KẾT LUẬN
Lưu lượng nước bọt ở bệnh nhân ung thư
vòm hầu trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ
trị 1 tháng
Lưu lượng nước bọt không kích thích, lưu
lượng nước bọt kích thích ở thời điểm sau khi
kết thúc xạ 1 tháng đều thấp hơn có ý nghĩa so
với thời điểm trước xạ trị.
So sánh và phân tích mối liên quan lưu
lượng nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm
hầu trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1
tháng
Có tương quan thuận giữa lượng nước bọt
trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng. Về
nước bọt không kích thích, không có mối tương
quan giữa lượng nước bọt trước xạ trị và mức độ
giảm nước bọt sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng. Về
nước bọt kích thích, có mối tương quan nghịch
yếu giữa lượng nước bọt trước xạ trị và mức độ
giảm nước bọt sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng.
Mối liên quan giữa sự thay đổi lưu lượng
nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau
kết thúc xạ 1 tháng với tuổi, giai đoạn ung
thư và phương pháp điều trị
Tuổi: mức độ giảm lượng nước bọt không
kích thích và có kích thích sau khi kết thúc xạ trị
1 tháng ở bệnh nhân dưới 50 tuổi thấp hơn so
với bệnh nhân trên 50 tuổi.
Giai đoạn ung thư: không có sự khác biệt về
mức độ giảm lượng nước bọt sau khi kết thúc xạ
1 tháng giữa bệnh nhân ung thư ở giai đoạn IV
và chưa đến giai đoạn IV.
Phương pháp điều trị: không có sự khác
biệt về mức độ giảm lượng nước bọt sau khi
kết thúc xạ 1 tháng giữa bệnh nhân xạ trị
không có kết hợp hóa trị và bệnh nhân xạ trị
có kết hợp hóa trị.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 52 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự thay đổi lưu lượng nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau xạ trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 208
KHẢO SÁT SỰ THAY ĐỔI LƯU LƯỢNG NƯỚC BỌT Ở BỆNH NHÂN
UNG THƯ VÒM HẦU SAU XẠ TRỊ
Ngô Thị Quỳnh Lan*, Phan Nguyễn Nhật Phương**
TÓM TẮT
Giảm lưu lượng nước bọt và thay đổi đặc tính sinh hóa của nước bọt do xạ trị là biến chứng phổ biến ở bệnh
nhân xạ trị ung thư đầu cổ nói chung và ung thư vòm hầu nói riêng.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm lưu lượng nước bọt không kích thích và có kích thích ở bệnh nhân
ung thư vòm hầu tại 2 thời điểm: trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng; So sánh và phân tích mối liên
quan lưu lượng nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu tại hai thời điểm trên, và So sánh sự thay đổi lưu lượng
nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng theo tuổi, giai đoạn ung thư và phương
pháp điều trị.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu theo dõi dọc trên 37 bệnh nhân ung thư vòm
hầu được chỉ định điều trị xạ trị ngoài với tổng liều là 70 Gy trong thời gian từ 1/2014 đến tháng 7/2014 tại Khoa
Xạ III - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM.
Kết quả: Ở thời điểm trước xạ, nhóm nghiên cứu có lượng nước bọt không kích thích trung bình là
1,71gram/5phút, tương đương 0,34ml/phút và lượng nước bọt kích thích trung bình là 9,52gram/5phút, tương
đương 1,9ml/phút, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lượng nước bọt (nghỉ và kích thích) giữa thời điểm
trước xạ với thời điểm sau xạ 1 tháng, lượng nước bọt nghỉ và kích thích ở thời điểm sau xạ 1 tháng thấp hơn có ý
nghĩa so với trước xạ trị (p=0,001<0,05). Sự thay đổi các đặc điểm nước bọt sau xạ có tương quan với đặc điểm
nước bọt ban đầu: bệnh nhân có lượng nước bọt không kích thích trước xạ cao thì mức độ giảm lượng nước bọt
này sẽ thấp hơn bệnh nhân có lượng nước bọt kích thích trước xạ thấp và ngược lại. Ngoài yếu tố về tuổi, các yếu
tố như giai đoạn ung thư và hóa trị không ảnh hưởng đến sự thay đổi lưu lượng nước bọt của bệnh nhân ung thư
vòm hầu sau xạ trị.
Kết luận: Lưu lượng nước bọt không kích thích, lưu lượng nước bọt kích thích ở thời điểm sau khi kết thúc
xạ 1 tháng đều thấp hơn có ý nghĩa so với thời điểm trước xạ trị; Có tương quan thuận giữa lượng nước bọt trước
xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng; Mức độ giảm lượng nước bọt không kích thích và có kích thích sau khi kết
thúc xạ trị 1 tháng ở bệnh nhân dưới 50 tuổi thấp hơn so với bệnh nhân trên 50 tuổi; không có sự khác biệt về
mức độ giảm lượng nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng giữa bệnh nhân ung thư ở giai đoạn IV và chưa đến giai
đoạn IV, giữa bệnh nhân xạ trị không có kết hợp hóa trị và bệnh nhân xạ trị có kết hợp hóa trị.
Từ khóa: lưu lượng nước bọt, ung thư vòm hầu, xạ trị
ABSTRACT
SALIVARY FLOW IN PATIENTS AFTER IRRADIATION THERAPY OF NASOPHARYNX CANCER
Ngo Thi Quynh Lan, Phan Nguyen Nhat Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 208 - 214
Reduction of salivary flow and modification of bio-chemical characteristics of the saliva are common
complications in patients after irradiation therapy for head-and-neck cancer in general or nasopharynx cancer in
particular.
* Bộ môn Nha khoa cơ sở- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
** BS RHM khóa 2008-2014- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: PGS-TS Ngô Thị Quỳnh Lan ĐT: 0903125864 Email: ngothiquynhlan@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 209
Objectives: describe stimulated and non-stimulated salivary flow in patients with nasopharynx cancer
before irradiation therapy and 1 month after treatment, analyze the relation between the changes in salivary flow
and age, stage of cancer and treatment modality.
Materials and method: following 37 patients with nasopharynx cancer undergoing radiation therapy (total
dosage 70 Gy) from January 2014 to July 2014 at Radiation Department III, Hospital of Oncology at Ho Chi
Minh City.
Results: before irradiation, non-stimulated salivary flow was 1.71gram/5 minutes, equal 0.34ml/minute and
stimulated flow was 9.52gram/5phút, equal 1.9ml/minute, the salivary flow 1 month after irradiation being
significantly lower and that before irradiation (p<0.05). Patients with higher non-stimulated flow at the beginning
had less reduction. Apart from age, stage of cancer or chemotherapy did not affect the changes in salivary flow in
patients after irradiation for nasopharynx cancer.
Conclusion: salivary flow 1 month after irradiation was significantly lower than before treatment with a
positive relation between these two; the reduction being more significant in patients over 50 years-old with no
difference among patients at stage IV or below with or without chemotherapy.
Key words: salivary flox, nasopharynx, irradiation therapy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước bọt có vai trò quan trọng cho môi
trường miệng, là yếu tố chủ yếu bảo vệ cho mô
cứng, mô mềm và đảm bảo các hoạt động chức
năng trong khoang miệng(3). Những thay đổi về
lưu lượng và thành phần nước bọt có thể dẫn
đến sự gia tăng đáng kể các triệu chứng bất
thường trong miệng. Bệnh nhân có sự tiết nước
bọt thấp thường gặp nhiều vấn đề như: khô
miệng, sâu răng tiến triển nhanh, viêm niêm mạc
miệng, bệnh lý mô nha chu, khó nhai, khó nuốt,
rối loạn vị giác làm ảnh hưởng đến sức khỏe
răng miệng, sức khỏe toàn thân và chất lượng
cuộc sống bệnh nhân(9).
Xạ trị là một trong những nguyên nhân
chính ảnh hưởng đến chức năng của tuyến nước
bọt ở bệnh nhân xạ trị ung thư vùng đầu cổ(1) . Xạ
trị là phương thức điều trị hiệu quả cho các khối
u vùng đầu cổ, tuy nhiên, xạ trị cũng có thể gây
ra nhiều biến chứng và làm trầm trọng thêm tình
trạng sức khỏe bệnh nhân(2). Biến chứng do chiếu
xạ vùng hàm mặt xảy ra chủ yếu ở da, niêm mạc,
xương và tuyến nước bọt(10). Ở tuyến nước bọt,
ảnh hưởng của tia xạ làm mô tuyến hủy hoại
dần, dẫn đến suy giảm hoặc mất hoạt động chức
năng của tuyến, làm thay đổi đặc điểm và chức
năng của nước bọt(6). Năm 2003, Paulo thực hiện
nghiên cứu khảo sát lưu lượng nước bọt của
bệnh nhân ung thư đầu cổ trong thời gian xạ trị,
nhận thấy lưu lượng nước bọt giảm đáng kể
trong quá trình xạ trị và sau xạ trị(10).
Ở nước ta, ung thư đầu cổ là một trong mười
ung thư thường gặp nhất. Trong đó, ung thư
vòm hầu là ung thư phổ biến hàng đầu trong các
ung thư đầu cổ, đứng hàng thứ 3 trong các loại
ung thư toàn thân đối với nam và thứ 7 đối với
nữ. Hiện nay, phương thức điều trị triệt để đối
với ung thư vòm hầu là xạ trị ngoài và có thể kết
hợp với hóa trị(8). Đã có một nghiên cứu tại Khoa
Răng Hàm Mặt - Đại Học Y Dược TP.HCM khảo
sát về vấn đề nước bọt và xạ trị, là nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Xuân Nhi
(2003) khảo sát về tình trạng khô miệng ở bệnh
nhân ung thư vòm hầu trong thời gian xạ trị, kết
quả nghiên cứu cho thấy 90% bị giảm tiết nước
bọt và 10% bị khô cạn nước bọt(9).
Giảm lưu lượng nước bọt và thay đổi đặc
tính sinh hóa của nước bọt do xạ trị là biến
chứng phổ biến ở bệnh nhân xạ trị ung thư đầu
cổ nói chung và ung thư vòm hầu nói riêng. Biến
chứng này cùng với nhiều biến chứng khác là hệ
quả của nó gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức
khỏe và tâm lý-xã hội của bệnh nhân sau xạ trị.
Vì vậy, việc dự phòng và điều trị biến chứng do
xạ trị là một vấn đề quan trọng và có ý nghĩa đối
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 210
với sức khỏe răng miệng, sức khỏe toàn thân
cũng như chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Với mong muốn xác định những thay đổi về đặc
điểm nước bọt do xạ trị nhằm giúp cho việc
phòng ngừa và điều trị các biến chứng do thay
đổi đặc điểm nước bọt, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu “Khảo sát sự thay đổi một số đặc
điểm nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu
sau xạ trị” với những mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu
1. Mô tả các đặc điểm lưu lượng nước bọt
không kích thích và có kích thích ở bệnh nhân
ung thư vòm hầu tại 2 thời điểm: trước xạ trị và
sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng.
2. So sánh và phân tích mối liên quan lưu
lượng nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu
trước và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng.
3. So sánh sự thay đổi lưu lượng nước bọt ở
bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết thúc xạ
trị 1 tháng theo tuổi, giai đoạn ung thư và
phương pháp điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu theo dõi dọc trên 37
bệnh nhân ung thư vòm hầu được chỉ định điều
trị xạ trị ngoài với tổng liều là 70 Gy trong thời
gian từ 1/2014 đến tháng 7/2014 tại Khoa Xạ III -
Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM, có thể kết hợp
hóa trị hay không. Mẫu chọn thuận tiện bằng
cách sàng lọc dựa trên bệnh án tại Khoa Xạ III -
Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM và chọn ra
những bệnh nhân ung thư vòm hầu chuẩn bị xạ
trị tại đây, đồng ý tham gia nghiên cứu và tuân
thủ đúng quy trình khám đánh giá.
Để thu thập và đánh giá các tính chất của
nước bọt, sử dụng:
- Kẹo cao su không đường của hãng Lotte.
- Cân điện tử (chính xác đến 0,01gram).
Các biến số độc lập gồm: Tuổi: là biến thứ tự,
tính bằng cách lấy năm của thời điểm lấy nước
bọt (2014) trừ đi năm sinh, có đơn vị là năm;
Giới: là biến nhị giá, có hai giá trị là nam và nữ;
Giai đoạn ung thư: là biến nhị giá, có hai giá trị là
giai đoạn IV và chưa đến giai đoạn IV; Phương
pháp điều trị: là biến nhị giá, có hai giá trị là
không kết hợp hóa trị và có kết hợp hóa trị.
Hình 1: Kẹo cao su không
đường Xylitol
Hình 2: Cân điện tử
Biến phụ thuộc:
- Lưu lượng nước bọt: là biến định lượng,
gồm lưu lượng nước bọt không kích thích và lưu
lượng nước bọt có kích thích (đơn vị là
gram/5phút). Thông thường, lưu lượng nước bọt
được tính bằng cách đo thể tích nước bọt tiết ra
trong 5 phút và có đơn vị ml/5phút. Nhưng
trong nghiên cứu này, ly nhựa lấy nước bọt có
vạch chia nhỏ nhất là 1ml nên chỉ có thể tính
chính xác đến 1ml, trong khi nếu đo lưu lượng
nước bọt bằng cân điện tử thì tính chính xác đến
0,01 gram (tương đương 0,01ml nước bọt) và
nhờ vậy tăng tính chính xác cho nghiên cứu.
- Mức độ giảm: là biến định lượng, đơn vị là
phần trăm (%). Ví dụ mức độ giảm của pH nước
bọt là phần trăm giảm pH nước bọt sau xạ 1
tháng so với pH nước bọt trước xạ:
Mức độ giảm pH = [(pHtrước xạ - pHsau
xạ)/pHtrước xạ]x100%
Đo và đánh giá lưu lượng nước bọt của bệnh
nhân tại các thời điểm: thời điểm 1: trước khi xạ
trị; Thời điểm 2: sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng.
Nhập số liệu và xử lý số liệu thống kê bằng
chương trình SPSS 16.0
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Thay đổi lưu lượng nước bọt trước và sau
xạ trị 1 tháng
Trong nghiên cứu này, có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về lượng nước bọt (nghỉ và kích
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 211
thích) giữa thời điểm trước xạ với thời điểm sau
xạ 1 tháng, lượng nước bọt nghỉ và kích thích ở
thời điểm sau xạ 1 tháng thấp hơn có ý nghĩa so
với trước xạ trị (p=0,001<0,05).
Bảng 1: Sự khác biệt về lượng nước bọt (nghỉ và kích
thích) trước xạ và sau xạ 1 tháng ở bệnh nhân ung
thư vòm hầu
LNB.N (gram/5phút) LNB.KT (gram/5phút)
Trước xạ
Sau xạ 1
tháng
Trước xạ
Sau xạ 1
tháng
TB ±
ĐLC
1,71 ± 0,88 0,24 ± 0,18 9,52 ± 2,92 0,81 ± 0,45
min -
max
0,63 – 4,5 0,05-0,92 3,19-14,35 0,1-1,73
p 0,001 0,001
Kiểm định Paired-Samples t-test
Theo Screebny (1995), bình thường lưu
lượng nước bọt không kích thích xấp xỉ
0,3ml/phút và lưu lượng nước bọt kích thích
nằm trong khoảng 1-2ml/phút [17]. Ở thời
điểm trước xạ, nhóm nghiên cứu có lượng
nước bọt không kích thích trung bình là
1,71gram/5phút, tương đương 0,34ml/phút và
lượng nước bọt kích thích trung bình là
9,52gram/5phút, tương đương 1,9ml/phút.
Như vậy giá trị này nằm trong khoảng bình
thường, tuy nhiên có sự khác biệt rất lớn giữa
các cá thể trong mẫu nghiên cứu.
Bảng 2: Mức độ thay đổi lượng nước bọt nghỉ và kích
thích 1 tháng sau xạ ở bệnh nhân ung thư vòm hầu
LNB. N (%) LNB. KT (%)
TB ± ĐLC 86,7 ± 5,47 91,8 ± 3,4
min - max 75,2-94,9 83,4-98,7
p 0,001
Kiểm định Paired-Samples t-test
Khi xét về mức độ giảm lưu lượng nước bọt
(tính bằng tỷ lệ %), kết quả cho thấy: lượng nước
bọt nghỉ trung bình giảm 86,7 ± 5,47% so với
trước khi xạ (thấp nhất là 75,2% và cao nhất là
94,9%), lượng nước bọt kích thích trung bình
giảm 91,8 ± 3,4% so với trước khi xạ (thấp nhất là
83,4% và cao nhất là 98,7%).
Năm 2003, Bonan và Paulo nghiên cứu về sự
giảm lưu lượng nước bọt của bệnh nhân xạ trị
ung thư đầu cổ, kết quả cho thấy có sự giảm sút
nghiêm trọng lưu lượng nước bọt trên bệnh
nhân ung thư đầu cổ sau khi kết thúc xạ trị(10).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
nghiên cứu của các tác giả khác. Kết quả nghiên
cứu ở thời điểm kết thúc xạ trị 1 tháng cho thấy,
mẫu nghiên cứu có lượng nước bọt không kích
thích trung bình là 0,24gram/5phút, tương
đương 0,048ml/phút và lượng nước bọt kích
thích trung bình là 0,81gram/5phút, tương
đương 0,162ml/phút. Với kiểm định Paired-
Samples T-Test, chúng tôi nhận thấy có sự khác
biệt rất lớn giữa lượng nước bọt sau xạ 1 tháng
so với lượng nước bọt trước xạ: lượng nước bọt
sau xạ 1 tháng thấp hơn có ý nghĩa so với lượng
nước bọt trước xạ, cả về nước bọt không thích
thích và nước bọt kích thích (p<0,05).
Theo Dawes (1996), giá trị của lưu lượng
nước bọt không kích thích nhỏ hơn 0,1ml/phút
hoặc lưu lượng nước bọt kích thích dưới
0,7ml/phút cho thấy chức năng tuyến nước bọt bị
suy giảm. Nếu xét theo từng cá thể trong nghiên
cứu, có 91,89% bệnh nhân có lượng nước bọt
không kích thích dưới mức 0,1ml/phút và 100%
bệnh nhân có lưu lượng nước bọt kích thích dưới
0,7ml/phút, do đó có thể kết luận 100% bệnh
nhân bị suy giảm chức năng tuyến nước bọt sau
xạ trị. Lưu lượng nước bọt đóng một vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ niêm mạc miệng,
làm sạch và rửa trôi mảng bám từ thức ăn, góp
phần trung hòa acid từ thức ăn và màng sinh
học. Do đó, với lưu lượng nước bọt rất thấp này
thể hiện chức năng kém và có sự gia tăng nguy
cơ sâu răng ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau
xạ trị.
Theo Stookey (2008) và Dawes (1996), giới
hạn bình thường của lưu lượng nước bọt là rất
lớn, vì thế khó có thể nói một người có lưu lượng
nước bọt thấp là bất thường hay không, trừ
trường hợp hầu như hoàn toàn không có nước
bọt(12). Do đó, không thể dùng lưu lượng nước
bọt trung bình trong cộng đồng để đánh giá lưu
lượng nước bọt của cá thể là đủ hay không tại
một thời điểm nhất định. Lưu lượng nước bọt ở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 212
những người khác nhau có thể rất khác nhau
nên cách chẩn đoán tốt nhất là đánh giá sự thay
đổi lưu lượng nước bọt ở mỗi cá thể theo thời
gian(7). Theo kết quả nghiên cứu, ở thời điểm sau
xạ 1 tháng, lượng nước bọt không kích thích
trung bình giảm 86,7% và lượng nước bọt kích
thích trung bình giảm 91,8% so với trước khi xạ.
Trong nghiên cứu của Epstein (1998) lưu lượng
nước bọt không kích thích giảm 80% và nước bọt
kích thích giảm 86,46% sau khi kết thúc xạ trị.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng và
Nguyễn Xuân Nhi (2003) mức độ giảm này là
83,22% ở nước bọt không kích kích và 90,08% ở
nước bọt kích thích(9). Mức độ suy giảm nước bọt
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với
kết quả của hai nghiên cứu kể trên. Sự khác biệt
này là do sự khác nhau về tổng liều xạ lên đối
tượng nghiên cứu trong mỗi nghiên cứu. Tổng
liều xạ trung bình trong nghiên cứu của Epstein
là 40,44 Gy (thay đổi từ 35 đến 60 Gy), trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn
Xuân Nhi là 66 Gy và trong nghiên cứu này là 70
Gy. Theo Sreebny (2008), mức độ suy giảm chức
năng tuyến nước bọt do xạ trị phụ thuộc vào hai
yếu tố chính là thể tích mô tuyến nằm trong
trường chiếu xạ và tổng liều xạ trị. Do đó, đối
tượng của nghiên cứu này được điều trị với tổng
liều xạ cao hơn thì mức độ giảm lưu lượng nước
bọt cao hơn là điều tất nhiên. Ngoài ra, theo
Chua (2007), lưu lượng nước bọt giảm trong khi
xạ trị và vẫn tiếp tục giảm sau thời gian xạ trị (1-
3 tháng sau xạ), đây cũng có thể là nguyên nhân
làm mức độ giảm nước bọt sau xạ trị 1 tháng của
nghiên cứu này cao hơn mức độ giảm ngay sau
khi kết thúc xạ trị ở 2 nghiên cứu đối chiếu(6).
Cùng với sự sụt giảm nghiêm trọng về lưu
lượng nước bọt như vậy, bệnh nhân ung thư
vòm hầu sau xạ trị có thể đối mặt với tình trạng
khô miệng do sự giảm lưu lượng nước bọt. Khô
miệng xảy ra khi lưu lượng nước bọt không kích
thích giảm trên 50% (Dawes, 1987) hay khi lưu
lượng nước bọt kích thích còn dưới 45% lưu
lượng ban đầu (Carl và cs., 1999)(4). Trong nghiên
cứu này, lượng nước bọt không kích thích trung
bình giảm 86,7% và lượng nước bọt kích thích
trung bình giảm 91,8% so với lượng ban đầu, do
đó, khả năng bệnh nhân bị khô miệng sau xạ trị
là rất cao.
Tóm lại, từ những kết quả thu được về lưu
lượng nước bọt sau xạ, chúng tôi thấy rằng có sự
giảm nghiêm trọng lượng nước bọt không kích
thích và kích thích ở thời điểm sau khi kết thúc
xạ trị 1 tháng so với trước xạ, 100% bệnh nhân bị
suy giảm chức năng tuyến nước bọt và những
bệnh nhân này có nguy cơ sâu răng và khô
miệng cao.
Thay đổi lưu lượng nước bọt khảo sát theo
tuổi, theo giai đoạn và phương pháp điều
trị ung thư vòm hầu
Bảng 3: So sánh sự thay đổi của lưu lượng nước bọt
ở hai thời điểm khảo sát theo tuổi ở bệnh nhân ung
thư vòm hầu
Thời
điểm
< 50 tuổi (n
= 18)
≥ 50 tuổi (n
= 19) p
LNB. N
(gram/5phút)
T0 1,85 ± 0,84 1,58 ± 0,91 0,354
T1 0,32 ± 0,19 0,16 ± 0,12 0,004
LNB. KT
(gram/5phút)
T0 10,09 ± 2,08 8,97 ± 2,99 0,250
T1 1,03 ± 0,46 0,60 ± 0,34 0,002
Bảng 4: So sánh sự thay đổi thay đổi lưu lượng nước
bọt ở hai thời điểm khảo sát theo giai đoạn ung thư ở
bệnh nhân ung thư vòm hầu
Thời
điểm
< Giai đoạn
IV
Giai đoạn
IV
p
LNB. N (gram/5
phút)
T0 1,82 ± 1,08 1,68 ± 0,82 0,686
T1 0,23 ± 0,16 0,24 ± 0,18 0,960
LNB. KT
(gram/5phút)
T0 10,73 ± 2,08 9,13 ± 3,07 0,154
T1 0,79 ± 0,37 0,81 ± 0,48 0,883
Bảng 5:. So sánh sự thay đổi thay đổi lưu lượng
nước bọt ở hai thời điểm khảo sát theo phương pháp
điều trị ở bệnh nhân ung thư vòm hầu
Thời
điểm
Không hóa
trị (n = 24)
Có hóa trị
(n = 13)
p
LNB. N (gram/5
phút)
T0 1,74 ± 1,03 1,67 ± 0,52 0,820
T1 0,23 ± 0,20 0,25 ± 0,13 0,642
LNB. KT
(gram/5phút)
T0 9,61 ± 3,04 9,34 ± 2,79 0,793
T1 0,80 ± 0,49 0,81 ± 0,40 0,967
Sự loạn năng tuyến nước bọt phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như liều xạ, trường chiếu
(thể tích mô nằm trong trường chiếu xạ) và cả
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 213
lượng nước bọt ban đầu (trích dẫn nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Xuân Nhi,
2003). Trong các yếu tố đó, liều xạ và thể tích
mô tuyến tiếp xúc tia xạ là hai yếu tố chìa
khóa để đánh giá mức độ suy giảm chức năng
tuyến nước bọt (Valdez, 1991). Ở nghiên cứu
này, tất cả đối tượng nghiên cứu đều là những
bệnh nhân ung thư vòm hầu với cùng tổng
liều xạ và trường chiếu xạ gần như giống
nhau, do đó sự khác biệt do ảnh hưởng của
hai yếu tố trên là không đáng kể.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy sự thay đổi
các đặc điểm nước bọt sau xạ có tương quan với
đặc điểm nước bọt ban đầu. Nghĩa là, đặc điểm
nước bọt trước xạ có ảnh hưởng đến sự thay đổi
của các đặc điểm này sau xạ trị, ngoại trừ sự thay
đổi của lượng nước bọt không kích thích là
không bị ảnh hưởng bởi lượng nước bọt ban
đầu. Cụ thể, bệnh nhân có lượng nước bọt không
kích thích trước xạ cao thì mức độ giảm lượng
nước bọt này sẽ thấp hơn bệnh nhân có lượng
nước bọt kích thích trước xạ thấp và ngược lại.
Bảng 6: So sánh mức độ thay đổi lưu lượng nước bọt
(%) ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau kết thúc xạ 1
tháng theo tuổi
< 50 tuổi (n =
18)
≥ 50 tuổi (n
=19 )
p
Giảm LNB. N (%) 82,9 ± 5,1 90,4 ± 2,4 0,001
Giảm LNB. KT (%) 89,9 ± 3,4 93,6 ± 2,1 0,001
Kiểm định Independent-Samples t-test
Khi phân bố đặc điểm lưu lượng nước bọt (ở
cả hai thời điểm trước xạ và sau xạ) và mức độ
giảm của các đặc điểm này theo tuổi (dưới 50
tuổi và từ 50 tuổi trở lên), giai đoạn ung thư (ung
thư chưa đến giai đoạn IV và ung thư giai đoạn
IV (theo phân loại của UICC)) và hóa trị (có kết
hợp hóa trị và không có kết hợp hóa trị); chúng
tôi nhận thấy có một số khác biệt có ý nghĩa
thống kê: Mức độ giảm lượng nước bọt (không
kích thích và có kích thích) ở thời điểm sau khi
kết thúc xạ trị 1 tháng (so với trước xạ trị) ở bệnh
nhân dưới 50 tuổi thấp hơn so với bệnh nhân từ
50 tuổi trở lên. Đồng thời, lượng nước bọt
(không kích thích và có kích thích) ở nhóm bệnh
nhân trên 50 tuổi thấp hơn có ý nghĩa so với
bệnh nhân dưới 50 tuổi ở thời điểm sau xạ 1
tháng mặc dù không có sự khác biệt này ở thời
điểm trước xạ trị (p<0,05). Như vậy, ngoài yếu tố
về tuổi, các yếu tố như giới tính, giai đoạn ung
thư và hóa trị không ảnh hưởng đến sự thay đổi
lưu lượng nước bọt của bệnh nhân ung thư vòm
hầu sau xạ trị. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Xuân Nhi
(2003), nghiên cứu của hai tác giả này cũng nhận
thấy có sự khác biệt về mức độ giảm nước bọt
khi so sánh theo tuổi và không có sự khác biệt
khi so sánh theo giới, giai đoạn ung thư và hóa
trị ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết
thúc xạ trị.
Đây mới chỉ là những kết quả ban đầu trong
một nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ và chỉ khảo sát
trong một thời gian ngắn, nếu muốn có được
những kết luận chính xác và toàn diện hơn, cần
phải có những nghiên cứu tiếp theo qui mô hơn.
KẾT LUẬN
Lưu lượng nước bọt ở bệnh nhân ung thư
vòm hầu trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ
trị 1 tháng
Lưu lượng nước bọt không kích thích, lưu
lượng nước bọt kích thích ở thời điểm sau khi
kết thúc xạ 1 tháng đều thấp hơn có ý nghĩa so
với thời điểm trước xạ trị.
So sánh và phân tích mối liên quan lưu
lượng nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm
hầu trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1
tháng
Có tương quan thuận giữa lượng nước bọt
trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng. Về
nước bọt không kích thích, không có mối tương
quan giữa lượng nước bọt trước xạ trị và mức độ
giảm nước bọt sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng. Về
nước bọt kích thích, có mối tương quan nghịch
yếu giữa lượng nước bọt trước xạ trị và mức độ
giảm nước bọt sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 214
Mối liên quan giữa sự thay đổi lưu lượng
nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau
kết thúc xạ 1 tháng với tuổi, giai đoạn ung
thư và phương pháp điều trị
Tuổi: mức độ giảm lượng nước bọt không
kích thích và có kích thích sau khi kết thúc xạ trị
1 tháng ở bệnh nhân dưới 50 tuổi thấp hơn so
với bệnh nhân trên 50 tuổi.
Giai đoạn ung thư: không có sự khác biệt về
mức độ giảm lượng nước bọt sau khi kết thúc xạ
1 tháng giữa bệnh nhân ung thư ở giai đoạn IV
và chưa đến giai đoạn IV.
Phương pháp điều trị: không có sự khác
biệt về mức độ giảm lượng nước bọt sau khi
kết thúc xạ 1 tháng giữa bệnh nhân xạ trị
không có kết hợp hóa trị và bệnh nhân xạ trị
có kết hợp hóa trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bangalore LGP, el al. (2011), "Assessment of parotid salivary
gland function in head and neck cancer patients receiving
radiation therapy using quantitative salivary gland
scintigraphy", Pakistan Journal of Physiology; 7(1).
2. Blanco AI, Chao KS, El Naqa I (2005), "Dose-volume modeling
of salivary function in patients with head-and-neck cancer
receiving radiotherapy", International Journal of Radiation
Oncology, 62(4), pp 1055-69.
3. Braam PM, el al. (2005), "Long-term parotid gland function
after radiotherapy", International Journal of Radiation Oncology,
62(3), pp 659-64.
4. Carl WH, Spencer WR (1999), "Dental management and
treatment of xerostomia patients". Oral Health, pp 53-67.
5. Changyu Z ,et al. (2011), "Prevention of Radiation-Induced
Salivary Hypofunction Following hKGF Gene Delivery to
Murine Submandibular Glands". Clin Cancer Res, 17(9), pp
2842–2851.
6. Chua DT, El al. (2007), "Late oral complications following
radiotherapy for head and neck cancers", Expert Review of
Anticancer Therapy, 7(9), pp 1215-24.
7. Huỳnh Anh Lan, “Các xét nghiệm nước bọt tại ghế nha”,
Khám chẩn đoán vùng miệng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh.
8. Million RR, el al. (1988), “Treatment results for simultaneous
primary squamous cell carcinoma of the head and neck”,
Laryngoscope, 98, pp 79-82.
9. Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Xuân Nhi (2003), Khảo sát tình
trạng khô miệng ở bệnh nhân ung thư vòm hầu trong thời gian xạ
trị, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm Mặt.
10. Paulo RFB el al. (2003), "Evaluation of salivary flow in patients
during head and neck radiotherapy", Pesqui Odontol Bras,
17(2), pp 156-60.
11. Sreebny LM el al. (1995), "The preparation of an autologous
saliva for use with patients undergoing therapeutic radiation
for head and neck cancer", International Journal of Oral and
Maxillofacial Surgery, 53, pp 131-9.
12. Stookey GK (2008), “The effect of saliva on dental caries”,
Journal American Dental Association, 139 Suppl, pp 11S-17S.
13. Valdez IH, (1991), “Radiation-induced salivary dysfunction:
clinical course and significance”, Spec Care Dentist, 11, pp 252-
255.
Ngày nhận bài báo: 31/01/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2015
Người phản biện: PGS-TS Hoàng Đạo Bảo Trâm
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_su_thay_doi_luu_luong_nuoc_bot_o_benh_nhan_ung_thu.pdf