo thời gian hồi phục
bệnh VTKT, sự thay đổi trục được thấy rõ ở bệnh
nhân có rối loạn trục vàng-xanh da trời so với các
trục khác sau 3 tháng điều trị có ý nghĩa thống kê
(với ?2 = 15,85, p < 0,001). Ở bệnh nhân có rối
loạn trục vàng-xanh da trời ở giai đoạn cấp
chuyển sang trục không chọn lọc có thể hiểu là
gia tăng điểm lỗi ở phần đỏ-xanh lá lên hay giảm
điểm lỗi ở phần vàng-xanh da trời hoặc có thể
thay đổi thật sự kiểu rối loạn.
Theo nghiên cứu của Barrett Katz; Marilyn
ES và Gunilla HP cũng báo cáo RLSG thay đổi
theo thời gian thì nghiên cứu của chúng tôi phù
hợp.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát rối loạn sắc giác ở bệnh lý thần kinh thị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007
Mắt 247
KHẢO SÁT RỐI LOẠN SẮC GIÁC Ở BỆNH LÝ THẦN KINH THỊ
Lê Minh Thông*, Lê Thị Diệu Hiền**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu rối loạn sắc giác (RLSG) ở bệnh nhân viêm thần kinh thị bằng 2 test sắc giác
Farnsworth D15 và Farnsworth 100 hue test trong giai đoạn cấp, sau 6 tuần và sau 3 tháng điều trị.
Thiết kế: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả, cắt dọc hàng loạt ca không so sánh.
Phương pháp: Những bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị viêm thần kinh thị một mắt tại khoa thần
kinh nhãn khoa, BV mắt TPHCM từ tháng 4/2005 – 4/2006.
Kết quả: Có 34 bệnh nhân tuổi trung bình 34,29 ± 10,34 (nhỏ nhất 18, lớn nhất 50). Ở giai đoạn cấp có
31 (91,2%) bệnh nhân RLSG và kiểu rối loạn thường gặp là vàng – xanh da trời. Sau 6 tuần điều trị có 23
(67,6%) bệnh nhân RLSG và kiểu rối loạn thường gặp là trục không chọn lọc. Sau 3 tháng điều trị còn 13
(38,2%) bệnh nhân RLSG và kiểu rối loạn đỏ – xanh lá thường gặp hơn. Test Ishihara bất thường ở 21
(61,8%) bệnh nhân, test F15 bất thường ở 28 (82,4%) bệnh nhân, test F100 bất thường ở 31 (92,1%) bệnh
nhân. Ngoài ra, test F100 phát hiện được RLSG nhẹ và ngay cả thị lực 10/10 vẫn phát hiện được. Bệnh
nhân có thể chuyển đổi các kiểu rối loạn sắc giác theo thời gian. Có sự tương quan ngược chiều giữa thị lực
và rối loạn sắc giác.
Kết luận: Trái với các hiểu biết lâm sàng thường thấy, viêm thần kinh thị không đặc trưng bởi rối loạn
đỏ – xanh lá chọn lọc. Kiểu rối loạn sắc giác của viêm thần kinh thị phụ thuộc vào thời điểm khám sắc giác
lúc nào trong quá trình diễn tiến bệnh là cấp tính hay hồi phục. Kiểu rối loạn sắc giác không thể được dùng
để chẩn đoán phân biệt viêm thần kinh thị.
ABSTRACT
STUDY THE COLOUR VISUAL DEFECTS IN THE PATIENTS OF THE OCULAR NEURITIS
Le Minh Thong, Le Thi Dieu Hien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 1 - 2007: 246 – 251
Purpose: Study the colour visual defects in the patients of the ocular neuritis with the Farnsworth D15
and Farnsworth 100 test at the acute period of disease, after 6 weeks and after 3 months of treatment.
Construction: the longitudinal prospective study with the description of the cases without comparison.
Methods: The patients with the diagnosis of ocular neuritis at the one eye, treated in the Department of
oculo-neuropathy at HCM city Ophthalmology Hospital from April 2005 to April 2006.
Results: There are 34 patients with the mean age 34.29 ± 10.34 (lowest: 18 ys, highest: 50 ys). At the
acute period of disease, there are 31 (91.2%) patients with the colour visual defects and the yellow-blue
defect is the most common. After 6 weeks of treatment, there are 23 (67.6%) patients with the colour visual
defects and the most common defect is non-selective axis. After 3 months, we have only 13 (38.2%) patients
with the colour visual defects and the red – green defect is often more than the others. The Ishihara Test is
abnormal in 21 patients (61.8%). There are 28 (82.4%) patients with the abnormal F15 test, 31 (91.2%)
patients with F100 test. Moreover, the F100 test can detect the mild colour visual defects and even at the
acuity 10/10. The colour visual defects can change to the time.
There is the inversive relation between the acuity and the colour visual defects.
Conclusions: In the contraction with usual clinical knowledge, the ocular neuritis is not characteristic
with selective red – green defects. The type of the colour visual defect depends on the time of the
examination, on the procedure of disease (acute or recovery period). We can’t use the presentation of the
colour visual defects to diagnose the differentiation of the ocular neuritis.
*Bộ môn Mắt Đại Học Y Dược TPHCM
** Khoa Mắt – Bệnh viện Nguyễn Trãi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 248
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sắc giác là một trong những chức năng quan
trọng và phức tạp của thị giác, rối loạn sắc giác đã
được ghi nhận như là một dấu hiệu sớm, có giá trị
trong việc chẩn đoán và ngăn chặn các tổn hại
thêm nữa trong bệnh lý võng mạc và thần kinh thị
như bệnh viêm thần kinh thị, glaucoma, bệnh hắc
võng mạc trung tâm, thanh dịch, bệnh lý võng
mạc tiểu đường ... bệnh lý nhiễm độc thần kinh
thị do thuốc: Ethambutol, Digitalis, chloroquine ...
Bệnh viêm thần kinh thị thướng gặp ở lứa tuổi
20-50 tuổi, đây là lứa tuổi lao động chính với
giảm thị lực đột gnột và có rối loạn sắc giác, làm
mất khả năng làm việc tối đa, gây ảnh hưởng
không ít đến năng suất và thành quả lao động.
Đất nước ta hiện nay ngày càng phát triển, một
số ngành nghề đòi hỏi những chức năng thị giác cao,
trong đó có sắc giác. Theo chúng tôi được biết,
những công trình nghiên cứu ở nước ta về rối loạn
sắc giác mắc phải còn rất ít. Đặc biệt ở nước ta chưa
có công trình nghiên cứu nào về rối loạn sắc giác ở
bệnh nhân viêm thần kinh thị bằng test F100.
Năm 1912, “Luật Kollner” nói rằng rối loạn
đỏ – xanh lá gặp ở bệnh lý thần kinh thị và rối
loạn vàng – xanh da trời gặp ở bệnh lý võng mạc.
Theo những nghiên cứu gần đây thì “Luật
Kollner” có thể không còn đúng nữa.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên,
chúng tôi đặt ra vấn đề nghiên cứu: “ Khảo sát rối
loạn sắc giác ở bệnh lý viêm thần kinh thị” bằng
2 test mới Farnsworth D15 và Farnsworth 100 hue
test. Qua đó đánh giá vai trò sắc giá trong chẩn
đoán và theo dõi bệnh viêm thần kinh thị.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị viêm
thần kinh thị cấp một mắt tại Khoa Thần kinh
nhãn khoa BV Mắt TPHCM từ tháng 4/2005 –
4/2006.
Tiêu chuẩn loại trừ
+ Các bệnh lý ảnh hưởng đến sắc giác: bệnh
lý võng mạc tiểu đường, bệnh viêm võng mạc sắc
tố, Glaucoma...
+ Bệnh mù màu bẩm sinh
+ Bệnh nhân có dùng thuốc ảnh hưởng đến
sắc giác thì: Ethambutol, Chloroquine...
+ Bệnh nhân không hợp tác.
Phương tiện nghiên cứu
Bảng thị lực Snellen, Bộ test sắc giác
Ishihara,, Bộ test sắc giác Farnsworth D15, Bộ
test sắc giác Farnsworth 100 hue test.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu theo phương pháp mô tả tiền cứu,
cắt dọc hàng loạt ca, không so sánh và có phân
tích.
Cở mẫu
Cở mẫu được tính theo công thức:
2
α 2
1 -
2
p(1 - p)
n = Z ×
d
Độ tin cậy = 95%, trị số Z = 1,96.
Sai số ước lượng: d = 8%.
Tỷ lệ rối loạn sắc giác dự kiến: p = 94% (theo
nhóm nghiên cứu VTTK
(42)
)
Tính ra cỡ mẫu: N = 34
Phương pháp tiến hành
Những bệnh nhân được chẩn đoán viêm thần
kinh thị cấp một bên với các triệu chứng về mắt
trong vòng 14 ngày, bệnh nhân được khám mắt để
loại trừ những bệnh lý tại mắt có thể ảnh hưởng
đến thị lực và sắc giác và để ghi nhận thị lực, sắc
giác tại thời điểm cấp, sau đó được theo dõi tái
khám định kỳ để theo dõi thị lực và sắc giác 6
tuần và 3 tháng sau điều trị.
Sắc giác
Sắc giác được đánh giá bằng test Ishihara,
Farnsworth D15 và Farnsworth 100. Bệnh nhân
được xem là rối loạn sắc giác khi có 1 trong 3 test
sắc giác dương tính.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007
Mắt 249
Tiêu chuẩn dương tính của 3 test sắc giác:
Bảng 1: Tiêu chuẩn dương tính củaa các test sắc
giác
Test Tiêu chuẩn dương tính
Ishihara
F15
F100
≥ 2 bảng màu bị đọc sai
≥ 2 đường chéo lớn đi qua trung tâm vòng tròn
≥ trung bình + 2 độ lệch chuẩn theo nhóm tuổi
Tiêu chuẩn tính trục đối với test F100 và F15:
có 3 trục chính là Protan, Deutan, Tritan.
Xử lý và phân tích số liệu
Xứ lý và phân tích số liệu bằng chương trình
SPSS for window 11.5
KẾT QUẢ
Chúng tôi khảo sát được 34 mắt/ 34 bệnh
nhân. Tuổi trung bình 34,29 ± 10,34 (nhỏ nhất 18,
lớn nhất 50). Thị lực ở giai đoạn cấp thì 100% đều
giảm thị lực và thị lực phục hồi sau 6 tuần, sau 3
tháng (p<0,001 – test t bắt cặp).
Đặc điểm về sắc giác
Vào thời điểm cấp có 31 (91,2%) bệnh nhân
rối loạn sắc giác, sau 6 tuần điều trị có 23 (67,6%)
bệnh nhân rối loạn sắc giác, và sau 3 tháng điều
trị còn 13 (38,2%) bệnh nhân rối loạn sắc giác.
Bảng 2: Tần số RLSG được phát hiện qua 3 test ở
từng thời điểm khám
RLSG
F100 F15 Ishihara
n % n % n %
Nhập viện 31 91,2 28 82,4 21 61,8
6 tuần 23 67,2 21 61,8 17 50,0
3tháng 13 38,2 8 23,5 7 20,6
Ở thời điểm cấp, 3 test có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với 2 = 9,16, p = 0,01 (p<0,05).
Test F100 phát hiện RLSG tốt hơn test F15 và test
Ishihara. Trong khi sau 6 tuần và 3 tháng thì
không có sự khác biệt giữa 3 test với p > 0,05.
Mối liên quan giữa thị lực và sắc giác
Bảng 3: Hệ số tương quan giữa thị lực LogMar và
giá trị TES
logMar TL
TES
r p
Nhập viện - o,362 0,02
6 tuần - 0,463 0,003
3 tháng - 0,546 < 0,001
Trong viêm thần kinh thị, có tương quan thị
lực logMar và giá trị TES. Lúc nhập viện, hệ số
tương quan r = - 0,362, p = 0,02. Sau 6 tuần, r = -
0,463, p = 0,003. Sau 3 tháng, r = - 0,546, p <
0,001. Đây là mối tương quan nghịch chiều mức
độ trung bình, có nghĩa là thị lực logMar tăng thì
giá trị TES giảm ở mắt bệnh, đồng nghĩa với thị
lực tăng thì rối loạn sắc giác giảm.
Sự thay đổi kiểu rối loạn sắc giác theo thời
gian
Bảng 4: Sự thay đổi kiểu RLSG giữa thời điểm cấp
và sau 6 tuần
Sắc giác ở thời điểm sau 6 tuần Tổng số
RLSG ở
thời điểm
cấp
BY (n) RG (n) NS (n) N (n)
BY (n) 3 1 4 5 13
RG (n) 1 3 4 1 9
NS (n) 0 2 5 2 9
N (n) 0 0 0 3 3
Tổng số
RLSG 6 tuần
4 6 13 11 34
*
BY: Rối loạn sắc giác vàng – xanh da trời, RG:
RL đỏ – xanh lá, NS: Rối loạn trục không chọn lọc,
N: bình thường.
Trong thời gian cấp thì kiểu rối loạn sắc giác
vàng – xanh da trời thường gặp nhất là 13 bệnh
nhân và sau 6 tuần thì kiểu rối loạn trục không
chọn lọc thường gặp hơn là 13 bệnh nhân.
Trong số 13 bệnh nhân rối loạn vàng – xanh
lá ở giai đoạn cấp thì sau 6 tuần có 5 bệnh nhân
không còn rối loạn sắc giác, có 4 bệnh nhân trục
không chọn lọc, có 1 bệnh nhân trục đỏ - xanh lá
và 3 bệnh nhân không đổi trục. Không có sự khác
biệt về thay đổi và không thay đổi trục sau 6 tuần
với 2 = 0,62, p = 0,43 (p> 0,05).
Trong số 9 bệnh nhân rối loạn đỏ – xanh lá ở
thời điểm cấp, sau 6 tuần thì có 1 bệnh nhân
không RLSG, có 4 bệnh nhân trục không xác
định, 1 bệnh nhân trục vàng-xanh da trời và 3
bệnh nhân không thay đổi trục. Không có sự khác
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 250
biệt về thay đổi và không thay đổi trục sau 6 tuần
với 2 = 3,8, p = 0,052 (p> 0,05).
Trong số 9 bệnh nhân có rối loạn trục không
xác định ở thời điểm cấp, sau 6 tuần thì có 2 bệnh
nhân không RLSG, có 2 bệnh nhân trục đỏ - xanh
lá và 5 bệnh nhân không thay đổi trục. Không có
sự khác biệt về thay đổi và không thay đổi trục
với 2 = 3,25, p = 0,07 (p> 0,05).
Trong 3 bệnh nhân không RLSG ban đầu và
sau 6 tuần thì 3 bệnh nhân này cũng không RLSG.
Bảng 5: Sự thay đổi kiểu RLSG giữa thời điểm cấp
và sau 3 tháng
Sắc giác ở
thời điểm
cấp
Sắc giác ở thời điểm sau 3 tháng
Tổng số
RLSG ở thời
điểm cấp BY (n) RG (n) NS (n) N (n)
BY (n) 1 1 1 10 13
RG (n) 1 4 0 4 9
NS (n) 0 3 2 4 9
N (n) 0 0 0 3 3
Tổng số
RLSG 3
tháng
2 8 3 21 34
*
BY: Rối loạn sắc giác vàng – xanh da trời, RG:
RL đỏ – xanh lá, NS: Rối loạn trục không chọn lọc,
N: bình thường.
Sau 3 tháng điều trị còn 13 bệnh nhân RLSG
thì kiểu rối loạn đỏ – xanh lá chiếm cao nhất là 8
bệnh nhân.
Trong số 13 bệnh nhân rối loạn vàng – xanh
da trời ở giai đoạn cấp thì sau 3 tháng điều trị có
10 bệnh nhân không còn RLSG, có 1 bệnh nhân
rối loạn đỏ – xanh lá, 1 bệnh nhân trục không xác
định và 1 bệnh nhân không thay đổi trục. Có sự
khác biệt về thay đổi và không thay đổi trục với
2 = 15,85, p < 0,001.
Trong số 9 bệnh nhân rối loạn đỏ – xanh lá ở
giai đoạn cấp, sau 3 tháng điều trị có 4 bệnh nhân
không RLSG, có 1 bệnh nhân vàng – xanh da
trời, 4 bệnh nhân không thay đổi trục. Không có
sự khác biệt về thay đổi và không thay đổi trục
với 2 = 0,80, p = 0,37 (p> 0,05).
Trong số 9 bệnh nhân rối loạn trục không xác
định ở thời điểm cấp, sau 3 tháng có 4 bệnh nhân
cải thiện và không có RLSG nữa, 3 bệnh nhân
chuyển thành rối loạn trục đỏ-xanh lá và 2 bệnh
nhân không thay đổi trục. Không có sự khác biệt
về thay đổi và không thay đổi trục với 2 = 1,75,
p = 0,19 (p > 0,05).
Trong số 3 bệnh nhân không RLSG ở thời
điểm cấp, sau 3 tháng thì 3 bệnh nhân này cũng
không RLSG.
BÀN LUẬN
Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi có 34 bệnh
nhân với 23 nữ chiếm tỉ lệ 67,65% và 11 nam chiếm
33,35%, trong đó 14 mắt phải và 20 mắt trái.
Tất cả bệnh nhân này đều giảm thị lực ở giai
đoạn cấp của bệnh và thị lực cải thiện theo thời
gian phục hồi bệnh.
Sắc giác
Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá sắc
giác chủ yếu dựa trên test Farnsworth-Munsell
100-hue test (gọi là test F100), chức năng sắc giác
được định lượng bằng giá trị TES. Giá trị này có
thêùå được sử dụng để theo dõi diễn tiến của bệnh
và thuận tiện cho việc xử lý thống kê nên rất có
ích trong việc theo dõi sắc giác và công tác
nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, test này mất
nhiều thời gian và việc tính điểm khá công phu.
Test này có ưu điểm là có thể phát hiện được rối
loạn sắc giác nhẹ với thị lực 10/10 hay thị lực
thấp,và phát hiện trục vàng-xanh da trời. Ngoài ra
chúng tôi cũng dùng thêm test Farnsworth D15 và
test Ishihara.
Tỉ lệ rối loạn sắc giác trong nghiên cứu này là
91,2% ở giai đoạn cấp. Tỉ lệ rối loạn sắc giác
giảm theo thời gian phục hồi bệnh, chiếm 87,6%
bệnh nhân tại thời điểm 6 tuần sau điều trị và
giảm còn 38,34% sau 3 tháng điều trị.
So với nghiên cứu của nhóm nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng VTKT thì có 94% RLSG ở giai
đoạn cấp và còn lại 40% RLSG sau 6 tháng thì
kết quả của chúng tôi là phù hợp.
So sánh của test sắc giác
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng tỉ lệ phát
hiện RLSG của test F100 cao nhất, kế đến test
F15 và sau cùng là test Ishihara qua cả 3 lần
khám. Tuy nhiên,chỉ có ở thời điểm cấp thì có sự
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007
Mắt 251
khác biệt về phát hiện RLSG của 3 test có ý nghĩa
thống kê (2=9,16, p*=0,01, (p<0,05)).
Kiểu rối loạn sắc giác thường gặp
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng ở
giai đoạn cấp,kiểu rối loạn thường gặp nhất là
vàng-xanh da trời. Ơ’thời điểm hồi phục sau 6
tuần điều trị thì kiểu rối loạn trục không chọn lọc
thường gặp hơn và sau 3 tháng điều trị thì kiểu
đỏ-xanh lá thường gặp hơn. Tuy nhiên, cả 3 kiểu
rối loạn này đều thấy ở giai đoạn cấp, sau 6 tuần
và sau 3 tháng.
So với nghiên cứu Barrett Katz.MD và nghiên
cứu của Marilyn ES, Gurilla HP thì trong giai đoạn
cấp rối loạn trục vàng-xanh da trời thường gặp hơn
và sau 6 tháng thì rối loạn đỏ-xanh lá thường gặp
hơn. Như vậy, kết quả của chúng tôi là phù hợp.
Mối liên quan giữa thị lực và sắc giác
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy trong
VTKT có mối tương quan giữa thị lực logMar
và giá trị TES cả 3 lần khám: cấp, sau 6 tuần,
sau 3 tháng có ý nghĩa thống kê. Đây là mối
tương quan nghịch chiều mức độ trung bình.Có
nghĩa là thị lực logMar tăng thì giá trị TES
giảm hay thị lực tăng thì RLSG giảm.
So với nghiên cứu của Mérgge MJ và CS,
dùng hệ số tương quan Spearmen thấy rằng thị
lực logMar và giá trị TES có mối tương quan
nghịch chiều mức độ trung bình. Như vậy, nghiên
cứu chúng tôi phù hợp.
Thay đổi RLSG theo thời gian
Kiểu RLSG thay đổi theo thời gian hồi phục
bệnh VTKT, sự thay đổi trục được thấy rõ ở bệnh
nhân có rối loạn trục vàng-xanh da trời so với các
trục khác sau 3 tháng điều trị có ý nghĩa thống kê
(với 2 = 15,85, p < 0,001). Ở bệnh nhân có rối
loạn trục vàng-xanh da trời ở giai đoạn cấp
chuyển sang trục không chọn lọc có thể hiểu là
gia tăng điểm lỗi ở phần đỏ-xanh lá lên hay giảm
điểm lỗi ở phần vàng-xanh da trời hoặc có thể
thay đổi thật sự kiểu rối loạn.
Theo nghiên cứu của Barrett Katz; Marilyn
ES và Gunilla HP cũng báo cáo RLSG thay đổi
theo thời gian thì nghiên cứu của chúng tôi phù
hợp.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này chúng tôi phát hiện
được 91,2% bệnh nhân RLSG ở giai đoạn cấp
VTKT và còn 38,34% bệnh nhân RLSG sau 3
tháng.RLSG do VTKT có 3 kiểu: trục vàng-xanh
da trời,trục đỏ-xanh lá và trục không chọn lọc.
Trái với các hiểu biết lâm sàng thường thấy,
VTKT không đặc trưng bởi rối loạn trục đỏ-xanh
lá. Kiểu RLSG của VTKT phụ thuộc vào thời
điểm khám sắc giác khi nào trong quá trình diễn
tiến của bệnh là cấp tính hay hồi phục thì kiểu rối
loạn nào thường gặp hơn. Có lẽ không chính xác
khi sử dụng kiểu RLSG như là một dấu hiệu để
chẩn đoán phân biệt trong VTKT.Kiểu RLSG
thay đổi theo thời gian hồi phục của bệnh.
Test F100 là test hữu ích trong việc phát hiện
RLSG mắc phải vì phát hiện được những RLSG
nhẹ.Test F15 là test hữu ích phát hiện những
RLSG từ vừa đến nặng, thời gian khám nhanh
hơn,mặc dù thị lực thấp vẫn khám được.Test
Ishihara là test có thể dùng để khám thường quy
để phát hiện RLSG bẩm sinh hơn là mắc phải.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Beck RW, DiehIL, Cleary PA (1993): the Optic Neuritis Study
Group. The Pelli-Robson letter chart: Normative data for
young adults. Clin Vis Sci; 8(2): 207 – 210.
2 Birch J (1991): Colour vision test: general classification. In:
Fester DH, ed. Inheried and acquired colour vision
deficiencies. London: Macmilan, 215 – 234.
3 Farnworth D (1943): The Farnworth – Munsell 100 hue and
dichotomous for colour vision. J Opt soc Am, 33: 568-578.
4 Katz B. (1995): The dyschromatopsia of optis neuritis: A
descriptive analysis of data from the optic neuritis treatment
trial. Trans Am Ophthalmol Soc; 93: 685 – 708.
5 Lê Thị Giao My (2004), Nghiên cứu rối loạn sắc giác ở bệnh
nhân điều trị lao bằng Ethambutol, Luận án tốt nghiệp chuyên
khoa II
6 Ménage MJ, Papakostopoulos D, Dean Hart JC
Papakostopoulos S, and Gogolitsyn Yu. Et al (1993): The
fransworth-Munsell 100 hue test in the first episode of
demyelinating optic neuritic. Br J Ophthalmol;77: 68-74
7 Optic Neuritis Study Group (1991). The Clinical profile of
optic neuritis: Experience of the Optic Neuritis Treatment
Trial. Arch Ophthalmal; 109: 1673 – 1678.
8 Sadun A.A. (1999): Neuro – ophthalmology. In Myron
Yanoff’s Ophthalmology; section 11, chapter 5.
9 Schneck M.E. and Haegerstrom G. – Portnoy (October 1997).
Color vision Defect Type and Spatial Vision in the Optic
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 252
Neuritis Treatment Trial. Investigative Ophthamology and
Visual Science, Vol.38, No.11. 2278-2289.
10 Shirley H. Wray: Optic neuritis. (http:
//www.jandoerffel.de/on.htm).
11 Silvermam SE, Hart WM Jr., Gordon MO, et al (1990): The
dyschromatopsia of optic neuritis as determined in part by the
foveal/perifoveal distribution of visual field demage. Invest
Ophthalmol Vis Sci;31: 1895-1902
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_roi_loan_sac_giac_o_benh_ly_than_kinh_thi.pdf