Khảo sát sự hiểu biết về HIV/AIDS của người hiến máu tình nguyện tại bệnh viện truyền máu huyết học thành phố Hồ Chí Minh năm 2010

Trong số 1063 người tham gia nghiên cứu, có 3 người đã từng sử dụng ma túy (2 nữ và 1 nam) chiếm tỷ lệ 0,3%. Kết quả này cho ta thấy ma túy không chỉ liên quan đến nam giới mà xâm nhập cả nữ giới cũng như trong cộng đồng. Trong số những người này, không ai trong số họ đã từng nghi ngờ mình bị nhiễm HIV. Có 89 người từng bị tai nạn với vật sắc nhọn dính máu, trong số đó có 11 người (11,6%) nghi ngờ mình bị nhiễm HIV; có 4 người xăm trổ nhưng không ai nghi ngờ bị nhiễm HIV; 45 người từng dùng chung dao cạo râu (nam) và dụng cụ cắt tỉa (nữ), trong số đó chỉ có 7 người nghi ngờ mình nhiễm HIV chiếm 4,2%. KẾT LUẬN Qua kết quả nghiên cứu và bàn luận ở trên chúng tôi rút ra kết luận sau: Phần lớn người hiến máu có nhận thức đúng về HIV/AIDS và đường lây nhiễm HIV/AIDS chiếm trên 90%, tuy nhiên tỷ lệ nhận thức đúng cả 3 cách phòng chống HIV/AIDS chỉ chiếm 41,2%. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời đúng là HIV có thể lây qua đường truyền máu 91,8%, đặc biệt 63,6% biết rằng HIV có giai đoạn cửa sổ. Tỷ lệ không ủng hộ người có hành vi nguy cơ nhiễm HIV đi hiến máu là 76,2%. Tỷ lệ người sẵn sàng liên hệ với ngân hàng máu khi nhớ mình có hành vi nguy cơ nhiễm HIV là 89%. Các hành vi nguy cơ: đã từng sử dụng ma túy 0,3%; bị tai nạn với vật sắc nhọn dính máu 8,9%; truyền máu: 0,5%; xăm trổ: 0,3%; dùng chung dao cạo râu (nam) và dụng cụ cắt tỉa (nữ) chiếm 15,7%. Trong đó, những người đã từng sử dụng ma túy, và người xăm trổ trên da chưa từng nghi ngờ bản thân có thể nhiễm HIV. Các yếu tố nguy cơ khác như quan hệ đồng giới 0%. Quan hệ ngoài hôn nhân hoặc trước hôn nhân không dùng bao cao su chiếm trên 50%. Số người muốn biết kết quả xét nghiệm HIV sau khi hiến máu là 80,2%. Cần phải thay đổi tỷ lệ nhận thức của người hiến máu đạt tỷ lệ là 100% tự sàng lọc mình trước khi hiến máu Do vậy: Tăng cường hơn nữa về truyền thông giáo dục HIV cho mọi đối tượng, tập trung truyền thông nhóm để cung cấp thông tin sâu hơn về HIV/AIDS đồng thời định lượng kiến thức, thái độ của người hiến máu về HIV/AIDS.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự hiểu biết về HIV/AIDS của người hiến máu tình nguyện tại bệnh viện truyền máu huyết học thành phố Hồ Chí Minh năm 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 372 KHẢO SÁT SỰ HIỂU BIẾT VỀ HIV/AIDS CỦA NGƯỜI HIẾN MÁU TÌNH NGUYỆN TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2010 Trương Thị Kim Dung*, Trần Thị Hân*, Nguyễn Phước Bích Hạnh*, Võ Thị Thu Ba** TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống HIV/AIDS ở người hiến máu tình nguyện. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ngẫu nhiên các đối tượng hiến máu tình nguyện tại các điểm hiến máu của bệnh viện Truyền máu Huyết học, sử dụng bảng hỏi. Kết quả: Phần lớn họ có nhận thức đúng về HIV/AIDS và đường lây nhiễm HIV/AIDS chiếm trên 90%, tuy nhiên tỷ lệ biết cả 3 cách phòng chống HIV/AIDS chỉ chiếm 41,2%. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời đúng là HIV có thể lây qua đường truyền máu 91,8%, đặc biệt 63,6% biết rằng HIV có giai đoạn cửa sổ. Tỷ lệ không ủng hộ người có hành vi nguy cơ nhiễm HIV đi hiến máu là 76,2%. Các hành vi nguy cơ: đã từng sử dụng ma túy 0,3%; bị tai nạn với vật sắc nhọn dính máu 8,9%; truyền máu: 0,5%; xăm trổ: 0,3%; dùng chung dao cạo râu (nam) và dụng cụ cắt tỉa (nữ) chiếm 15,7%. Trong đó, những người đã từng sử dụng ma túy, và người xăm trổ trên da chưa từng nghi ngờ bản thân có thể nhiễm HIV. Các yếu tố nguy cơ khác như quan hệ đồng giới 0%. Quan hệ ngoài hôn nhân hoặc trước hôn nhân không dùng bao cao su chiếm trên 50%. Số người muốn biết kết quả xét nghiệm HIV sau khi hiến máu là 80,2%. Kết luận: Tăng cường hơn nữa về truyền thông giáo dục HIV/AIDS cho mọi đối tượng, tập trung truyền thông nhóm để cung cấp kiến thức đầy đủ về HIV. Vận động các đối tượng tham gia hiến máu tình nguyện theo hướng không vì muốn biết kết quả xét nghiệm. Cần có chương trình vận động tư vấn tọa đàm với người hiến máu về HIV/AIDS. Từ khóa: Hiểu biết của người hiến máu về HIV ABSTRACT RESULT OF THE SURVEY ABOUT BLOOD DONOR'S HIV/AIDS KNOWLEDGE AT BLOOD TRANSFUSION HEMATOLOGY HOSPITAL, HOCHIMINH CITY IN 2010 Truong Thi Kim Dung, Tran Thi Han, Nguyen Phuoc Bich Hanh, Vo Thi Thu Ba * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 372 - 379 Objective: describe knowledge, atitude and practice HIV/AIDS preventive measures of volunteer blood donors. Object and method of study: research contingently on blood donors at BTHH’s blood donation locations by questionnaire survey. Result: Most of them were fully aware of HIV/AIDS transmission (the rate was above 90%), but the rate of people who knew three HIV/AIDS preventive was only 41.2%. The rate of people who knew that HIV can be transmitted through blood transfusions was 91.8%, especially there was 63.6% of the subjects knew HIV window period. The rate of people who did not support HIV infected person gave blood was 76.2%. The risk behaviors: * Bệnh viện Truyền máu Huyết học, ** Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Trần Thị Hân, ĐT: 0982.111.93, Email: hantt_83@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 373 using drugs was 0.3%, being injured by sharp things was 8.9%, blood transfusion was 0.5%; tattoo was 0.3%; sharing razor (to men) and nail scissors (to women) was 15.7%. Among them, the people used drugs and tattoo on skin have never doubt they could get HIV. Other risks such as: homosexuality was 0%; Sex outside of marriage or before marriage did not use condoms was above 50%. The rate of people who wanted to know HIV test results after donating blood was 80.2%. Conclusion: More intensify activity about communication and education HIV/AIDS to everyone, focus media group to provide fully HIV/AIDS knowledge. Campaigning people for voluntary blood donation without knowing the test result. Building the campaign and consultancy programme about HIV/AIDS among the blood donors. Keywords: Blood donnor’s knowledge about HIV/AIDS. ĐẶT VẤN ĐỀ Máu là một loại thuốc đặc biệt mà khoa học ngày nay chưa tìm được loại thuốc thay thế hoàn toàn chức năng của máu, khi khoa học càng phát triển, nhu cầu về máu ngày càng tăng. Truyền máu, bên cạnh những hiệu quả tuyệt vời mang lại còn có những bất lợi khác, truyền máu gây ra những phản ứng phụ đồng thời có nguy cơ lây nhiễm các tác nhân lây qua đường truyền máu. Theo tổ chức y tế thế giới, an toàn truyền máu bắt đầu từ người cho máu. Để đảm bảo có nguồn máu an toàn, trước hết phải tăng cường tuyên truyền giáo dục người dân về hiến máu tình nguyện và các bệnh lây qua đường truyền máu, để họ hiểu và tự sàng lọc bản thân trước khi cho máu, không cho máu khi thấy bản thân có nguy cơ. Tuy nhiên, ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu sự hiểu biết của người hiến máu tình nguyện về HIV/AIDS, để từ đó đưa ra các biện pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người hiến máu, có những phương hướng, biện pháp kịp thời đề giảm nguy cơ lây nhiễm virus. Tạo được nhận thức đầy đủ, thái độ đúng đắn về hiến máu cho mọi người dân. Can thiệp chuyển đổi hành vi phù hợp về hiến máu tình nguyện cho mọi người dân. Bệnh viện Truyền máu Huyết học năm 2010 đã thực hiện khảo sát: “Khảo sát sự hiểu biết về HIV/AIDS của người hiến máu tình nguyện tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học TP. Hồ Chí Minh năm 2010”. Mục tiêu nghiên cứu Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống HIV/AIDS ở người hiến máu tình nguyện. Qua đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp cho công tác truyền thông giáo dục, tư vấn về HMTN và phòng chống HIV/AIDS nhằm đảm bảo an toàn truyền máu. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Người đến hiến máu tình nguyện. Hiến máu lần đầu hoặc hiến máu nhắc lại. Phương pháp chọn mẫu Chọn ngẫu nhiên hệ thống. Cỡ mẫu: 844 người. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Phương pháp thu thập số liệu. Ngẫu nhiên trong dân số mục tiêu, sử dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn. Người hiến máu và thành phần máu đến địa điểm hiến máu của BV. TMHH được phỏng vấn tham gia nghiên cứu trước khi được khám và tuyển chọn hiến máu. Người độ tuổi hiến máu đã hiến máu nhiều lần hoặc lần đầu tiên tham gia hiến máu. Tự nguyện tham gia nghiên cứu trả lời bảng câu hỏi, trả lời đầy đủ, hoặc từng phần các câu hỏi trong bảng nghiên cứu. Phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 374 Thời gian nghiên cứu Từ tháng 5/2010 đến 11/2010. Địa điểm Hiến máu tại bệnh viện TMHH hoặc tại các điểm lấy máu lưu động của BV.TMHH. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Biểu đồ 1: Biểu đồ phân bố về giới của đối tượng nghiên cứu Nhận xét: Tổng số 1063 người hiến máu tình nguyện tham gia nghiên cứu có 603 nam, chiếm 56,8%; 460 nữ, chiếm 43,2%. Bảng 1: Phân bố tuổi và giới Giới tính Tổng Nam Nữ Giới Tuổi Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Tuổi từ 18 -24 371 61,5% 254 55,2% 625 58,8% Tuổi từ 25-34 148 24,5% 127 27,6% 275 25,9% Tuổi từ 35-44 60 10,0% 50 10,9% 110 10,3% Tuổi ≥ 45 24 4,0% 29 6,3% 53 5,0% Tổng 603 100% 460 100% 1063 100% Nhận xét: Trong nhóm đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ người trong nhóm từ 18-24 tuổi chiếm 58,8%; nhóm tuổi từ 25 – 34 chiếm 25,9%; nhóm tuổi từ 25 – 44 chiếm 10,3% và nhóm trên 45 tuổi chiếm 5%. Bảng 2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ học vấn Trả lời Đối tượng Số lượng Tỷ lệ Dưới PTTH 18 1,7% PTTH 146 13,7% CĐ – TC 252 23,7% Đại học và trên đại học 647 60,9% Tổng cộng 1063 100% Nhận xét : Số đối tượng nghiên cứu ở trình độ dưới PTTH chiếm tỷ lệ thấp 1,7%; đối tượng nghiên cứu đã tốt nghiệp PTTH là 13,7%; trình độ cao đẳng, trung học chuyên nghiệp là 23,7% và phần lớn đối tượng nghiên cứu có trình độ đại học và trên đại học chiếm 60,9%. Biểu đồ 2: Biểu đồ phân bố đối tượng nghiên cứu theo lần hiến máu Trong tổng số đối tượng nghiên cứu có 608 người hiến máu lần đầu chiếm tỷ lệ 57,2% và người hiến máu lặp lại là 455 người chiếm 42,8%. Kiến thức về phòng chống HIV/AIDS Bảng 3: Hiểu biết đúng cách phòng chống HIV Trả lời đúng Cách phòng tránh Tỷ lệ nhận thức đúng Tổng số trả lời Luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. 45% 478 Sống chung thủy hoặc chỉ có 1 bạn tình mà người đó không có bạn tình khác hoặc chưa bị nhiễm HIV 56,6% 602 Không dùng chung bơm kim tiêm 47,2% 502 Tỷ lệ nhận thức đúng cả ba cách phòng chống HIV cơ bản 41,2 % 439 Khi được hỏi về các cách phòng chống lây nhiễm HIV, có 478 người trả lời đúng về cách sử dụng BCS khi QHTD chiếm 45%; có 602 người (56,6%) trả lời đúng là chung thủy sẽ ko bị lây nhiễm HIV, và 502 người (47,2%) người trả lời đúng là không dùng chung bơm kim tiêm thì sẽ không bị lây nhiễm HIV. Tuy nhiên chỉ có 439 người (41,2%) trả lời đúng cả 3 cách trên. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 375 Bảng 4: Một số nhận thức về HIV Trả lời đúng Câu hỏi Tỷ lệ Số trả lời đúng Một người trông khỏe mạnh có thể đã bị nhiễm HIV 91,8% 976 HIV không lây truyền qua muỗi đốt 78,3% 832 HIV không lây truyền do dùng chung thức ăn với người đã bị nhiễm HIV 88,9% 944 Nhân xét: Có 976 (91,8%) người hiến máu nhận thức đúng rằng một người trông khỏe mạnh vẫn có thể bị nhiễm HIV; có 832 (78,3) người nhận thức đúng HIV không lây truyền qua muỗi đốt; có 944 (88,9%) người nhận thức đúng HIV không lây truyền do dùng chung thức ăn với người đã bị nhiễm HIV. Bảng 5: Tỷ lệ nhận thức đúng về HIV liên quan đến truyền máu Trả lời đúng Hiểu biết Tỷ lệ Số trả lời đúng Tổng số trả lời HIV có thể lây qua đường truyền máu 91,8% 976 1063 HIV “có giai đoạn cửa sổ” 63,6% 676 1063 Người hiến máu có thể có yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV 69,3% 737 1063 Khi được hỏi về HIV có lây qua đường truyền máu không thì có 976 (91,8%) đối tượng nghiên cứu trả lời đúng là HIV có thể lây qua đường truyền máu, đặc biệt là 676 người (63,6%) biết rằng HIV có giai đoạn cửa sổ, và 69,3 % những người nghiên cứu cho rằng người hiến máu có thể có yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV. Thái độ về phòng chống HIV/AIDS Bảng 6: Thái độ của người hiến máu đối với người có nguy cơ nhiễm HIV hiến máu Thái độ Câu hỏi Ủng hộ Không ủng hộ Không ý kiến Ủng hộ người có nguy cơ bị nhiễm HIV đi hiến máu 125 (11,8%) 810 (76,2%) 128 (11,9%) Có sẵn sàng liên hệ với Ngân hàng máu khi nhớ ra mình có hành vi nguy cơ nhiễm HIV 946 (89,0%) 23 (2,2%) 94 (8,8%) Trong số những người được hỏi thì 76,2 % không ủng hộ người nhiễm HIV đi hiến máu, chỉ có 11,8% ủng hộ người nghi ngờ nhiễm HIV đi hiến máu và 11,9% không đưa ra ý kiến. Có 946 người sẵn sàng liên hệ với Ngân hàng máu khi nhớ ra mình có hành vi nguy cơ nhiễm HIV chiếm tỷ lệ 89%; chỉ có 2,2% số người không sẵn sàng và 8,8% còn do dự chưa đưa ra được ý kiến. Thực hành phòng chống HIV Bảng 7: Tỷ lệ quan hệ tình dục trong nhóm chưa lập gia đình Trả lời Thực hành Nam Nữ Tỷ lệ Đã từng 79 34 14,5 Chưa từng 324 280 77,7 Không trả lời 47 13 7,8 Trong số 777 người hiến máu chưa lập gia đình, có 14,5% đã từng QHTD; 77,7% chưa từng QHTD; và 7,8% không trả lời. Bảng 8: Đối tượng QHTD trong nhóm chưa lập gia đình Trả lời Đối tượng Nam (n = 79) Nữ (n = 34) Tỷ lệ Người yêu (%) 83,5 88,2 84,9 Bạn tình (%) 11,6 0 7,9 Người đồng giới (%) 0 0 0 Mua bán dâm (%) 1,2 0 0,8 Không trả lời (%) 3,7 11,8 6,4 Trong số những người chưa lập gia đình có quan hệ tình dục thì hầu hết là QHTD với người yêu, trong đó nam chiếm 83,5% và nữ chiếm 88,2%; đáng chú ý là có 1 trường hợp có quan hệ tình dục với gái mại dâm. Bảng 9: Tần xuất QHTD ngoài hôn nhân Trả lời QHTD ngoài hôn nhân Số lượng Tỷ lệ % Có 27 9,4 Không 237 82,9 Không trả lời 22 7,7 Trong số 286 người đã có gia đình thì chỉ có 27 người (9,4%) có QHTD ngoài hôn nhân; 22 người (7,7%) không trả lời và 237 người (82,9%) trả lời không có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 376 Bảng 10: Tần xuất sử dụng BCS khi QHTD ngoài hôn nhân Trả lời Sử dụng BCS Số lượng Tỷ lệ % Thường xuyên sử dụng 70 50 Thỉnh thoảng 48 34,2 Không bao giờ 22 15,8 Trong số những người có QHTD ngoài hôn nhân bao gồm cả những người chưa lập gia đình, có 50% thường xuyên sử dụng BCS, 34,2% có khi sử dụng, khi không sử dụng, và 15,8% không bao giờ sử dụng. Bảng 11: Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu đã từng nghi ngờ bị nhiễm HIV Giới tính Tổng Nam Nữ Trả lời Nghi nhiễm HIV Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ % Đã từng nghi ngờ nhiễm HIV 23 3,8 24 5,2 47 4,4 Chưa từng 546 90,5 409 88,9 955 89,8 Không trả lời 34 5,7 27 5,9 61 5,6 Tổng 603 100 460 100 1063 100 Trong số 1063 người hiến máu tham gia nghiên cứu, có 4,4% số người đã từng nghi ngờ mình bị nhiễm HIV; 5,6% người không trả lời và 89,8% số người chưa từng nghi ngờ mình bị nhiễm HIV. Bảng 12: Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu mong muốn biết kết quả xét nghiệm HIV sau hiến máu Giới tính Tổng Nam Nữ Trả lời Kquả XN HIV Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Có quan tâm 747 78,9 375 81,9 849 80,2 Không quan tâm 37 6,2 20 4,4 57 5,4 Có cũng được không cũng được 92 15,9 65 13,7 157 14,4 Tổng 603 100 460 100 1063 100 Nhận xét: Trong số những người hiến máu tham gia nghiên cứu, thì hầu hết đều mong muốn biết kết quả xét nghiệm HIV sau khi hiến máu chiếm 80,2%; tỷ lệ này ở nam là 78,9% và ở nữ là 81,9%. Bảng 13: Đối tượng nghiên cứu đã từng có các hành vi nguy cơ Trả lời Hành vi nguy cơ Nam (%) N = 603 Nữ (%) N = 406 Tỷ lệ chung Sử dụng ma túy 0,16 0,49 0.28 Bị tai nạn với vật sắc nhọn dính máu 8,1 10,0 8,9 Truyền máu 0,3 0,9 0,6 Xăm trổ 0,3 0,2 0,3 Dùng chung dao cạo râu (nam) và dụng cụ cắt tỉa (nữ) 17,4 13,5 15,7 Nhận xét: Có 3 người đã từng sử dụng ma túy (0,3%) trong đó có 2 nữ và 1 nam; những người từng bị tai nạn với vật sắc nhọn có 8,9%; những người đã xăm trổ chiếm 0,3%; những người đã từng truyền máu 0,6% và cao nhất là hành vi dùng chung dao cạo và dụng cụ cắt tỉa chiếm 15,7%. Bảng 14: Mối liên hệ hành vi nguy cơ và nghi ngờ mình bị HIV Nghi ngờ mình bị HIV Hành vi nguy cơ Số người có hành vi nguy cơ Có mối liên hệ giữa hành vi nguy cơ và lây nhiễm HIV Sử dụng ma túy 3 0 (0%) Bị tai nạn với vật sắc nhọn dính máu 123 11 (11,6%) Truyền máu 6 0 (0%) Xăm trổ 4 0 (0%) Dùng chung dao cạo râu (nam) và dụng cụ cắt tỉa (nữ) 45 7 (4,2%) Nhận xét: Trong 3 người từng sử dụng ma túy thì không ai nghi ngời mình bị nhiễm HIV; 123 người bị tai nạn với vật sắc nhọn chỉ 11 người (11,6%) từng nghi ngờ mình bị nhiễm HIV; 4 người xăm trổ, không ai từng nghi ngờ mình bị nhiễm HIV; 45 người dùng chung dao Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 377 cạo râu và dụng cụ cắt tỉa chỉ có 7 người (4,2%) từng nghi ngờ mình bị nhiễm HIV. BÀN LUẬN Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi đưa ra một số bàn luận sau: Kiến thức của người hiến máu về HIV/AIDS Kiến thức chung về phòng chống HIV/AIDS ở người hiến máu tình nguyện chưa cao, mặc dù hiểu biết về HIV là khá tốt, 99,3% người đã nghe nói đến HIV và 94,7% người hiến máu tình nguyện biết được 3 đường lây nhiễm HIV cơ bản. Kiến thức về cách phòng chống HIV/AIDS Ba biện pháp phòng HIV chủ yếu là: luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, sống chung thủy hoặc chỉ có một bạn tình mà người đó không có bạn tình khác và chưa nhiễm HIV, không dùng chung bơm kim tiêm khi tiêm chích ma túy đã được đưa vào nghiên cứu. Chỉ có 41,2% những người hiến máu biết rằng 3 cách trên sẽ phòng chống được HIV/AIDS. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Ngô Mạnh Quân năm 2008 ở người hiến máu tình nguyện Hà Nội, 89,2% người hiến máu biết được 3 cách phòng chống lây nhiễm HIV(1). Tỷ lệ ở nghiên cứu này thấp là do người hiến máu cho rằng không có cách nào là đảm bảo an toàn 100% và luôn đưa ra những giả thiết, đưa ra những rủi ro khi sử dụng biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV. Nhận thức đúng về HIV bao gồm cả nhận thức đúng một người trông khỏe mạnh cũng có thể bị nhiễm HIV, thậm chí ngay cả người bị nhiễm HIV cũng không biết mình đã nhiễm HIV. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ này là 91,8%, tương tự với kết quả nghiên cứu của Ngô Mạnh Quân là 92,6%. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có những quan niệm sai về HIV là: HIV có thể lây truyền qua muỗi đốt, và HIV có thể lây truyền do dùng chung thức ăn, nước uống với người đã bị nhiễm HIV. Nghiên cứu của Ngô Mạnh Quân cho thấy 72,5 % người hiến máu cho rằng HIV không lây qua muỗi đốt và nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương tự là 78,3%. Nhận thức liên quan đến an toàn truyền máu Khi người hiến máu hiểu biết đúng rằng HIV có thể lây qua đường truyền máu, là cơ sở để người hiến máu có thái độ và hành vi phù hợp đảm bảo an toàn truyền máu. Khi được hỏi về HIV có lây qua đường truyền máu không thì có 976 (91,8%) đối tượng nghiên cứu trả lời đúng là HIV có thể lây qua đường truyền máu, đặc biệt là 676 người (63,6%) biết rằng HIV có giai đoạn cửa sổ, và 69,3% những người nghiên cứu cho rằng người hiến máu có thể có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV cho người nhận. Điều này cho thấy nhận thức về HIV liên quan đến an toàn truyền máu là tương đối tốt, và người làm công tác vận động hiến máu phải cung cấp những thông tin liên quan đến HIV để người hiến máu tự sàng lọc bản thân trước khi quyết định cho máu. Thái độ của đối tượng nghiên cứu về HIV liên quan đến hiến máu Có 76,2% những người được hỏi không ủng hộ người có nguy cơ nhiễm HIV đi hiến máu, đây là thái độ rất tốt đối với việc đảm bảo an toàn truyền máu. Tuy nhiên có tới 11,8% ủng hộ người có hành vi nguy cơ nhiễm HIV đi hiến máu, vì họ cho rằng nếu bị HIV thì khi xét nghiệm sẽ phát hiện ra. Điều đó cho thấy những người này không hiểu rằng HIV có giai đoạn cửa sổ và trong 12 tuần đầu khi có nguy cơ làm xét nghiệm sàng lọc sẽ không phát hiện ra. Do đó, phải cung cấp thêm thông tin cho người hiến máu. Số người sẵn sàng thông báo cho ngân hàng máu biết có nguy cơ lây nhiễm HIV chiếm tỷ lệ 89% sau khi hiến máu, cho thấy ý thức trách nhiệm cao của người dân khi tham gia hiến máu. Chỉ còn 11% chưa sẵn sàng liên hệ với ngân hàng máu khi nhớ ra mình có yếu tố nguy cơ. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 378 Thực hành phòng chống HIV/AIDS Đôi khi người hiến máu không hiểu được rằng mình đã có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV, khai thác hành vi nguy cơ thông qua khám tuyển chọn là cách tuyển chọn những người hiến máu an toàn. Hành vi QHTD và QHTD không an toàn. Quan hệ tình dục không an toàn là nguyên nhân phổ biến lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Cục Phòng Chống HIV/AIDS thì mặc dù biết quan hệ tình dục không an toàn có thể lây nhiễm HIV nhưng nhiều người vẫn không sử dụng BCS khi quan hệ tình dục. Trong số 777 người hiến máu chưa lập gia đình, có 14,5% đã từng quan hệ tình dục. Trong số 286 người có gia đình thì có 9,4% có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Tuy nhiên chỉ có 50% thường xuyên sử dụng bao cao su; 34,2% thỉnh thoảng sử dụng và 15,8% không bao giờ sử dụng. Nhưng trên thực tế việc khai thác hành vi liên quan đến quan hệ tình dục ở mỗi người hiến máu gặp khó khăn do truyền thống văn hóa Việt Nam thuần túy Á Đông, mọi người khá e dè khi nói chuyện về vấn đề tình dục. Mặt khác, điều kiện vật chất tại các điểm lấy máu lưu động rất khó để các bác sĩ có thể khai thác hành vi liên quan đến quan hệ tình dục không an toàn. Do đó, cung cấp thông tin để người hiến máu tự bảo vệ mình đồng thời tự sàng lọc trước hiến máu là rất cần thiết. Hành vi sử dụng ma túy và những hành vi nguy cơ khác Trong số 1063 người tham gia nghiên cứu, có 3 người đã từng sử dụng ma túy (2 nữ và 1 nam) chiếm tỷ lệ 0,3%. Kết quả này cho ta thấy ma túy không chỉ liên quan đến nam giới mà xâm nhập cả nữ giới cũng như trong cộng đồng. Trong số những người này, không ai trong số họ đã từng nghi ngờ mình bị nhiễm HIV. Có 89 người từng bị tai nạn với vật sắc nhọn dính máu, trong số đó có 11 người (11,6%) nghi ngờ mình bị nhiễm HIV; có 4 người xăm trổ nhưng không ai nghi ngờ bị nhiễm HIV; 45 người từng dùng chung dao cạo râu (nam) và dụng cụ cắt tỉa (nữ), trong số đó chỉ có 7 người nghi ngờ mình nhiễm HIV chiếm 4,2%. KẾT LUẬN Qua kết quả nghiên cứu và bàn luận ở trên chúng tôi rút ra kết luận sau: Phần lớn người hiến máu có nhận thức đúng về HIV/AIDS và đường lây nhiễm HIV/AIDS chiếm trên 90%, tuy nhiên tỷ lệ nhận thức đúng cả 3 cách phòng chống HIV/AIDS chỉ chiếm 41,2%. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời đúng là HIV có thể lây qua đường truyền máu 91,8%, đặc biệt 63,6% biết rằng HIV có giai đoạn cửa sổ. Tỷ lệ không ủng hộ người có hành vi nguy cơ nhiễm HIV đi hiến máu là 76,2%. Tỷ lệ người sẵn sàng liên hệ với ngân hàng máu khi nhớ mình có hành vi nguy cơ nhiễm HIV là 89%. Các hành vi nguy cơ: đã từng sử dụng ma túy 0,3%; bị tai nạn với vật sắc nhọn dính máu 8,9%; truyền máu: 0,5%; xăm trổ: 0,3%; dùng chung dao cạo râu (nam) và dụng cụ cắt tỉa (nữ) chiếm 15,7%. Trong đó, những người đã từng sử dụng ma túy, và người xăm trổ trên da chưa từng nghi ngờ bản thân có thể nhiễm HIV. Các yếu tố nguy cơ khác như quan hệ đồng giới 0%. Quan hệ ngoài hôn nhân hoặc trước hôn nhân không dùng bao cao su chiếm trên 50%. Số người muốn biết kết quả xét nghiệm HIV sau khi hiến máu là 80,2%. Cần phải thay đổi tỷ lệ nhận thức của người hiến máu đạt tỷ lệ là 100% tự sàng lọc mình trước khi hiến máu Do vậy: Tăng cường hơn nữa về truyền thông giáo dục HIV cho mọi đối tượng, tập trung truyền thông nhóm để cung cấp thông tin sâu hơn về HIV/AIDS đồng thời định lượng kiến thức, thái độ của người hiến máu về HIV/AIDS. Vận động các đối tượng tham gia hiến máu tình nguyện theo hướng không vì muốn biết kết quả xét nghiệm. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 379 Cần có chương trình vận động tư vấn tọa đàm với người hiến máu về HIV/AIDS. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Ngô Mạnh Quân (2009). Thực trạng nhận thức, thái độ và thực hành phòng chống HIV/AIDS của người hiến máu tình nguyện tại viện Huyết học –Truyền máu TW năm 2008. Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội, 2008. 2. Nguyễn Anh Trí (2004). An toàn truyền máu và những biện pháp để đảm bảo truyền máu an toàn, Một số chuyên đề Huyết học –Truyền máu tập I, NXB Y học, 87-93. 3. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Trần Hiển, Trịnh Quân Huấn (2006). Nhận thức và thái độ của lãnh đạo cộng đồng trong can thiệp phòng chống HIV/AIDS, các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2000-2005, tạp chí Y học thực hành số 528 + 529, 319-323. 4. Nguyễn Đức Thuận, Ngô Mạnh Quân, Bạch Quốc Khánh, Nguyễn Anh Trí (2008). Khảo sát nhận thức, thái độ và hành vi về hiến máu tình nguyện của thanh niên tại Hà Nội, bắc Giang và Vĩnh Phúc. Tập 344 tháng 3 số 2/2008, 629-637. 5. Tổ chức y tế thế giới WHO (2001). cho máu an toàn, NXB Y học Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_su_hieu_biet_ve_hivaids_cua_nguoi_hien_mau_tinh_ngu.pdf