Tỷ lệ thiếu máu ở nữ giới cao hơn rõ rệt so
với nam giới trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi
và điều này có thể liên quan đến tình trạng kinh
nguyệt ở phụ nữ. Nhóm tác giả TC Mix cũng có
nhận xét tương tự và coi sự xuất hiện trở lại chu
kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ là một yếu tố liên quan
đến thiếu máu [7]. Bên cạnh đó, có thể phụ nữ
thường có xu hướng ăn kiêng để giảm cân hoặc
giữ cân ổn định.
Cũng như ở các BN bị BTMT khác, tình trạng
chức năng thận ghép có ảnh hưởng rõ rệt lên tình
trạng thiếu máu ở BN sau ghép thận. Tình trạng
thiếu máu thường được quan sát thấy từ khá sớm,
khi MLCT bắt đầu suy giảm và tỷ lệ cũng như mức
độ thiếu máu tăng dần cùng với sự tiến triển của
BTMT. Tuy nhiên, nếu chức năng thận ghép trong
giới hạn bình thường, cần tìm nguyên nhân gây
thiếu máu khác. Tình trạng viêm mạn tính là một
trong những nguyên nhân không kinh điển gây
thiếu máu ngày càng được quan tâm. Một số tác
giả đề cập tới tình trạng viêm trong các nghiên cứu
ở BN thiếu máu sau ghép thận thông qua giá trị
của CRP. Nghiên cứu của Winkelmayer nhận thấy
40,0% BN có chỉ số CRP cao hơn bình thường
[10], cũng tương tự như kết quả của chúng tôi.
Bên cạnh đó, sự tăng ferritin máu và có thể đi kèm
với transferrin máu giảm đôi khi cũng liên quan đến
tình trạng viêm mạn tính sau ghép thận. Điều này
nhiều khi gây khó khăn cho việc chẩn đoán tình
trạng thiếu máu do thiếu sắt. Chúng tôi không ghi
nhận được tình trạng thiếu sắt ở nhóm BN nghiên
cứu. Tuy nhiên, Lorenz phát hiện 20,1% BN có
thiếu sắt trong tổng số 438 BN ghép thận ở Áo
[6], Moore và cộng sự phát hiện ra rằng 60,0% BN
ghép thận không có thiếu sắt ở thời điểm bắt đầu
ghép đã rơi vào tình trạng thiếu sắt sau ghép thận
6 tháng [8]. Mặc dù tình trạng thiếu hụt vitamin
B12, acid folic chưa phải là đáng kể trong nghiên
cứu này, do số lượng BN nghiên cứu chưa nhiều,
chúng tôi cho rằng vẫn cần lưu ý đến vấn đề này.
Tình trạng viêm loét dạ dày - tá tràng cũng
có thể là một yếu tố góp phần gây thiếu máu. Các
BN nghiên cứu của chúng tôi mặc dù không có
triệu chứng chủ quan rõ rệt, nhưng được chủ động
thăm dò bằng nội soi đường tiêu hóa trên. Ngoài
việc phát hiện các tổn thương viêm-loét, đây có lẽ
cũng là một thăm dò cần thiết để phát hiện sớm
ung thư dạ dày ở nhóm đối tượng có nguy cơ cao
này. Mặc dù không tìm thấy dấu hiệu nhiễm ký
sinh trùng trong phân ở nhóm BN nghiên cứu,
chúng ta không nên quên tình trạng bệnh lý này
trong điều kiện Việt Nam.
Chúng tôi chưa thực hiện được xét nghiệm
tìm Parvovirus B
19 do chưa có phương tiện trong
nước, tuy nhiên đây cũng là một nguyên nhân gây
thiếu máu khó điều trị và có thể tới mức độ nặng,
gây nguy hiểm cho người nhận thận.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình trạng thiếu máu ở bệnh nhân sau ghép thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX158
I. đẶT VẤN đỀ
Thiếu máu là một trong những biểu hiện
thường xuyên và không hồi phục của bệnh thận
mạn tính (BTMT). Tình trạng thiếu máu làm tăng
nguy cơ tử vong ở các bệnh nhân (BN) có các
bệnh lý mạn tính kèm theo. Trong dân số nói
chung, thiếu máu mạn tính là một trong những
nguyên nhân dẫn đến phì đại tâm thất trái và được
công nhận là yếu tố nguy cơ cao ở các BN tử vong
do nguyên nhân tim mạch [1] [4].
Hiện nay, với liệu pháp điều trị bằng bổ sung
erythropoietin ngoại sinh, người ta đã cải thiện
được đáng kể mức độ thiếu máu ở các BN bị
BTMT. Tuy nhiên, tình trạng này thường xuất hiện
khi mức lọc cầu thận (MLCT) giảm xuống dưới
40ml/phút/1,73m2 và có khoảng 75% số BN bắt
đầu lọc máu với nồng độ hemoglobin (Hb) từ 11g/
dl trở xuống [2].
Đối với các BN suy thận mạn tính nặng phải
điều trị thay thế bằng phương pháp lọc máu, tình
trạng thiếu máu rất thường gặp. Riêng đối với
những người được ghép thận và nếu thận ghép
hoạt động tốt, người ta kỳ vọng rằng tình trạng
thiếu máu của BN sẽ được cải thiện bền vững mà
không cần điều trị bổ sung. Tuy nhiên, trên thực tế
vẫn có một tỷ lệ BN nhất định còn tồn tại tình trạng
thiếu máu sau ghép thận mặc dù chức năng thận
ghép trong giới hạn bình thường.
Vấn đề thiếu máu ở BN sau ghép thận được
nhiều tác giả trên thế giới quan tâm, do tình trạng
này cũng là yếu tố nguy cơ gây biến cố tim mạch,
làm giảm tỷ lệ sống của bệnh nhân và của thận
ghép. Ở Việt Nam, ghép tạng nói chung và ghép
thận nói riêng vẫn là lĩnh vực còn khá mới mẻ, số
lượng BN được ghép thận chưa nhiều và chưa có
công trình nghiên cứu trong nước nào đánh giá
một cách hệ thống về vấn đề này. Do vậy chúng
tôi tiến hành đề tài “Khảo sát tình trạng thiếu máu
ở bệnh nhân sau ghép thận’’ nhằm mục tiêu xác
định tỷ lệ mắc, mô tả đặc điểm thiếu máu và tìm
hiểu một số nguyên nhân gây thiếu máu ở BN sau
ghép thận.
KHẢO sÁT TÌNH TRẠNG THIẾU MÁU Ở BỆNH NHÂN sAU GHÉP THẬN
Hà Phan Hải an*, lê thi Hương thủy**
*Trường Đại học Y Hà Nội, **Bệnh viện Đống Đa, Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu tiến hành từ 1/2012 đến 6/2012 trên 227 bệnh nhân trưởng thành cả
2 giới được ghép thận từ 3 tháng trở lên, có tình trạng chức năng thận ổn định và đang theo dõi định
kỳ tại Khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Các BN được khảo sát tình trạng thiếu
máu và một số nguyên nhân gây thiếu máu. Kết quả cho thấy có 18,1% BN nghiên cứu có thiếu máu,
hầu hết ở mức độ nhẹ, không có BN thiếu máu nặng. Phần lớn BN thiếu máu nằm trong độ tuổi 30-
49, nữ giới hay bị thiếu máu hơn nam giới. Giá trị trung bình của các chỉ số xét nghiệm cơ bản đều
nằm trong giới hạn bình thường, trừ ferritin huyết thanh tăng cao hơn trị số bình thường. Tình trạng
tăng CRP và ferritin huyết thanh ghi nhận được ở 43,9% và 41,5% số BN thiếu máu. Bệnh thận mạn
tính giai đoạn 1 và 2 tương ứng là 2,4% và 43,9%, còn giai đoạn 3 là 53,7%. Mặc dù không có triệu
chứng lâm sàng, 58,5% số BN thiếu máu trong nghiên cứu có dấu hiệu viêm - loét dạ dày - tá tràng
trên nội soi. Các nguyên nhân gây thiếu máu khác ít gặp ở nhóm BN nghiên cứu. Tình trạng thiếu
máu khá phổ biến ở BN sau ghép tạng, ngay cả khi chức năng thận ghép còn rất tốt. Cần chủ động rà
soát các nguyên nhân gây thiếu máu và xử lý sớm để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thiếu
máu lên tình trạng chức năng thận ghép và tỷ lệ sống của BN ghép thận.
Từ khóa: thiếu máu, ghép thận.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 159
II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu mô tả, tiến cứu, tiến hành
từ tháng 01/2012 - 06/2012 trên tất cả BN trưởng
thành, cả hai giới, đã được ghép thận và được
theo dõi định kỳ tại Khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện
Hữu nghị Việt Đức. Các BN được chọn vào nghiên
cứu đã được ghép thận tối thiểu 3 tháng trước
đó, có tình trạng chức năng thận ổn định (MLCT
tính theo công thức Cockroft-Gault dao động trong
khoảng -1,0 đến +1,0 ml/phút/1,73m2/năm trong
tối thiểu 2 năm [5]). Chúng tôi loại ra khỏi nghiên
cứu các BN bị mất máu cấp, đang trong tình trạng
nhiễm trùng cấp tính, đang mắc các bệnh lý ác
tính hoặc có thai. Các BN được thăm khám lâm
sàng kỹ, định lượng creatinine huyết thanh để
ước tính MLCT theo công thức Cockroft-Gault và
phân loại giai đoạn BTMT (theo tiêu chuẩn của
Hội Thận học Hoa Kỳ 2002), làm xét nghiệm công
thức máu để phát hiện và phân loại tình trạng thiếu
máu (theo tiêu chuẩn của WHO). Khi được phát
hiện tình trạng thiếu máu, BN sẽ được làm các xét
nghiệm và thăm dò để khảo sát nguyên nhân gây
thiếu máu (chức năng gan, tình trạng sắt, vitamin
B12, acid folic, tình trạng dinh dưỡng, viêm, nhiễm
một số virus, nội soi dạ dày-tá tràng, xét nghiệm
phân tìm hồng cầu và ký sinh trùng). Các số liệu
thu được xử lý bằng phương pháp toán thống kê
y học, chương trình SPSS 16.0. Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê sử dụng theo p <0,05 hoặc tính
theo khoảng tin cậy 95%. Thông tin của BN được
bảo mật và chỉ nhằm bảo vệ và nâng cao sức
khỏe mà không nhằm mục đích nào khác. Các xét
nghiệm và thăm dò được thực hiện theo đúng quy
trình khám chữa bệnh, không phải là nghiên cứu
can thiệp và không gây thêm bất cứ nguy cơ nào
cho người bệnh tham gia nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
Có 227 BN (152 nam - 66,9% và 75 nữ -
31,1%) đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn và được
đưa vào nghiên cứu. Chúng tôi phát hiện được 41
người có thiếu máu, chiếm tỷ lệ 18,1%.
Đặc điểm lâm sàng của nhóm 41 BN có thiếu
máu được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của nhóm bệnh nhân thiếu máu (n=41)
đặc điểm
Chỉ số
trung bình
số BN %
Giới Nam:Nữ 1:1,28
Nam 18 43,9
p = 0,001
Nữ 23 56,1
Tuổi, năm 40,9 + 10,5
Trẻ nhất 20, già
nhất 60
20 - 29 5 12,2
30 - 39 16 39,0
(63,4)
40 - 49 10 24,4
≥ 50 10 24,4
Chỉ số khối cơ thể (BMI)
< 18,5 5 12,2
18,5 - 25 32 78,2
> 25 4 9,7
Phần lớn BN thiếu máu ở độ tuổi 30-49, và nữ giới hay bị thiếu máu hơn nam giới. Rất ít BN bị thừa cân.
Bảng 2. Kết quả một số chỉ số xét nghiệm máu của nhóm BN có thiếu máu (n=41)
Chỉ số
Giá trị
độ lệch
Thấp nhất Cao nhất Trung bình
Xét nghiệm huyết học
Hồng cầu (T/l) 3,00 5,30 3,90 0,49
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX160
Chỉ số
Giá trị
độ lệch
Thấp nhất Cao nhất Trung bình
Hb (g/l) 83,00 126,00 109,71 9,69
MCV (f/l) 64,00 100,00 89,14 6,58
MCHC (g/l) 323,00 347,00 325,56 19,05
Xét nghiệm sinh hóa
Creatinin (µmol/l) 62,00 141,00 101,70 21,70
Albumin (g/l) 27,00 50,00 42,27 4,14
Protein (g/l) 64,00 87,00 76,21 5,13
Acid folic (nmol/l) 9,30 194,70 34,26 30,01
Vitamin B12 (pmol/l) 54,00 1244,00 469,54 229,11
Sắt (µmol/l) 6,08 48,00 18,58 8,32
Ferritin (ng/ml) 10,28 5794,00 606,53 933,46
Transferin (mg/dl) 154,00 365,00 241,61 42,38
CRP (mg/dl) 0,07 22,58 1,88 4,01
Giá trị trung bình các xét nghiệm huyết học và sinh hóa đều nằm trong giới hạn bình thường mặc dù
dao động trong một dải khá rộng, chỉ riêng ferritin huyết thanh là ở mức cao.
Xem xét tình trạng thiếu máu ở nhóm BN nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy hầu hết các trường hợp chỉ
thiếu máu mức độ nhẹ, không có ai thiếu máu nặng. Có tới 36,6% số BN thiếu máu có kích thước hồng
cầu bất thường (bảng 3).
Bảng 3. Phân loại thiếu máu
đặc điểm số BN %
Mức độ thiếu máu Nhẹ 33 80,5
Vừa 8 19,5
Nặng 0 0
Phân loại theo thể tích
hồng cầu (HC)
HC nhỏ 8 19,5
HC trung bình 26 63,4
HC to 7 17,1
Các nguyên nhân có thể liên quan đến tình trạng thiếu máu được khảo sát và kết quả được trình bày
ở bảng 4.
Bảng 4. Các nguyên nhân liên quan đến tình trạng thiếu máu
Chỉ số khảo sát đặc điểm số BN %
Albumin máu < 40g/l
> 40 g/l
12
29
29,3
70,7
CRP Bình thường < 1 mg/l
Tăng > 1 mg/l
23
18
56,1
43,9
Ferritin huyết thanh Giảm
Bình thường
Tăng
4
20
17
9,7
48,8
41,5
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 161
IV. BàN LUẬN
Tỷ lệ thiếu máu ở BN sau ghép thận trong
nghiên cứu của chúng tôi là 18,1%, mặc dù không
phải rất cao so với số liệu được một số tác giả
nước ngoài đã công bố [9], nhưng vẫn đáng được
ghi nhận và lưu ý xứng đáng. Nhìn chung, tình
trạng thiếu máu ở các BN sau ghép thận chưa
được chú ý đến một cách đầy đủ. Đối với nhóm
BN này, người ta quan tâm nhiều hơn đến tình
trạng thải ghép và sử dụng các thuốc ức chế miễn
dịch, cũng như giải quyết các biến chứng khác.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu máu có thể dẫn đến phì
đại tâm thất trái, suy tim xung huyết, góp phần làm
tăng tỷ lệ biến cố tim mạch gây tăng tỷ lệ tử vong.
Đây cũng là yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ thải
ghép, làm tiến triển BTMT ở BN ghép thận. Nhóm
nghiên cứu Darshika Chhabra theo dõi 1023 BN
sau ghép thận trong thời gian 4 năm nhận thấy có
sự liên quan giữa tình trạng thiếu máu với tỷ lệ tử
vong và thải ghép [3]. Việc phát hiện sớm và điều
trị tối ưu tình trạng thiếu máu ở BN sau ghép thận
góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cũng
như giảm tỷ lệ tử vong cho nhóm BN này.
Tỷ lệ thiếu máu ở nữ giới cao hơn rõ rệt so
với nam giới trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi
và điều này có thể liên quan đến tình trạng kinh
nguyệt ở phụ nữ. Nhóm tác giả TC Mix cũng có
nhận xét tương tự và coi sự xuất hiện trở lại chu
kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ là một yếu tố liên quan
đến thiếu máu [7]. Bên cạnh đó, có thể phụ nữ
thường có xu hướng ăn kiêng để giảm cân hoặc
giữ cân ổn định.
Cũng như ở các BN bị BTMT khác, tình trạng
chức năng thận ghép có ảnh hưởng rõ rệt lên tình
Chỉ số khảo sát đặc điểm số BN %
Sắt huyết thanh Giảm
Bình thường
Tăng
0
35
6
0
84,4
14,6
Transferrin huyết thanh Giảm
Bình thường
Tăng
7
34
0
17,1
82,9
0
Acid Folic huyết thanh Giảm
Bình thường
Tăng
0
36
5
0
87,8
12,2
Vitamin B12 Giảm
Bình thường
Tăng
4
30
7
9,8
73,2
17,0
Tình trạng nhiễm virus
viêm gan
Có nhiễm
Không nhiễm
33
8
80,5
19,5
Kết quả nội soi dạ dày-
tá tràng
Bình thường
Có tổn thương viêm/loét
17
24
41,5
58,5
Kết quả XN phân Có KST 0 0
Giai đoạn bệnh thận mạn
theo MLCT ước tính
GĐ 1 (90-120ml/ph)
GĐ 2 (60-89ml/ph)
GĐ 3 (30-59ml/ph)
1
18
22
2,4
43,9
53,7
Không ghi nhận được rõ tình trạng thiếu sắt hay thiếu acid folic ở các BN nghiên cứu, nhưng có một
tỷ lệ nhỏ BN thiếu vitamin B12. Hơn 40% số BN nghiên cứu có chỉ điểm của tình trạng viêm. Gần một nửa
số BN thiếu máu vẫn có chức năng thận tốt (BTMT giai đoạn 1-2). Đặc biệt, 58,5% số BN này có biểu hiện
tổn thương niêm mạc dạ dày-tá tràng trên nội soi.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX162
trạng thiếu máu ở BN sau ghép thận. Tình trạng
thiếu máu thường được quan sát thấy từ khá sớm,
khi MLCT bắt đầu suy giảm và tỷ lệ cũng như mức
độ thiếu máu tăng dần cùng với sự tiến triển của
BTMT. Tuy nhiên, nếu chức năng thận ghép trong
giới hạn bình thường, cần tìm nguyên nhân gây
thiếu máu khác. Tình trạng viêm mạn tính là một
trong những nguyên nhân không kinh điển gây
thiếu máu ngày càng được quan tâm. Một số tác
giả đề cập tới tình trạng viêm trong các nghiên cứu
ở BN thiếu máu sau ghép thận thông qua giá trị
của CRP. Nghiên cứu của Winkelmayer nhận thấy
40,0% BN có chỉ số CRP cao hơn bình thường
[10], cũng tương tự như kết quả của chúng tôi.
Bên cạnh đó, sự tăng ferritin máu và có thể đi kèm
với transferrin máu giảm đôi khi cũng liên quan đến
tình trạng viêm mạn tính sau ghép thận. Điều này
nhiều khi gây khó khăn cho việc chẩn đoán tình
trạng thiếu máu do thiếu sắt. Chúng tôi không ghi
nhận được tình trạng thiếu sắt ở nhóm BN nghiên
cứu. Tuy nhiên, Lorenz phát hiện 20,1% BN có
thiếu sắt trong tổng số 438 BN ghép thận ở Áo
[6], Moore và cộng sự phát hiện ra rằng 60,0% BN
ghép thận không có thiếu sắt ở thời điểm bắt đầu
ghép đã rơi vào tình trạng thiếu sắt sau ghép thận
6 tháng [8]. Mặc dù tình trạng thiếu hụt vitamin
B12, acid folic chưa phải là đáng kể trong nghiên
cứu này, do số lượng BN nghiên cứu chưa nhiều,
chúng tôi cho rằng vẫn cần lưu ý đến vấn đề này.
Tình trạng viêm loét dạ dày - tá tràng cũng
có thể là một yếu tố góp phần gây thiếu máu. Các
BN nghiên cứu của chúng tôi mặc dù không có
triệu chứng chủ quan rõ rệt, nhưng được chủ động
thăm dò bằng nội soi đường tiêu hóa trên. Ngoài
việc phát hiện các tổn thương viêm-loét, đây có lẽ
cũng là một thăm dò cần thiết để phát hiện sớm
ung thư dạ dày ở nhóm đối tượng có nguy cơ cao
này. Mặc dù không tìm thấy dấu hiệu nhiễm ký
sinh trùng trong phân ở nhóm BN nghiên cứu,
chúng ta không nên quên tình trạng bệnh lý này
trong điều kiện Việt Nam.
Chúng tôi chưa thực hiện được xét nghiệm
tìm Parvovirus B19 do chưa có phương tiện trong
nước, tuy nhiên đây cũng là một nguyên nhân gây
thiếu máu khó điều trị và có thể tới mức độ nặng,
gây nguy hiểm cho người nhận thận.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ thiếu máu ở BN sau ghép thận trong
nghiên cứu là 18,1%. Hầu hếu các BN chỉ thiếu
máu nhẹ, không có thiếu máu nặng. Tình trạng
thiếu máu ở nhóm BN sau ghép thận có thể liên
quan đến tình trạng chức năng thận, tuy nhiên cần
lưu tâm đến những nguyên nhân khác như tình
trạng thiếu vitamin B12, thiếu acid folic, thiếu sắt,
viêm và các thương tổn viêm-loét niêm mạc dạ
dày-tá tràng. Vẫn còn một số nguyên nhân gây
thiếu máu riêng biệt ở nhóm BN ghép thận/tạng
như tình trạng nhiễm Parvovirus B19 chưa được
phát hiện do thiếu phương tiện xét nghiệm.
TàI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Ahmad A, Rand WM, Manjunath G,
Konstam MA, Salem DN, Levey AS, Sarnak
MJ: Reduced renal function and anemia as risk
factors for mortality in patients with left ventricular
dysfunction. J Am Sb Cardiol 38: 955 - 962, 2001.
2. Anil K. Agarwal, MD - Practical
Approach to the Diagnosis and Treatment of
Anemia Associated With CKD in Elderly, Jamda -
November, 2006.
3. Darshika Chhabra, Monica Grafals,
Anton I. Skaro, Michele Parker, Gallon Lorenzo:
Impact of Anemia after Renal Transplantation on
Patient and Graft Survival and on Rate of Acute
Rejection. Clin J Am Soc Nephrol. 2008 July; 3(4):
1168 - 1174.
4. Hessel F. Groenveld, MD - Anemia and
Mortality in Heart Failure Patients.
5. John S Gill, Marcello Tonelli, Christian
H. Mix, Brian J.G. Pereira: The change in Allograft
function among long-term kidney transplant
recipients. JASN (2003) 14: 1636 - 1642.
6. Lorenz M, J Kletzmayr, Perschl A, A
Furrer, Horl WH, Sunder Plassmann G: And iron
deficiency anemia in longterm kidney transplant
recipients. J Am Soc Nephrol 2002, 13 (3): 794 -
797.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 163
7. Mix TC, Kazmi W, Khan S, Ruthazer
R, Rohrer R, BJ Pereira, Kausz AT: Anemia:
a continuing problem following kidney
transplantation. Am J Transplant. 2003 Nov; 3(11):
1426 - 33.
8. Moore LW, Smith SO, RP Winsett,
Archiardo SR, Gaber AO: Factor affecting
erythropoietin production and corection of anemia
in kidney transplant recipients. Clin Transplant.
1994; 8(4): 358.
9. Vanrenterghem Y, Ponticelli C, Morales
JM et al: Popular and management of anemia in
renal transplant recipients: a European the study.
Am J Transplant 2003, 3: 835 - 845.
10. Winkelmayer WC, R Kewalramani,
Rutstein M, Gabardi S, Vonvisger T, Chandraker
A: Pharmacoepidemiology of anemia in kidney
transplant recipients. 2004 May; 15(5): 1347 - 52.
ABsTRACT
ANeMIA IN KIDNeY TRANsPLANT ReCIPIeNTs
A prospective, descriptive study conducted in Kidney Diseases and Dialysis Department, Viet Duc
Hospital, from January 2012 to June 2012 on 227 adult kidney recipients who have been transplanted
for at least 3 months and had stable graft function. The anemia status and its relevant causes have
been investigated. Our results showed that the rate of anemia among the studygroup was 18.1%.
Majority of patients had mild anemia and were in the age of 30-49 years old. Female patients might
be more likely to be anemic. All laboratory parameters but ferritin were within normal ranges. The
elevation of CRP anf serum ferritin wa recorded n 43.9% and 41.5% respectively; CKD stage 1 & 2
have ben observedin 2.4% and 43.9% respectively; CKDstage 3 was in 53.7% of patients in anemic
group. Although clinical signs were absent, the fibroscopy could detect imflammatory-ulceous lesions
in 58.5% of anemic patients. Other causes of anemia were observed less frequently. Anemia was
relatively common condition among kidney recipients even in those with adequate graft function. The
active investigation for early diagnosis of its causes and thus having appropriate management were
recommended in order to limit its negative impact on graft function and patients survival.
Keywords: anemia, kidney transplantation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_tinh_trang_thieu_mau_o_benh_nhan_sau_ghep_than.pdf