Các mối liên quan
Mối liên quan giữa các đặc điểm dịch tễ, lâm
sàng với tình trạng suy dinh dưỡng qua phân
tích đơn biến và phân tích đa biến (bảng 1, bảng
3), chúng tôi thấy rằng:
‐ Trẻ biếng ăn có cân nặng lúc sinh <2500g có
tình trạng suy dinh dưỡng cao hơn gần 4 lần so
với trẻ có cân nặng lúc sinh ≥2500g (với p<0,001).
Trẻ có cân nặng lúc sinh thấp là yếu tố nguy cơ
của tình trạng suy dinh dưỡng(7), nếu những trẻ
này bị biếng ăn thì càng dễ bị suy dinh dưỡng
hơn vì thiếu dưỡng chất.
‐ Trẻ có 1 nhóm biếng ăn có tình trạng suy
dinh dưỡng cao hơn gần 2 lần trẻ có từ 2 nhóm
biếng ăn trở lên (p=0,019). Tuy nhiên, số nhóm
biếng ăn chẩn đoán được trong nghiên cứu của
chúng tôi là dựa vào sự nhận định của cha mẹ
về các hành vi ăn uống của trẻ, không phản ánh
được năng lượng nạp vào của trẻ trong chế độ
ăn hàng ngày, vì nếu năng lượng trẻ dung nạp
đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của trẻ thì
dù trẻ biếng ăn 1 nhóm hay phối hợp nhiều
nhóm thì vẫn không bị suy dinh dưỡng.
‐ Trẻ có thời gian biếng ăn <1 năm có tỷ lệ
suy dinh dưỡng giảm 50% so với trẻ có thời gian
biếng ăn ≥1 năm (p<0,001). Những trẻ biếng ăn
được đưa đi khám và điều trị sớm sẽ tránh được
sự thiếu hụt năng lượng và dưỡng chất kéo dài
và sẽ tránh được nguy cơ bị suy dinh dưỡng.
Ngược lại, trẻ bị biếng ăn lâu dài, đặc biệt là ở
những trẻ không được bổ sung năng lượng và
dưỡng chất bị thiếu hụt do biếng ăn thì trẻ sẽ
không tăng trưởng tốt, dẫn đến suy dinh dưỡng.
Dựa vào các đặc điểm của từng nhóm biếng
ăn, chúng tôi thấy rằng sợ ăn là biểu hiện của
tình trạng từ chối ăn quyết liệt, là phản ứng dữ
dội nhất đối với việc ăn uống. Theo mô tả của
tác giả Chatoor trong cuốn sách “Chẩn đoán và
điều trị các rối loạn nuôi ăn” (4) thì sợ ăn có vẻ
như là hệ quả cuối cùng của quá trình biếng ăn,
sợ ăn có thể do các nhóm biếng ăn khác khi
không được điều trị đúng đắn dẫn đến. Chúng
tôi thấy biếng ăn nhũ nhi gặp hầu hết ở các
trường hợp biếng ăn nên trẻ biếng ăn nhũ nhi
đều có thể bị sợ ăn (bảng 2). Trẻ ác cảm với thức
ăn hoặc biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa bị
sợ ăn nhiều hơn gần 2 lần so với những trẻ biếng
ăn không thuộc 2 nhóm biếng ăn này (p<0,05)
(bảng 2, bảng 4).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 164 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình trạng biếng ăn ở trẻ từ 12‐36 tháng tuổi tại phòng khám dinh dưỡng bệnh viện Nhi đồng 1 từ tháng 6/2012 đến tháng 1/2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 514
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG BIẾNG ĂN Ở TRẺ TỪ 12‐36 THÁNG TUỔI
TẠI PHÒNG KHÁM DINH DƯỠNG BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
TỪ THÁNG 6/2012 ĐẾN THÁNG 1/2013
Lê Thị Kim Dung*, Nguyễn Anh Tuấn**, Huỳnh Thị Duy Hương**
TÓM TẮT
Mở đầu: Biếng ăn ở trẻ em rất phổ biến. Công cụ IMFeD giúp tiếp cận 6 nhóm biếng ăn ở trẻ. Ở Việt Nam
chưa có nghiên cứu về phân loại các nhóm biếng ăn.
Mục tiêu: (1)Xác định đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và phân loại biếng ăn theo IMFeD.(2)Xác định mối liên
quan giữa đặc điểm dịch tễ, lâm sàng với tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ biếng ăn, mối liên quan giữa các nhóm
biếng ăn.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả và phân tích 366 trẻ 12‐36 tháng tuổi có thời gian biếng ăn ≥ 1
tháng. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, triệu chứng của 6 nhóm biếng ăn theo IMFeD (biếng ăn nhũ nhi, ác cảm với
thức ăn, biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa, sợ ăn, thờ ơ với chuyện ăn, sự quan tâm quá mức của cha mẹ)
được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp.
Kết quả: Tuổi đến khám nhiều nhất là 12‐<18 tháng tuổi (41%). Tỷ lệ nam:nữ = 1.14:1. Đa số trẻ xuất hiện
biếng ăn lúc 6‐<12 tháng tuổi (50%). Thời gian biếng ăn trung bình là 11± 6,6 tháng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng là
38,%. Hầu hết trẻ thuộc nhóm biếng ăn nhũ nhi (99,5%). Phần lớn trẻ có ≥ 2 nhóm biếng ăn phối hợp (76%).
Trẻ có thời gian biếng ăn <1 năm có tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm so với trẻ có thời gian biếng ăn ≥1 năm
(PR=0,45; CI: 0,29‐0,70). Trẻ có thể bị sợ ăn nhiều hơn nếu trẻ thuộc một trong hai nhóm: ác cảm với thức ăn
(PR=1,88; CI: 1,11‐3,16); biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa (PR=1,82; CI: 1,07‐3,09).
Kết luận: Biếng ăn thường xảy ra vào giai đoạn chuyển tiếp thức ăn. Biếng ăn ≥ 1 năm có thể gây suy dinh
dưỡng. Biếng ăn nhũ nhi phổ biến nhất. Trẻ thường có nhiều nhóm biếng ăn phối hợp. Trẻ ác cảm với thức ăn
hoặc biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa có thể bị sợ ăn nhiều hơn những trẻ không thuộc 2 nhóm này.
Từ khóa: Biếng ăn, biếng ăn nhũ nhi, ác cảm với thức ăn, phân loại biếng ăn, công cụ IMFeD, suy dinh
dưỡng.
ABSTRACT
FEEDING DISORDERS IN CHILDREN 12‐36 MONTHS OLD AT NUTRITION DEPARTMENT OF
CHILDREN’S HOSPITAL N01, JUN 2012 – JAN 2013
Le Thi Kim Dung, Nguyen Anh Tuan, Huynh Thi Duy Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 514 ‐ 519
Background: Feeding disorders are common among children. IMFeD tool helps pediatricians identify 6
kinds of feeding disorders in children. In Vietnam, the classification of feeding disorders has not been researched.
Objectives: (1) To determine the prevalence of epidemiologic, clinical characteristics and to classify feeding
disorders based on IMFeD tool. (2)To determine the relations of above characteristics with malnutrition status of
children that had feeding disorders and the relations among feeding disorders.
Method: A descriptive and analysis cross‐sectional study enrolled 366 children of 12‐36 months old of
*Bệnh viện Nhi Đồng 1, **Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Lê Thị Kim Dung ĐT: 0937637990 Email: drkimdung84@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 515
which duration of feeding disorders ≥ 1 month. Epidemiologic, clinical characteristics and symptoms of 6 kinds of
feeding disorders based on IMFeD tool (infantile anorexia, sensory food aversions, feeding disorder associated
with a concurrent medical condition, fear of feeding, poor appetite in an apathetic and withdrawn child, parental
misperception) were collected by direct interview.
Results: The most popular children’s age was 12‐<18 months old (41%). Male:female ratio was 1.14:1. Half
of the children began to have feeding disorders at 6‐<12 months old (50%). Mean duration of feeding disorders
was 11 months (S.D.=6.6). The percentage of malnourished children was 38.3%. Most of the children got
infantile anorexia (99.5%). Lots of them had more than 1 kind of feeding disorder (76%). Children of which
duration of feeding disorders < 1 year were associated with decreased prevalence of malnutrition (PR=0.45;
p<0.001) compared with subjects of which duration of feeding disorders ≥ 1 year. Prevalence of fear of feeding
increased in children involved in either sensory food aversions (PR=1.88; CI:1.11‐3.16) or feeding disorder
associated with a concurrent medical condition (PR=1.82; CI: 1.07‐3.09).
Conclusion: Feeding disorders usually appeared in food transition period. Persistent feeding disorders
may caused malnutrition. The most common feeding disorder was infantile anorexia. It was likely that
children usually had complex feeding disorders. Children with sensory food aversions or feeding disorder
associated with a concurrent medical condition had higher prevalence of fear of feeding than those with none
of above feeding disorders.
Key words: feeding disorder, infantile anorexia, sensory food aversions, feeding disorder classification,
IMFeD tool, malnutrition.
MỞ ĐẦU
Biếng ăn rất phổ biến trên toàn thế giới và là
một trong những mối quan tâm lớn nhất của các
bậc phụ huynh. Hậu quả của biếng ăn nếu
không được điều trị sẽ dẫn đến thiếu chất dinh
dưỡng, ảnh hưởng sự tăng trưởng, ngoài ra còn
ảnh hưởng xấu lên cảm xúc, nhận thức và khả
năng hòa nhập xã hội của trẻ. Công cụ IMFeD
(Xác định và chẩn đoán biếng ăn) là sáng kiến
của bác sĩ Benny Kerzner, khoa tiêu hoá và dinh
dưỡng thuộc trung tâm nhi khoa quốc gia Hoa
Kỳ, dựa theo phân loại các nhóm biếng ăn của
bác sĩ Irene Chatoor, giáo sư tâm thần và nhi
khoa, trung tâm nhi khoa quốc gia Hoa Kỳ, phác
họa hướng tiếp cận và điều trị thích hợp cho 6
nhóm biếng ăn ở trẻ(8). Ở Việt Nam chưa có
nghiên cứu về phân loại các nhóm biếng ăn, do
đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các
mục tiêu: (1) Xác định đặc điểm dịch tễ, lâm
sàng và phân loại biếng ăn theo IMFeD ở trẻ từ
12‐36 tháng tuổi; (2) Xác định các mối liên quan
giữa đặc điểm dịch tễ, lâm sàng với tình trạng
suy dinh dưỡng ở trẻ biếng ăn, mối liên quan
giữa các nhóm biếng ăn.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Một nghiên cứu cắt ngang, mô tả và phân
tích được tiến hành tiến cứu từ tháng 6/2012 đến
tháng 1/2013 với dân số mục tiêu là những trẻ từ
12 ‐ 36 tháng tuổi được đưa đến khám biếng ăn
tại phòng khám dinh dưỡng bệnh viện Nhi
Đồng 1. Cỡ mẫu tính theo công thức là 362 trẻ,
phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Tiêu chuẩn
loại trừ là những trẻ có biểu hiện từ chối ăn
trong thời gian < 1 tháng, người đưa đến khám
không biết rõ tình trạng biếng ăn của trẻ, trẻ bị
chậm phát triển tâm thần, bị bệnh lý cấp cứu,
bệnh lý thần kinh cơ, bệnh lý ngoại khoa, bệnh
lý mạn tính như bệnh lý tim mạch, thận, hô hấp,
chuyển hóa chưa kiểm soát, dị tật bẩm sinh
đường tiêu hóa chưa được điều trị. Các đặc
điểm dịch tễ, lâm sàng, triệu chứng của 6 nhóm
biếng ăn theo IMFeD (gồm: biếng ăn nhũ nhi, ác
cảm với thức ăn, biếng ăn liên quan đến bệnh
nội khoa, sợ ăn, thờ ơ với chuyện ăn, sự quan
tâm quá mức của cha mẹ) được thu thập bằng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 516
cách phỏng vấn trực tiếp theo phiếu thu thập
thông tin.
Thống kê mô tả: tính tỷ lệ phần trăm và tần
số đối với biến số định tính, tính trung bình và
độ lệch chuẩn đối với biến số định lượng. Thống
kê phân tích: phân tích đơn biến các mối liên
quan bằng phép kiểm Chi bình phương, phép
kiểm chính xác Fisher (nếu tần số < 5); phân tích
đa biến các mối liên quan bằng mô hình hồi quy
logistic. Ngưỡng thống kê có ý nghĩa khi giá trị
p < 0,05.
KẾT QUẢ
Từ ngày 18/6/2012 đến ngày 16/1/2013 có 366
trẻ được đưa vào nghiên cứu.
Đặc điểm dịch tễ
Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu: 21 ±
7 tháng tuổi, trẻ đến khám biếng ăn từ 12‐<18
tháng tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (41%). Tỷ lệ
nam:nữ là 1,14:1. Đa số trẻ đến khám biếng ăn là
con đầu lòng (61%), thấp nhất là trẻ thuộc gia
đình đông con (≥3 con) (3,5%).
Đặc điểm lâm sàng
Thời điểm xuất hiện biếng ăn trung bình là
10 ± 5,6 tháng tuổi, 50% ở giai đoạn 6‐<12
tháng tuổi.
Thời gian biếng ăn trung bình là 11± 6,6
tháng, 37,7% biếng ăn từ 6‐<12 tháng, 36,6%
biếng ăn từ 12‐<24 tháng.
25% trẻ không được cho ăn thức ăn phù
hợp tuổi.
60,9% trẻ có cân nặng và chiều cao trong giới
hạn bình thường, 38,3% suy dinh dưỡng (khi trẻ
có 1 trong 3 yếu tố cân nặng theo tuổi, chiều cao
theo tuổi, cân nặng theo chiều cao < ‐2SD), 3,5%
thừa cân.
Các nhóm biếng ăn theo IMFeD
76% trẻ có ≥ 2 nhóm biếng ăn phối hợp
74,8% phối hợp 2 nhóm biếng ăn nhũ nhi và
biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa.
Nhóm biếng ăn nhũ nhi chiếm hầu hết các
trường hợp (99,5%), nhóm thờ ơ với chuyện ăn
chiếm tỷ lệ thấp nhất (0,5%).
Biểu đồ 1: Tỷ lệ các nhóm biếng ăn
Các mối liên quan
Phân tích đơn biến và đa biến các mối liên
quan giữa:
‐ Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng với tình trạng
suy dinh dưỡng ở trẻ biếng ăn.
‐ Giữa các nhóm biếng ăn khác với nhóm sợ
ăn (theo mô tả của tác giả Chatoor trong cuốn
sách “Chẩn đoán và điều trị các rối loạn nuôi
ăn”(4) thì sợ ăn có thể do các nhóm biếng ăn khác
khi không được điều trị đúng đắn dẫn đến).
Phân tích đơn biến
Bảng 1: Liên quan giữa đặc điểm dịch tễ, lâm sàng với tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ biếng ăn
SDD n (%) Không SDD n (%) PR (KTC 95%) p
Trình độ học vấn cha < cấp 2 19(51,4) 18(48,6)
1,394 (0,988-1,967)
0,086
Trình độ học vấn cha ≥ cấp 2 119(36,8) 204(63,2)
Trình độ học vấn mẹ < cấp 2 20(44,4) 25(55,6)
1,185 (0,830-1,692)
0,370
Trình độ học vấn mẹ ≥ cấp 2 120(37,5) 200(62,5)
Sinh đủ tháng 128(38,1) 208(61,9)
0,952 (0,602-1,507)
0,837
Thiếu tháng 12(40) 18(60)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 517
SDD n (%) Không SDD n (%) PR (KTC 95%) p
Cân nặng lúc sinh < 2500g 28(70) 12(30)
2,038 (1,583-2,622)
<0,001
Cân nặng lúc sinh ≥ 2500g 112(34,4) 214(65,6)
Ăn dặm < 4 tháng tuổi 6(33,3) 12(66,7)
0,866 (0,444-1,686)
0,660
Ăn dặm ≥ 4 tháng tuổi 134(38,5) 214(61,5)
Thức ăn phù hợp 110(40,1) 164(59,9)
1,231 (0,887-1,708)
0,198
Thức ăn không phù hợp 30(32,6) 62(67,4)
1 nhóm biếng ăn 43(48,9) 45(51,1)
1,4 (1,072-1,830)
0,035
≥ 2 nhóm biếng ăn 97(34,9) 181(65,1)
Thời gian biếng ăn < 1 năm 63(29,7) 149(70,3)
0,594 (0,458-0,771)
<0,001
Thời gian biếng ăn ≥ 1 năm 77(50) 77(50)
Bảng 2: Liên quan giữa các nhóm biếng ăn khác với
nhóm sợ ăn
Sợ ăn
n(%)
Không sợ ăn
n(%)
PR (KTC 95%) p
Biếng ăn nhũ nhi
Có 87(23,9) 277(76,1) 0,761 (0,718-
0,806) 0,428Không 0(0) 2(100)
Ác cảm với thức ăn
Có 36(34,3) 69(65,7) 1,755 (1,222-
2,519) 0,003Không 51(19,5) 210(80,5)
Biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa
Có 61(29,2) 148(70,8) 1,762 (1,170-
2,655) 0,005Không 26(16,6) 131(83,4)
Sự quan tâm quá mức của cha mẹ
Có 18(28,6) 45(71,4) 1,255 (0,806-
1,952) 0,325Không 69(22,8) 234(77,2)
Phân tích đa biến
Bảng 3: Liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng
với cân nặng lúc sinh, số nhóm biếng ăn và thời gian
biếng ăn qua phân tích đa biến
Biến số độc lập PR KTC 95% p
Cân nặng lúc sinh 3,865 1,854-8,057 <0,001
Số nhóm biếng ăn 1,847 1,108-3,079 0,019
Thời gian biếng ăn 0,448 0,287-0,702 <0,001
Bảng 4: Liên quan giữa sợ ăn với ác cảm với thức ăn,
biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa qua phân tích
đa biến
Biến số độc lập PR KTC 95% p
Ác cảm với thức ăn 1,875 1,114-3,156 0,018
Biếng ăn liên quan đến bệnh
nội khoa
1,817 1,069-3,089 0,027
BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ
Nhóm tuổi đến khám biếng ăn phổ biến
nhất là 12‐<18 tháng tuổi (41%), tương đương
với kết quả của tác giả Nguyễn Thanh Danh(9) là
12‐<24 tháng tuổi, tác giả Đào Thị Yến Phi(6) là 6‐
24 tháng tuổi.
Tỷ lệ nam:nữ = 1,14:1. Giống với kết quả
của các tác giả Nguyễn Thanh Danh(9) (1,22:1),
Đào Thị Yến Phi (6) (1,12:1), giống với kết luận
của các tác giả Carruth B.R(2), Chatoor I.(5) là
biếng ăn xuất hiện ở cả nam và nữ với tần suất
ngang nhau.
Đa số trẻ đến khám biếng ăn là con đầu lòng
(61%), thấp nhất là trẻ thuộc gia đình đông con
(≥3 con) (3,5%). Gia đình ít con có nhiều thời
gian chăm sóc trẻ và đưa trẻ đến khám biếng ăn
nhiều hơn gia đình đông con.
Đặc điểm lâm sàng
Thời điểm xuất hiện biếng ăn trung bình là
10 ± 5,6 tháng tuổi, tập trung nhiều nhất ở giai
đoạn 6‐<12 tháng tuổi (50%), là giai đoạn tập ăn
dặm, chuyển tiếp từ thức ăn loãng sang thức ăn
đặc. Đây là giai đoạn quan trọng, trẻ học thêm
những vị thức ăn mới, học cách nhai, tiếp xúc
với muỗng, chén, bàn, ghế khi ăn.
Thời gian biếng ăn trung bình là 11± 6,6
tháng, 37,7% biếng ăn từ 6‐<12 tháng, 36,6%
biếng ăn từ 12‐<24 tháng. Thời gian biếng ăn
tính từ lúc bắt đầu xuất hiện biếng ăn đến khi
tham gia nghiên cứu. Kết quả cho thấy trẻ bị
biếng ăn khá lâu chưa được điều trị hoặc điều trị
không hiệu quả.
25% trẻ không được cho ăn thức ăn phù hợp
tuổi, giống kết quả nghiên cứu của tác giả Đào
Thị Yến Phi(6) (25,8%).
Đa số trẻ có cân nặng và chiều cao trong giới
hạn bình thường (60,9%), thậm chí có 3,5% trẻ
thừa cân, có thể do thời gian biếng ăn chưa đủ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 518
lâu để ảnh hưởng sự tăng trưởng, có thể trẻ
được bổ sung nhiều sản phẩm dinh dưỡng khác
hoặc gia đình lo lắng quá mức. Tuy nhiên, có
38,3% trẻ bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ này thấp hơn
của tác giả Nguyễn Thanh Danh(9) (77,3%) và
Ammaniti M.(1) (51%).
Các nhóm biếng ăn theo IMFeD
Nhóm biếng ăn nhũ nhi gặp nhiều nhất
(99,5%, biểu đồ 1), giống với tác giả Ammaniti
M.(1) (biếng ăn nhũ nhi phổ biến nhất, 62%), khác
với tác giả Chatoor I.(3) (ác cảm với thức ăn chiếm
tỷ lệ cao nhất, 36,9%). Hầu hết các trường hợp
biếng ăn là biếng ăn nhũ nhi, cho thấy nhóm này
rất phổ biến ở nước ta. Nếu chúng ta điều trị
được nhóm này thì sẽ giải quyết được phần lớn
các trường hợp biếng ăn. Thờ ơ với chuyện ăn có
tỷ lệ thấp nhất (0,5%), nhóm này rất hiếm gặp.
Một điểm đáng chú ý khác là 17,2% trẻ có sự
quan tâm quá mức của cha mẹ, những trẻ thuộc
nhóm này việc điều trị biếng ăn cần kết hợp với
điều trị tâm lý của cha mẹ.
Một trẻ có thể có nhiều nhóm biếng ăn phối
hợp, nghiên cứu thấy 76% có ≥ 2 nhóm biếng ăn
phối hợp, phản ảnh tình trạng biếng ăn ở trẻ em
rất phức tạp.
Trong các trường hợp biếng ăn phức tạp,
nhóm biếng ăn nhũ nhi phối hợp với biếng ăn
liên quan đến bệnh nội khoa chiếm tỷ lệ cao
nhất (74,8%).
Các mối liên quan
Mối liên quan giữa các đặc điểm dịch tễ, lâm
sàng với tình trạng suy dinh dưỡng qua phân
tích đơn biến và phân tích đa biến (bảng 1, bảng
3), chúng tôi thấy rằng:
‐ Trẻ biếng ăn có cân nặng lúc sinh <2500g có
tình trạng suy dinh dưỡng cao hơn gần 4 lần so
với trẻ có cân nặng lúc sinh ≥2500g (với p<0,001).
Trẻ có cân nặng lúc sinh thấp là yếu tố nguy cơ
của tình trạng suy dinh dưỡng(7), nếu những trẻ
này bị biếng ăn thì càng dễ bị suy dinh dưỡng
hơn vì thiếu dưỡng chất.
‐ Trẻ có 1 nhóm biếng ăn có tình trạng suy
dinh dưỡng cao hơn gần 2 lần trẻ có từ 2 nhóm
biếng ăn trở lên (p=0,019). Tuy nhiên, số nhóm
biếng ăn chẩn đoán được trong nghiên cứu của
chúng tôi là dựa vào sự nhận định của cha mẹ
về các hành vi ăn uống của trẻ, không phản ánh
được năng lượng nạp vào của trẻ trong chế độ
ăn hàng ngày, vì nếu năng lượng trẻ dung nạp
đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của trẻ thì
dù trẻ biếng ăn 1 nhóm hay phối hợp nhiều
nhóm thì vẫn không bị suy dinh dưỡng.
‐ Trẻ có thời gian biếng ăn <1 năm có tỷ lệ
suy dinh dưỡng giảm 50% so với trẻ có thời gian
biếng ăn ≥1 năm (p<0,001). Những trẻ biếng ăn
được đưa đi khám và điều trị sớm sẽ tránh được
sự thiếu hụt năng lượng và dưỡng chất kéo dài
và sẽ tránh được nguy cơ bị suy dinh dưỡng.
Ngược lại, trẻ bị biếng ăn lâu dài, đặc biệt là ở
những trẻ không được bổ sung năng lượng và
dưỡng chất bị thiếu hụt do biếng ăn thì trẻ sẽ
không tăng trưởng tốt, dẫn đến suy dinh dưỡng.
Dựa vào các đặc điểm của từng nhóm biếng
ăn, chúng tôi thấy rằng sợ ăn là biểu hiện của
tình trạng từ chối ăn quyết liệt, là phản ứng dữ
dội nhất đối với việc ăn uống. Theo mô tả của
tác giả Chatoor trong cuốn sách “Chẩn đoán và
điều trị các rối loạn nuôi ăn” (4) thì sợ ăn có vẻ
như là hệ quả cuối cùng của quá trình biếng ăn,
sợ ăn có thể do các nhóm biếng ăn khác khi
không được điều trị đúng đắn dẫn đến. Chúng
tôi thấy biếng ăn nhũ nhi gặp hầu hết ở các
trường hợp biếng ăn nên trẻ biếng ăn nhũ nhi
đều có thể bị sợ ăn (bảng 2). Trẻ ác cảm với thức
ăn hoặc biếng ăn liên quan đến bệnh nội khoa bị
sợ ăn nhiều hơn gần 2 lần so với những trẻ biếng
ăn không thuộc 2 nhóm biếng ăn này (p<0,05)
(bảng 2, bảng 4).
KẾT LUẬN
Biếng ăn thường xảy ra vào giai đoạn
chuyển tiếp thức ăn. Biếng ăn ≥ 1 năm có thể gây
suy dinh dưỡng. Biếng ăn nhũ nhi phổ biến
nhất. Trẻ thường có nhiều nhóm biếng ăn phối
hợp. Trẻ ác cảm với thức ăn hoặc biếng ăn liên
quan bệnh nội khoa có thể bị sợ ăn nhiều hơn
những trẻ không thuộc 2 nhóm này.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 519
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ammaniti M, Lucarelli L, Cimino S, DʹOlimpio F, and
Chatoor I (2011). Feeding Disorders of Infancy: A longitudinal
study to middle childhood. International Journal of Eating
Disorders, 45 (2): p. 272‐280.
2. Carruth BR, Ziegler PJ, Gordan A, and Barr SI ( 2004).
Prevalence of Picky Eaters among Infants and Toddlers and
Their Caregivers’ Decisions about Offering a New Food.
Journal of the American Dietetic Association, 104: p. 57‐64.
3. Chatoor I (2009). Comorbidities and complex feeding
disorders. Diagnosis and Treatment of Feeding disorders in
Infants, Toddlers, and Young Children, p. 113. ZERO TO
THREE, Washington DC, USA.
4. Chatoor I (2009). Posttraumatic feeding disorder. Diagnosis
and Treatment of Feeding disorders in Infants, Toddlers, and
Young Children, p. 85‐102. ZERO TO THREE, Washington
DC, USA.
5. Chatoor I, Hirsch R, Ganiban J, Persinger M, and Hamburger
E (1998). Diagnosing infantile anorexia: the observation of
mother‐infant interactions. Journal of the American Academy
of Child and Adolescent Psychiatry, 37(9): p. 959‐967.
6. Đào Thị Yến Phi (2006). Đặc điểm tình trạng biếng ăn được
gia đình nhận định của trẻ dưới 15 tuổi khám tại TT. Dinh
dưỡng TP.HCM. Luận văn Thạc sĩ Y học. Bộ môn Nhi Đại
học Y Dược TP.HCM.
7. Ergin F, Okyay P, Atasoylu G, and Beser E (2007). Nutritional
status and risk factors of chronic malnutrition in children
under five years of age in Aydın, a western city of Turkey.
The Turkish journal of Pediatrics, 49: p. 283‐289.
8. Kerzner B (2009). Clinical investigation of feeding difficulties
in young children: a practical approach. Clinical Pediatrics
(Phila), 48: p. 960‐965.
9. Nguyễn Thanh Danh (1999). Khảo sát tình hình chán ăn ở trẻ
em. Tạp chí Y học TP.HCM, 3 (1): p. 44‐48.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_tinh_trang_bieng_an_o_tre_tu_1236_thang_tuoi_tai_ph.pdf