A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi vùng quê sản sinh ra một loại hình dân ca khác nhau đều mang bản sắc riêng của mảnh đất đó. Nếu như dân ca quan họ chỉ nảy sinh từ vùng đất Kinh Bắc, hát Xoan sinh ra ở vùng đất Phú Thọ, hát Dậm chọn quê hương Hà Nam thì hát Dô lại nảy sinh ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội).
Hát Dô là một loại dân ca nghi lễ đặc sắc, gắn với tín ngưỡng thờ Tản Viên sơn thánh. Lời ca của nó thể hiện sự tôn kính của nhân dân đối với vị thần đứng đầu trong tứ bất tử Việt Nam, đồng thời phản ánh nhận thức của người dân về thiên nhiên, và ước mơ của người dân về một cuộc đời êm ấm, thời tiết thuận hòa, mùa màng bội thu, con cháu đông đúc. Hát Dô còn là tiếng ca trữ tình, nồng nàn về tình yêu nam nữ, về hạnh phúc lứa đôi của người nông dân dưới chế độ phong kiến. Nội dung này đã trở thành nội dung chủ đạo trong phần hát Bỏ bộ, được tiến hành sau những diễn xướng có tính chất nghi lễ của hát Hội Dô trong những ngày lễ hội
Tìm hiểu về hát Dô cũng chính là một cách để chúng ta có thể thấy được thực trạng hiện tại của dân ca này, cũng như cách thức bảo tồn và duy trì vốn văn hóa cổ không chỉ có giá trị với riêng Liệp Tuyết mà còn đối với nền văn hóa dân tộc.
Bước vào nền kinh tế thị trường, sự giao thoa và ảnh hưởng của các nền văn hóa đang tác động mạnh mẽ đến đất nước ta. Nhiều loại hình nghệ thuật du nhập và phát triển rầm rộ đang làm cho một số môn nghệ thuật truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một trong đó hát Dô. Việc nghiên cứu về điệu hát cổ này đang nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tìm hiểu về đề tài “Bước đầu tìm hiểu về hát Dô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội” cũng là một cách tác giả đóng góp một phần của mình vào công tác bảo tồn và giữ gìn loại dân ca đặc sắc này.
Việt Nam học một khoa liên ngành nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam dựa trên các yếu tố như: lịch sử, văn hóa, văn học Tính chất liên ngành đó buộc sinh viên phải không ngừng thu thập thông tin, tích cực tìm hiểu và vận dụng những gì đã học vào các nghiên cứu. Nghiên cứu hát Dô cũng là dịp người viết vận dụng các kiến thức về ngành học của mình như: dân tộc học, lịch sử, địa lý để hiểu một cách cặn kẽ và toàn diện về loại dân ca “có một không hai” này.
Hát Dô là một điệu hát cổ, gắn với văn hóa và phong tục của mảnh đất Liệp Tuyết. Nghiên cứu điệu hát này giúp người viết không chỉ hiểu biết hơn về hát Dô mà còn về chính những con người nơi đây
2. Lịch sử vấn đề
Là một loại hình dân ca độc đáo nhưng do thời gian mỗi lần tổ chức hát Dô cách nhau khá xa. Và sau khi tổ chức thì văn bản gốc phải cất lại trong đền còn những bản sao thì phải đốt đi cho nên cứ liệu để nghiên cứu loại hình dân ca này là rất hạn chế. Đây là một khó khăn rất lớn cho những ai muốn nghiên cứu tìm hiểu về hát Dô. Phải cho đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất, sau 1975 mới xuất hiện một số những công trình nghiên cứu về hát Dô.
Trước hết , đó là cuốn “Hát Dô - Hát Chèo Tàu” của tác giả Trần Bảo Hưng và Nguyễn Đăng Hòe, viết năm 1977. Cuốn sách này, các tác giả đã viết một cách khá kỹ lưỡng về loại dân ca này. Hơn nữa, các tác giả cũng đi sâu vào nội dung, hình thức cũng như những giá trị văn học của hát Dô.
Tiếp theo là, cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Hà Tây” của Sở Văn hóa thông tin thể thao Hà Tây, tái bản năm 1993. Cuốn sách đã không chỉ giới thiệu về các loại hình tục ngữ, ca dao Hà Tây còn giới thiệu một cách khái quát về điệu hát Dô
Cuốn “Xứ Đoài” của Kiều Thu Hoạch, viết năm 2000 là cuốn sách viết về nền văn hóa đặc sắc của xứ Đoài. Trong phần viết về hát Dô lại chủ yếu miêu tả Hội Dô, phần về hát Dô tác giả nhắc đến không đáng kể.
Đề tài tập sự “Di tích và lễ hội đền Khánh Xuân” của Phùng Văn Thành, năm 2006, lại chủ yếu phân tích và mô tả kỹ lưỡng về đền Khánh Xuân, không gian diễn ra lễ hội Dô cũng như trình bày những khái quát chung về Hội Dô.
Tiếp theo là cuốn luận văn Thạc sĩ “Bảo tồn, phát huy diễn xướng dân gian hát Dô (xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây)”, năm 2008, của tác giả Đặng Thị Hạnh. Đề tài đã đề cập đến thực trạng và phương hướng bảo tồn hát Dô.
Ngoài ra, còn một số những bài viết nữa của các tác giả như: Nguyễn Duy Cách, Nguyễn Thị Vân đăng trên các Tạp chí dân tộc và thời đại, Báo Hà Tây, Báo Nhân dân cũng giới thiệu chung về loại hình dân ca này, nhưng nó mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu sơ bộ và khái quát. Trên một số trang web cũng có những bài viết, nghiên cứu về hát Dô. Điều này có thể thấy, càng ngày loại hình dân ca này càng được chú ý và quan tâm.
Trong quá trình tìm hiểu về hát Dô, chúng tôi nhận thấy, đây là một loại hình dân ca nghi lễ hết sức độc đáo. Độc đáo ở nguồn gốc xuất hiện, ở những tục hèm xung quanh nó, ở người hát và ở cả thời gian mỗi lần tổ chức hát Dô. Tuy nhiên, những tài liệu nghiên cứu về hát Dô còn ít nếu không muốn nói là quá ít. Các tài liệu này chỉ đề cập một cách tản mạn, ở khía cạnh này hay khía cạnh kia của của hát Dô. Hơn thế, các tài liệu chủ yếu hoặc là nói về nguồn gốc hoặc là nói về các làn điệu hoặc là nói về những nghệ nhân hát Dô. Với đề tài “Bước đầu tìm hiểu hát Dô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội” chúng tôi muốn có cái nhìn toàn diện hơn, xem xét và đánh giá hát Dô ở các mặt khái niệm nguồn gốc, đến đặc trưng, giá trị của câu hát Dô. Phân tích tình hình hiện nay của hát Dô để đưa ra một số giải pháp bảo lưu và phát triển loại hình dân ca độc đáo này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận là hát Dô ở xã Liệp Tuyết – huyện Quốc Oai – thành phố Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở xác định đối tượng, phạm vi nghiên cứu, chúng tôi đề ra những nhiệm vụ cụ thể mà khóa luận cần giải quyết:
Thứ nhất, trình bày những nét khái quát nhất về mảnh đất sản sinh loại hình dân ca độc đáo – Hát Dô.
Thứ hai, chúng tôi phân tích những nét đặc trưng và giá trị của hát Dô đồng thời đặt nó trong mối quan hệ với các loại hình dân ca cùng thể loại.
Thứ ba, trình bày thực trạng hiện nay và nêu một số giải pháp để bảo lưu và phát triển hát Dô.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp:
Phương pháp liên ngành kết hợp giữa nghiên cứu văn hóa với lịch sử, địa lý .
Phương pháp chuyên ngành như: điền dã, khảo sát, thống kê, so sánh đối chiếu, tổng hợp, phỏng vấn sâu để làm bật những nét đặc sắc của dân ca hát Dô tại Liệp Tuyết.
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận thực hiện sẽ có những đóng góp sau:
Chưa có một công trình nào bóc tách các đặc trưng của hát Dô để nghiên cứu nó như một thực thể độc lập. Đồng thời đặt các đặc trưng đó trong mối quan hệ với các loại hình dân ca khác như: Hát Xoan, hát Chèo tàu, Ca trù để so sánh tìm ra những nét đặc sắc.
Hiện nay, vấn đề thực trạng và bảo tồn điệu hát Dô vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, chúng tôi mong muốn đề tài sẽ mang một phần đóng góp nhỏ bé với loại hình dân ca này.
Khóa luận cũng sẽ là tài liệu tham khảo của không chỉ những nhà nghiên cứu về điệu hát Dô mà còn đối với tất cả những ai quan tâm say mê tìm hiểu điệu hát cổ độ đáo này.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tham khảo, phần nội dung của khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Vài nét về mảnh đất sản sinh loại hình dân ca độc đáo – Hát Dô.
Chương 2: Những nét đặc trưng và giá trị của hát Dô.
Chương 3: Thực trạng và một số giải pháp để bảo lưu, phát triển hát Dô.
Luận văn dài 68 trang,chia làm 3 chương
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2292 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bước đầu tìm hiểu về hát Dô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đức rộng phong lưu
Lạy ba vị vua ơ hơ lên chầu
Những lời ca đầu tiên đậm tính chất nghi lễ, thờ cúng, ca ngợi các vị thần thánh, sau đến những lời khẩn nguyện, chúc mừng, dâng hương, dâng rượi:
Bước chân vào tôi chầu Thánh Cả
Bước chân ra tôi tạ thiền quang
Đức Thánh cả vâng xã cho an
Tả hữu thiền quang.
Tiếp theo là những lời ca cầu mong hạnh phúc và yên vui đối với nhân dân, cũng như mong Thánh ban cho con em trong làng học hành đỗ đạt, nông trang được mùa… Những bài hát biểu thị sự thịnh vượng của làng, dân khang vật thịnh, ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên:
Mừng xã như nhật nguyệt mình
Có quan đô xứ tổng binh trọng quyền
Mừng xã thi đỗ trạng nguyên
Con con cháu cháu dõi truyền đề ra…
Tháng Giêng giai tiết làm đầu,
Bao nhiêu mỹ nữ đá cầu đánh đu
Tháng hai hoa nở tranh đua
Động lòng con gái ngâm thơ tinh thần
Tháng ba nắng suốt thập phần,
Những là lần nữa hết xuân sang hè…
Trong phần hát lời ca về cuối thì ngoài động tác đi vào và đi ra khỏi bàn thờ lúc mở đầu và kết thúc do người các hát dân theo lối chữ chi, các bạn nàng còn có những động tác chèo thuyền ở cuối, đứng thành hai hàng dọc, tay cầm quạt giấy đặt ở phía trước thắt lưng, đốc quạt nâng lên, đuôi quạt thắt phía dưới hơi chênh chếch như cầm mái chèo vào giữa các bạn nàng vừa hát xô và làm động tác chèo thuyền; chân phải bước lên một bước rồi lại lùi xuống nhịp nhàng với động tác tay và với câu hát. Những động tác đó không thay đổi trong suốt các câu hát chèo thuyền cho dù nội dung có khác nhau. Chẳng hạn, khi hát đến câu : Huầy dô, huầy dô, bái hò là huậy… thì cả hai bên đều quay mái chèo vào giữa, các bạn nàng vừa hát xô vừa làm động tác chèo thuyền, chân phải bước lên một bước rồi lùi xuống một bước, câu hát nhịp nhàng với động tác.
Các thôn lần lượt vào hát, đầu tiên là thôn Đại Phu, tiếp đến là thôn Vĩnh Phúc, sau đó đến Bái Nội, Bái Ngoại, Thông Đạt, Đông Sơn. Khi hát thì tất cả phải tuân thủ theo trình tự đã ghi trong văn bản. Sau khi các thôn hát xong thì tế lễ mới bắt đầu. Cuộc hát thường bắt đầu từ sáng sớm cho đến trưa mới khắp lượt tất cả các thôn. Cũng có cụ nói rằng cứ hát như thế đến xế chiều rồi mới xong.
Kết thúc phần hát chúc, hát thờ và tế lễ là chuyển sang phần hát Bỏ bộ, như tên gọi, đây là phần hát kèm theo những điệu bộ, cử chỉ và có phần linh hoạt hơn. Đặc biệt, có người nói rằng; phần hát này chỉ có thôn Bái Nội, Bái Ngoại được hát, bởi các thôn kia đã hát phần hát Chúc, hát thờ. Trong phần này, hầu như câu nào cũng có động tác mô phỏng nội dung câu hát. Chẳng hạn, khi người cái hát và các bạn nàng hát đến câu:
Ngồi rồi lấy chỉ ra xe
Lấy kim ra xỏ ngồi hè vá may
Thì các bạn nàng cúi xuống, dùng tay làm động tác mô tả hành động xỏ, xâu kim và may vá như thật.
Hoặc trong câu hát:
Rủ nhau đi bẻ cành chanh
Chanh thì chẳng bẻ, bẻ cành mẫu đơn
Rủ nhau đi bẻ cành roi
Roi thì chẳng bẻ, bẻ sòi nhuộm thân
Các bạn nàng phải mô tả niềm vui, sự háo hức khi đi bẻ cành hái hoa. Đồng thời đôi tay cũng đưa ra và diễn tả động tác hái như thật.
Sau mỗi bài hát thì các bạn nàng thường tập trung lại thành hai hàng và có một nguyên tắc trong các cuộc hát là không bao giờ được phép quay lưng vào ban thờ Tản Viên Sơn Thánh, sau hai nhịp sênh các bạn nàng cúi đầu cảm tạ Thánh Tản, cứ làm như vậy ba lần mới được giải tán và kết thúc cũng bằng tiếng sênh.
Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo cũng đều hát, tế lễ như ngày đầu tiên. Đến chiều ngày 15 tháng giêng hội mới kết thúc và nhân dân địa phương lại rước kiệu từ đền về miếu theo thứ tự (Đầu tiên là thôn Đại Phu, sau đó là thôn Vĩnh Phúc, Bái Nội, Bái Ngoại, Thông Đại và cuối cùng là Đồng Sơn). Sau hội tháng giêng, đến ngày mồng mười tháng sáu âm lịch năm đó nhân dân lại tổ chức lễ tạ. Lần này vẫn có những cuộc hát nhưng đơn giản và gọn nhẹ hơn rất nhiều. Để rồi sau đó 36 năm sau cuộc hát Dô mới lại tưng bừng.
Đặc biệt khuynh hướng diễn xướng của hát Dô so với Ca trù cũng có những điểm khác biệt. Nếu như giai đoạn đầu của các cuộc hát Dô và Ca trù (tức là khi hát Chúc) thì giữa chúng có những điểm tương đồng, cụ thể là cả hai đều thể hiện những tiết mục mang tính chất nghi thức. Nhưng sau đó khi dung nạp các thành phần thơ bác học thì Ca trù tự biến thành loại hình dân ca vừa diễn xướng trong lễ hội vừa mang tính thưởng ngoạn văn chương và giải trí. Còn hát Dô biến lại biến những thể thơ ấy thành một phần trong hát Bỏ bộ, đưa chúng vào khuôn khổ lễ hội và một phần đem dân gian hóa, không để chúng chuyển thành văn chương bác học và đi theo con đường chuyên nghiệp hóa. Hơn thế, Ca trù ngày càng nâng cao và tách dần phần nghi lễ với phần bác học, để từ đó từng bước rời khỏi không gian cửa đình đến với những không gian gia thất (những năm đầu của thế kỷ 20, nếu gia đình nào mà thuê một cô ả đào về hát thì chứng tỏ sự cường quyền giàu có). Dần dần, Ca trù đã trở thành một tư chất và phong cách mới trong nghệ thuật diễn xướng, kết hợp với diễn tấu (đàn đáy, phách tre), kiểu thính phòng và một kiểu nghệ thuật ca hát sành đối tượng (biểu lộ trong trống chầu). Theo khuynh hướng dân gian, hát Dô vẫn giữ cho mình những nét mộc mạc đơn sơ, bám sát và duy trì đặc trưng hoạt cảnh trong quá trình dung nạp những yếu tố mới. Về cơ bản, hát Dô còn nhiều nét thô mộc nhưng lại có những sắc thái đa dạng trong hình thức nghệ thuật, chất đồng quê, tự nhiên của nghệ thuật dân gian.
Và nếu văn bản hát Xoan ngày càng được bổ sung và chỉnh lý, trở nên rườm rà, khó hiểu thì văn bản hát Dô vẫn giữ được những từ ngữ gốc của Tiếng việt xưa kia như từ “chạ”, là từ dùng để chỉ một đơn vị nhỏ tương đương với làng. Mặc dù, trải qua thời gian rất lâu (36 năm) mới diễn ra Hội Dô nhưng mỗi lần có hát Dô thì nó vẫn chiếm trọn tình cảm của người dân, phải chăng chính bởi những lời ca xuất phát từ cuộc sống. Nếu nói thời gian 36 năm làm cho hát Dô chậm phát triển và đổi mới, thì nói một cách khác đó chính là một cách để bảo lưu những vốn liếng xưa kia của dân tộc ta.
2.2.4. Hình thức của hát Dô
Các hình thức hát trong hát Dô rất phong phú và đa dạng nhưng chủ đạo thì được chia thành bốn loại: Hát nói, hát ngâm, xô, ca khúc. Ở đây chúng ta thấy sự gần gũi với hát Chèo Tàu, bởi hát Chèo Tàu cũng bắt gặp những hình thức tương tự: Hát khấn (như dâng rượi, dâng hương) và sau đó thì đến hình thức hát xô, hình thức ca khúc (như các bài hát Bỏ bộ). Tuy nhiên, hát Dô vẫn có những đặc sắc riêng trong mỗi hình thức.
Hình thức hát nói: Thuộc nội dung hát Chúc, là hình thức khi bắt đầu và kết thúc của diễn xướng hát nói, gần giống với một điệu trong hát Ca trù. Ở phần này, lời hát là do cái hát. Vì vậy, người này phải tự điều chỉnh âm thanh và ngữ điệu của mình. Đây chính là những bài hát cổ nhất, phần lớn dựa vào văn bản nhưng vẫn có sự cách tân cho hiện đại và đổi mới:
Bước chân vào đám ban xưa
Tứ bề nhân lặng tôi thưa nhời này
Bạn nàng tôi vào hát đây
Long Vân tế hội nước mây tình cờ.
Với hình thức này thì tùy từng người hát sẽ có những âm điệu khác nhau, mang tính chất hát chủ yếu chứ không phải nói ví như một số dân ca khác, ở đó, nói vẫn là hình thức, mở đầu. Hình thức này mặc dù có nguồn gốc xa xưa nhưng mang hơi hướng của thời đại mỗi khi hát.
Hình thức hát ngâm: là hình thức phát triển hơn hát nói về mặt âm điệu. thể hiện ở những bài hát chúc thơ, ngâm thơ ở phần cuối của cuộc hát, đặc biệt là ở phần hát Bỏ bộ.Vậy có thơ rằng:
Khánh Vân Liệp hạ nhất xã này
Dòng dõi ông cha để lại nay
Quan những đô dài cùng đô sứ
Những ông cự phó mới ngồi đây.
Thường thường với 5 nốt : mi, son, la, đô, rê hát ngâm tiến hành mỗi từ trong thơ với một, hai nốt trong âm điệu. Mặc dù âm điệu không phong phú nhưng nó lại thể hiện rõ tính chất mộc mạc, nguyên sơ của hát Dô. Chẳng hạn như bài: Chúc thơ, Hát chúc…
Hình thức xô: là hình thức xuyên suốt của diễn xướng hát Dô. Cái hát lĩnh xướng và con hát (bạn nàng) xen lẫn bằng những câu hát đệm. Phần lời của các bạn nàng thường nhắc lại và tô đậm thêm ý chính, và phát triển thêm một đôi ý nữa. Như vậy, các bạn nàng vừa có vai trò bổ trợ, lại vừa mở rộng hơn hình thức xô. Do đó, hình thức xô (các bạn nàng xô) rất phong phú. Nếu như phần hát của Cái có phần cứng nhắc và khuôn khổ thì phần hát xô của các bạn nàng làm cho cuộc hát đỡ bằng lặng, âm thanh sôi động hơn, giai điệu và tiết tấu cũng nhanh mạnh và có sức sống hơn:
Hè hỡi mùa hè là nghe
Tiếng ve ơ hơ kêu sầu.
Hay những đoạn chèo thuyền gay cấn:
Huầy dô, huầy dô,
Bái hồ là huậy
Là huậy dô huậy
Là hỡi i à lên dô
Bái hồ là huầy
Là huầy i i dô huầy
Khi đến những đoạn này, ngoài lời ca cất lên thì các bạn nàng phải mô phỏng động tác chèo thuyền khá đặc biệt.
Hình thức ca khúc: những đoạn này trong diễn xướng hát Dô có thể tách ra độc lập mang nội dung hoàn chỉnh. Hình thức này nghiêng về nội dung hơn, bao gồm cả phần Cái hát và phần xô của các bạn nàng trong cả một chuỗi dài diễn xướng. Nội dung lời ca đó thường có một ý chính đủ rút ra một nhận xét, một suy nghĩ hay một cảm xúc nào đó. Tuy vậy, ở một số bài nhất định thì cảm giác đầy đủ khi kết cũng đã rõ và hình thức ca khúc do vậy được khẳng định. Ví như một số bài: Hái hoa, Thẳng cánh cung ra, Chèo thuyền, Xe chỉ, Lên chùa…
Bốn hình thức trên diễn xướng liên tục như một bản trường ca. Vì thế, mỗi bài hát trong hát Dô không mang tính chất dứt khoát hẳn về mặt khúc thức. Do chỗ kết cấu được tự do bài ca của hát Dô có thể được gói trọn trong nội dung một lời ca có câu mở đầu và kết thúc. Đó là hình thức thường thấy trong mỗi bài hát Dô, ở đó thường gồm hai hoặc bốn câu lục bát chính và lời ca của câu ca dao đó trở thành chỗ phân định ranh giới của các bài hát.
Nếu như hình thức hát Chèo Tàu từ chèo thuyền mà ra thì hát Dô là hình thức vừa chèo thuyền vừa hò dô tạo nên. Hình thức chủ đạo của hát Dô là hát và xô. Mỗi đoạn có thể trở thành một ca khúc hoàn chỉnh, mở đầu là cái hát, tiếp đó là bạn nàng thể hiện âm điệu tươi vui mang tính ca khúc khá rõ. Hỏi cô Lan về những suy nghĩ của cô khi thế hệ trẻ ngày nay có rất nhiều những điểm thu hút khác ngoài những loại hình dân ca truyền thống thì bà tin tưởng: “Tôi dạy các cháu tôi biết, chúng rất hăng say, chăm chỉ tập luyện. Nhìn ở chúng là tôi thấy một sự an tâm, phải yêu thích và đam mê mới có thể như vậy được”. Điều này, cũng chính là một khẳng định về sự tồn tại và phát triển của hát Dô.
2.2.5. Về trang phục, đạo cụ và nhạc cụ
Có thể nói, yêu cầu luật tục của hát Dô rất khắt khe, nên trong tất cả các khâu người dân đều chuẩn bị một cách kỹ lưỡng và điều này được quan tâm cả với trang phục, đạo cụ và nhạc cụ:
Về trang phục: Trong cuộc hát luôn gồm cả cái hát và bạn nàng mà cái hát là nam, còn bạn nàng là nữ. Vì vậy quy định trang phục giữa cả hai đối tượng là không giống nhau:
Cái hát ăn mặc theo lễ phục thường thấy của nam giới trong các ngày hội hè, tế lễ: đầu đội khăn xếp đen, hoặc chít khăn điều hình trụ. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này họ cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp hoặc chít khăn. Mình mặc áo the thâm hoặc lụa thanh thiên, thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó mới đến hai áo dài. Quần của cái hát là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Chân đi giầy hạ hoặc guốc mây…
Các bạn nàng mặc áo năm thân hay áo mớ ba mớ bảy. Cổ áo cao khoảng 2cm, tay may bó khít cổ tay, chiều rộng ngực eo bằng nhau, điểm đặc biệt là ngoài hai vạt chính còn có vạt phụ (vạt con) dài sát gấu áo. Khuy áo được tết bằng vải, cài cúc cạnh sườn. Cổ áo lật chéo để lộ ba màu áo (hoặc bảy màu áo). Lớp ngoài cùng thường là lụa màu nâu hoặc the màu thâm, kế tiếp là màu mỡ gà, cánh sen, vàng chanh, hồ thủy... nhiều màu, hấp dẫn mà vẫn nền nã, kín đáo, hài hòa. Và có 5 màu tương ứng với năm hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Chiếc áo ấy ở bên ngoài là màu ngụ, tượng trưng cho đất, cho sự gần gũi với đất trời, còn ở trong là chiếc áo màu vàng, là màu biểu trưng cho sự trung tâm cho uy thế của Tản Viên Sơn Thánh. Váy của các bạn nàng màu sẫm được may bằng sồi, lụa… đôi khi còn được may thành váy kép với một lớp lương, the, đoạn bên ngoài như lớp áo ngoài nói trên. Điều này cho thấy sự thuận tiện và linh hoạt trong bộ trang phục. Chân đi dép cong, cổ đeo hạt vàng, tay đeo nhẫn, cầm khăn đỏ, túi múi cam nhiều màu sặc sỡ. Có rất nhiều điểm đặc sắc trong những phụ kiện của bộ trang phục này. Chiếc khăn màu đỏ chính là biểu tượng lộc của thánh. Màu đỏ là màu sáng, màu tươi biểu thị cho sự cân bằng âm dương ở đây, hơn nữa chiếc khăn cũng làm cho những người bạn nàng khi thực hiện động tác trở nên khéo léo, điêu luyện hơn. Ngoài ra, chiếc túi múi cam hay còn gọi là túi đào tiên dùng để đựng trầu không, hay tượng trưng cho quả đào tiên trong một bài hát của hát Dô. Tất cả hợp thành một loại trang phục tươi tắn, quý phái mà vẫn giản dị, nền nã, vừa cởi mở lại vừa đoan trang… Nó thể hiện một vẻ đẹp rất riêng nhưng cũng vẫn thuần khiết lao động của những người phụ nữ Việt Nam.
Thực ra trước kia, trong trang phục của cái hát và bạn nàng không có đôi guốc gỗ như bây giờ chúng ta thấy, mà họ chỉ đi chân đất. Nhưng do yêu cầu của lịch sử, cũng như sự lo lắng của người dân về sự thiếu tôn kính với vị thần đáng kính của mình người dân đã bổ sung thêm đôi guốc để đảm bảo sự trọn vẹn. Nếu có dịp xem biểu diễn hát Dô chúng ta sẽ thấy, đôi guốc gỗ là một phát hiện của người dân nhưng cũng chính điều này làm cho các bước đi, những bước hát múa trở nên nặng nề, khô cứng, thiếu sự mềm mại, uyển chuyển.
Trang phục của “nam thanh nữ tú” tham gia hát Dô mang những nét đặc biệt. Tất cả được sáng tạo nên từ cuộc sống lao động của chính người dân. Chất liệu vẫn là những vật liệu gần gũi với thiên nhiên, với đời sống hàng ngày. Màu sắc cũng là những màu gắn bó với ruộng đồng, với sản xuất nông nghiệp. Hay nói một cách khác là ngay trong bộ trang phục thì ước mong về một cuộc sống ấm no, thuận hòa cũng được thể hiện rất rõ.
Về nhạc cụ: Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… cái hát còn có thêm một nhạc cụ hết sức đơn giản đó là đôi sênh do cái hát cầm để giữ nhịp hát. Trong khi đó khí nhạc của Ca trù lại phong phú, đa dạng. Khí nhạc gồm: cỗ phách, đàn đáy, và trống chầu. Cỗ phách chỉ là một thanh tre hay một mảnh gỗ gọi là bàn phách và hai chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con. Gõ hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng trầm tiếng bổng, tiếng mạnh, tiếng nhẹ, tiếng thấp, tiếng cao, tiếng trong, tiếng đục, tiếng dương, tiếng âm...Người biểu diễn cũng hết sức nhịp nhàng, tay cầm phách cái, phách con, tay đưa lên cao, tay đưa xuống thấp uyển chuyển như múa. Đặc biệt, không thể không nói đến một loại nhạc cụ quan trọng, đó là đàn đáy được dùng trong Ca trù. Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang, mặt đàn bằng cây ngô đồng, có mặt mà không có đáy, cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím bằng tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của dây đàn. Đàn mắc 3 dây tơ, có cách nhấn khác thường, tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, lúc chân phương khi dìu dặt, dễ đi vào lòng người. Tất cả trở thành một bản hòa tấu vô cùng phong phú của nhiều âm sắc, nhiều tính nǎng khác nhau và luôn có sự thay đổi, biến hóa không ngừng.
Với hát Dô thì nhạc cụ chỉ là một đôi sênh có chất liệu bằng tre, được đẽo gọt đơn giản, để trong mỗi cuộc hát, chính đôi sênh này điều chỉnh những làn điệu, bắt nhịp. Và cũng chính nó, sau mỗi cuộc hát là hai tiếng sênh vang lên, các bạn nàng lại đồng loạt cúi đầu về đền Khánh Xuân, cứ làm như vậy ba lần thì mới xong. Như vậy, đôi sênh không chỉ dẫn nhịp, thực hiện chức năng chủ đạo của nó, mà còn là đảm nhiệm thay tiếng trống và nhiều công dụng khác. Chính sự đa năng đã làm nên nét đặc trưng của hát Dô.
Điều này càng cho ta thấy sự khác biệt với Ca trù: Nếu Ca trù từng bước tiếp nhận sự đổi mới, và gia nhập vào dòng văn hóa chuyên nghiệp thì hát Dô vẫn là một thể loại văn nghệ dân gian, gắn bó chặt chẽ với quê hương, với đời sống của người dân lao động, đó là nhạc cụ hát Dô bằng tre, có chất liệu gắn bó với sản xuất nông nghiệp, lại được đẽo gọt đơn giản. Chính là một biểu hiện của dòng âm nhạc dân gian.
Về đạo cụ: Quạt giấy là đạo cụ của các bạn nàng. Quạt giấy được làm bằng chất liệu tre, được vót bẹt và mỏng, lại dẻo dai, phủ ở bên ngoài là một lớp giấy, bao quanh những que tre ấy. Mỗi một chiếc quạt có 16 thanh tre. Chiếc quạt là vật dụng không thể thiếu được trong đời sống người dân, nó vừa dùng để che mưa, che nắng lại là một vật giúp làm điệu cho người phụ nữ. Trong lời ca hát Dô, quạt giấy giúp người phụ nữ che thẹn thùng, toát lên được nét duyên e ấp. Nhưng đó cũng là vật dụng để tùy vào nội dung bài hát mà chiếc quạt có thể biến thành chiếc tay chèo, hoặc biến thành những cây mạ non… Sự linh hoạt này càng thể hiện sự thích ứng cao của người dân Liệp Tuyết trong mọi hoàn cảnh.
2.3. Giá trị của hát Dô
Trước hết, hát Dô mang giá trị tâm linh đích thực. Bằng phương tiện ngôn ngữ, âm nhạc, múa và những hình thức riêng thể hiện các yếu tố thiêng đầy cảm xúc đã được ẩn mình trong loại hình thức riêng. Điều đó đã tạo ra những đặc trưng riêng, sắc thái riêng của loại hình diễn xướng dân gian này. Họ tìm thấy những đặc điểm, tín ngưỡng, phong tục tập quán từ xa xưa truyền lại, tìm thấy vai đóng của mình trong hội qua các nghi lễ: rước xách, tế lễ, chia phần… Họ gửi gắm vào đó những khát vọng, ước mơ giản dị là cầu một mùa màng bội thu, mong những điều tốt lành trong cuộc sống. Do đó tràn ngập trong các nghi thức, nghi lễ hát Dô là yếu tố chất thiêng, chất thiêng này cố kết số phận con người, vươn tới sự trong sáng, bình yên trong tâm hồn. Trước vũ trụ bao la, huyền bí, đi trong cuộc đời xưa nhiều rủi hơn may, hát chính là nhịp cầu để đưa người dân đến với thế giới thần linh để cầu mưa, cầu phúc, cầu duyên, cầu lộc, giải hạn... Hy vọng vượt qua được mọi thác ghềnh, hy vọng tấm lòng thành kính và tiếng hát diệu kỳ kia sẽ xua đi mọi tai ương, bất hạnh, mang lại niềm tin cho cuộc sống. Lời ca, tiếng hát Dô đã trở thành người bạn đồng hành mang đến sự an ủi, chở che trước mọi sức mạnh huyền bí của thế giới tâm linh.
Hát Dô hàm chứa những giá trị văn hóa. Nó không chỉ hình thành một sớm một chiều, mà phải trải qua một quá trình lịch sử lâu dài. Lại mang trong mình những giá trị giáo dục, nguyện vọng chân chính của người dân lao động luôn vươn tới chân, thiện, mỹ. Chúng ta thấy trong hát Dô có những câu thơ ba chữ, bốn chữ, bảy chữ… Nhưng phổ biến hơn cả là thể thơ bốn chữ và lục bát. Sự có mặt phổ biến của các thể thơ này chứng tỏ tính chất cổ của hát Dô, đồng thời đây cũng là căn cứ để cho chúng ta biết nguồn gốc lịch sử, của vùng đất đã sản sinh ra loại dân ca độc đáo này. Ở lời ca hát Dô, chúng ta thấy ẩn chứa nét văn hóa vùng, đó là những phương ngữ mà chỉ có ở đây. Văn bản hát Dô cũng chính là một tài liệu quý giá, là một bảo tàng sống về truyền thống của địa phương.
Ngoài giá trị văn hóa, giá trị tâm linh, hát Dô còn làm phong phú vốn nghệ thuật dân ca độc đáo, đặc sắc riêng của mảnh đất Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). Đồng thời hát Dô cũng làm phong phú thêm kho tàng dân ca cổ truyền và văn hóa dân tôc.
Tiểu kết
Như vậy, hát Dô thực sự là một sản phẩm độc đáo, đặc sắc được sinh ra trên mảnh đất Liệp Tuyết – Quốc Oai – Hà Nội). Nó độc đáo và đặc sắc bởi vì nó không giống cũng như không thể nhầm lẫn với bất cứ một loại dân ca nào trên đất nước Việt Nam, ngay cả khi chúng ta so sánh với các loại hình dân ca nghi lễ khác như: hát Xoan, hát Chèo Tàu, hát Dặm… thì sự khác biệt giữa chúng vẫn là những điểm đặc sắc của hát Dô. Sự độc đáo ấy thể hiện trên rất nhiều phương diện: ở nguồn gốc huyền thoại, ở cách chọn người hát, ở những lời nguyền, tục hèm lưu truyền trong dân gian, ở ca từ và trong cả quy trình của cuộc hát nữa. Chính nét riêng biệt ấy đã làm nên “đặc sản” có một không hai này, và cũng bởi sự độc đáo hấp dẫn đó làm phong phú thêm cho vườn hoa dân ca cổ truyền thêm đa sắc màu. Hơn thế, với những giá trị của nó hát Dô đã góp phần bổ sung thêm cho nền văn hóa của quê hương Liệp Tuyết cũng như những giá trị chung của quê hương Việt Nam.
CHƯƠNG 3: HIỆN TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO LƯU, PHÁT TRIỂN HÁT DÔ.
3.1. Hiện trạng của hát Dô
3.1.1. Tình hình phát triển và một số thành tựu của hát Dô.
Trong phần này, chúng tôi xin trình bày về tình hình hiện nay của hát Dô. Tuy nhiên trước khi phân tích về điều đó, chúng tôi xin điểm qua những vài nét về lịch sử phát triển của hát Dô.
Quá trình tồn tại và phát triển của hát Dô là một quá trình không đồng nhất và có những bước thăng, trầm. Trước năm 1926, lễ hội hát Dô được tổ chức rất to và những cuộc hát làm say đắm lòng người, vang danh cả một vùng.
Từ năm 1926 trở đi, hát Dô đã có những bước thụt lùi bởi lễ hội hát Dô không được tổ chức theo định kỳ. Thế hệ các cụ hát Dô năm xưa, phần nhiều đã ra đi, phần còn lại thì trí nhớ đã kém, không thể nhớ hết văn bản của nó.
Sau hòa bình lập lại, công tác tìm kiếm loại hình dân ca quý giá này được triển khai và xúc tiến mạnh mẽ.
Năm 1977, nhà nghiên cứu Trần Bảo Hưng và Nguyễn Đăng Hòe đã tìm về vùng đất Liệp Tuyết, nghiên cứu, tìm hiểu và cho ra tập sách “Hát Dô – Hát Chèo Tàu”. Các tác giả đã có những phân tích, cũng như những đánh giá hết sức sâu sắc. Đặc biệt là thông qua các cụ còn tham gia Hội Dô năm 1926, tác giả đã có một văn bản hát Dô với 22 làn điệu.
Năm 1989, Sở Văn hóa thông tin cùng với phòng văn hóa huyện Quốc Oai đã muốn tổ chức truyền dạy hát Dô. Đảng ủy của xã Liệp Tuyết đã giao nhiệm vụ cho bà Nguyễn Thị Lan, lúc đó là Chủ tịch Hội phụ nữ xã. Nhận trọng trách cao cả bà Lan đã cố gắng kiếm tìm những cụ còn sống mà tham gia Hội Dô năm 1926. Cũng may mắn những cụ tham gia Hội Hát Dô năm xưa còn khá nhiều, và sau đó bà mời chính thức được ba cụ là: Tạ Văn Lai (tức cụ Trâm) thôn Đại Phu làm cái hát; Kiều Thị Nhuận (tức cụ Sôi) thôn Bái Nội và cụ Đàm Thị Điều (tức cụ Vẽ) thôn Đại Phu làm con hát (bạn nàng) truyền dạy cho thế hệ trẻ. Thế hệ trẻ rất hăng hái với một làn điệu không chỉ đặc sắc của vùng quê mà còn mới lạ đối với họ. Từ đây, sau bao nhiêu năm chìm vào lãng quên, làn điệu hát Dô lại được vang lên làm nức lòng người dân nơi đây cũng như những vùng quanh đó. Đội hát những năm ấy, con hát có hai lứa tuổi là thanh niên và những người trung niên ai cũng tích cực tham gia. Và vào năm 1989, Hội Hát Dô mới lại được tổ chức một lần nữa.
Có thể nói, câu chuyện về điệu hát Dô, một nét sinh hoạt văn hoá lâu đời của một vùng dân cư xứ Đoài sẽ mãi mãi chìm trong quên lãng, nếu không có một người đàn bà “bạo gan” dám bước qua lời nguyền tên Lan ấy. Tất cả những chuyện về lời nguyền, nỗi ám truyền đời đó không làm bà nản chí. Dù cuộc đời bà đã thấm đẫm nỗi buồn đau: người chồng đã hy sinh, một thân chạy vạy nuôi hai cô con gái nên người, khi hai cô con gái đến tuổi dậy thì xuất giá về nhà chồng bà lại lủi thủi một mình trong gian nhà ngói 3 gian trống trải. Bà kể: “Những năm trước khi tôi bắt đầu đi tìm hiểu về hát Dô thì may mắn có 3 cụ là: cụ Điều, cụ Nhuận và cụ Lai từng tham gia hát tại lễ hội đền Khánh Xuân cuối cùng năm 1926, còn sống. Vào năm 1989 các cụ có dạy lớp trẻ nhưng các cháu phần vì chưa tiếp xúc với những lời ca đó bao giờ, phần vì giọng của các cụ cũng không còn trong trẻo như xưa nên các cháu rất khó theo. Tôi đến nhà từng cụ, hỏi và ghi chép tỉ mỉ từng câu hát ra giấy. Nghe có người mách một số cụ ở thôn Cổ Hiền, thôn Ao Sen biết về hát Dô, tôi lại cắp sách sang tận nơi để học, ghi chép đầy đủ 36 làn điệu. Sau này, người ta tìm được bản hát chữ Nho viết trên giấy dó, dịch ra so với bản tôi chép tay từ các cụ thì bản chép tay chỉ sai vài từ”. Có được bản chép 36 làn điệu hát Dô, bà Lan bắt đầu đi khắp 5 thôn 6 xóm vận động để thành lập Câu lạc bộ hát Dô. Bà bảo: “Lúc đầu cũng oải lắm, tôi cùng với một anh nữa đi vận động các cháu, nhưng cứ được người này thì một thời gian sau người kia lại nghỉ, có hôm 12h đêm mới về đến nhà. Sau này tôi mới biết nhiều gia đình không đồng ý cho con họ đi hát Dô vì sợ lời nguyền”. Nhớ lại những ngày đầu học hát Dô, có lúc bản thân bà còn muốn bỏ dở chừng vì thấy hát Dô khó quá, các cụ thì đã già nên phát âm không còn rõ, nghe để nhớ rất khó. Trầm ngâm một lát, bà bảo: “Dường như cũng là cái duyên số, một hôm cụ Điều bảo: Đừng cho ai mang tiếng hát Dô đi, không là mất tiếng hát Dô đấy. Con là thế hệ sau phải học, phải giữ hát Dô. Ba ngày sau, cụ bị cảm đột ngột và mất”. Cũng từ đó, bà càng thêm quyết tâm bằng mọi cách giữ gìn và phát huy điệu hát truyền thống này. 20 năm (từ năm 1989) “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, ngày đi làm đồng, tối về cất tiếng hát dạy cho thế hệ sau những làn điệu hát Dô vừa trang trọng, vừa say đắm lòng người. Cuối cùng công sức gây dựng của bà cũng được đền đáp khi làn điệu quê hương đã thực sự sống lại. Ban đầu khi Câu lạc bộ được thành lập số lượng thành viên là khoảng 30 người, phần lớn đều là những người trung niên, tầm 40 tuổi. Sau đó, đội hình dần được trẻ hóa và bắt đầu có những lớp kế cận. Bà thực sự đã trở thành một truyền nhân hát Dô. Ước mong lớn nhất của bà là để nhiều người biết đến hát Dô hơn nữa, thế hệ con cháu biết trân trọng và gìn giữ văn hoá quê hương.
Sau một thời gian thành lập, lần đầu tiên hát Dô xuất hiện trên sân khấu nhưng đó chỉ là các hội diễn văn nghệ quần chúng không chuyên từ cấp huyện đến cấp tỉnh. Nhưng đây chính là một bước ngoặt quan trọng thể hiện sự chuyển biến của hát Dô từ một dân ca nghi lễ có không gian biểu diễn duy nhất tại đền Khánh Xuân sang một sân khấu quần chúng đậm chất giao lưu, bình dị. Nó cũng thể hiện sự thay đổi tư tưởng của người dân nơi đây, họ đã phá bỏ được rào cản sợ hãi vì một luật tục, gắn bó với người dân từ bao đời nay. Đúng như bà Nguyễn Thị Lan nói: “Lúc đầu cũng sợ lắm chứ? Sợ những thứ đó nó vận vào người mình,sợ thánh sẽ quở phạt mình vì không tuân theo lời hèm nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì thấy mình cần phải làm gì để duy trì điệu hát ấy. Thôi, cứ cố gắng làm hết tâm sức mình, mong thần chứng giám cho lòng thành ”. Có thể thấy, suy nghĩ của bà hết sức chính đáng và hợp lý. Điều đó cũng được bà truyền cho thế hệ trẻ và được chúng tiếp nối. Câu lạc bộ hát Dô đã thường xuyên xuất hiện ở các hội diễn trong các cuộc thi, hội diễn cấp tỉnh và tham dự các hội diễn ở trung ương. Nhiều bài viết, nhiều phóng viên đã ghi hình chụp ảnh và làn điệu này cũng được phát sóng trên nhiều kênh truyền hình lớn của Đài truyền hình Việt Nam, chứng tỏ sức lan tỏa của nó. Năm 1994, cụ Kiều Thị Duyên đã được Huy chương vàng trong hội diễn cấp tỉnh với bài hát “Muỗi đốt tứ tung”. Sau đó một năm, cũng trong năm này bà Nguyễn Thị Lan đã đạt Huy chương bạc với bài “Răng đen, Cổ kiêu ba ngấn”. Năm 1998, tại Nhà hát lớn Hà Nội, cụ Kiều Thị Tạo đã biểu diễn xuất sắc làn điệu này, cùng với sự tán thưởng của mọi người
Những thành tựu đó đã góp phần để năm 2003, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam coi đây là một địa chỉ văn hóa và truy tặng danh hiện nghệ nhân cho ba người là: cụ Kiều Thị Nhuận, cụ Tạ Văn Lai và bà Nguyễn Thị Lan. Đây cũng chính là một ghi nhận đáng kể đối với sự cố gắng phấn đấu của họ. Câu lạc bộ hát Dô đi vào hoạt động đã thu hút sự chú ý và quan tâm của nhiều những cá nhân, tổ chức. Đây chính là hạt nhân ươm mầm cho sự phục hồi và đi lên của hát Dô.
Vào năm 2005 có một Hội thảo tại khách sạn Daewo thì hát Dô đã được đánh giá là thể loại dân ca ấn tượng nhất. Đó là một trong những điều động viên, khích lệ những người đã đang bảo tồn làn điệu này. Đặc biệt, cũng vào năm này, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã có một dự án của “Quỹ Ford”, với tổng giá là khoảng 60 triệu. Và mỗi người nghệ nhân dạy là được 20 ngàn một buổi, còn các cháu thì được 15 ngàn. Có lẽ họ làm vì tâm huyết, vì sự trăn trở với quê hương đất nước. Bà
Những thành tựu trên của hát Dô mới chỉ giải quyết khâu trước mắt, Câu lạc bộ hát Dô xã Liệp Tuyết đã nhận được sự giúp đỡ của một số tổ chức để tiếp tục duy trì. Vào năm 2005, Quỹ bảo tồn nghệ thuật văn hóa dân gian đã giúp đỡ kinh phí bảo tồn dự án gìn giữ và phát huy làn điệu hát Dô để được lưu truyền muôn đời. Và bà Lan cũng đã lập kế hoạch ba bước để bả tồn làn điệu này:
Bước 1: Bà kiếm tìm những nghệ nhân còn sống (hiện nay còn 2 cụ là Kiều Thị Hạnh và Kiều Thị Hàn tham gia hát Dô năm 1926). Giúp đỡ các cụ này để các cụ nhớ thêm lời hát Dô để bổ sung vào nguồn tư liệu ngày nay còn rất ít và đang dần biến mất.
Bước 2: Bà bắt tay vào việc tìm kiếm các cháu để vào Câu lạc bộ hát Dô. Đó phần lớn là các cháu học các trường cấp 2, cấp 3 trong huyện, có độ tuổi từ 11 đến 14 tuổi để có thể uốn nắn các khâu, dạy các chữ một cách hiệu quả và nhanh nhất.
Bước 3: Khi đã luyện tập và dạy các cháu thì sẽ nhờ sự hỗ trợ, mua sắm trang phục theo lối cổ như: váy đen, áo cánh, áo dài the, khăn vấn tay, khawncaamf tay màu đỏ, guốc mộc cong, quạt giấy, túi múi cam cho các bạn nàng. Trang phục cái hát cũng được chuẩn bị: áo the, quần trắng, quốc cong, khăn xếp, một đôi sênh bằng tre. Sau đó sẽ cho mọi người thấy kết quả của những cố gắng ấy, bằng việc cho các cháu đi biểu diễn. Bà tâm sự: “Các cháu còn nhỏ, nhiều khi trang phục mặc xong lại vò nát hoặc tranh nhau nên tôi phải nhắc khéo kẻo các cháu phật lòng”.
Nhận được sự quan tâm của mọi tầng lớp nhân dân cũng như những lãnh đạo xã. Đến nay, Câu lạc bộ xã Liệp Tuyết đã có tới 50 thành viên, ngày càng bổ sung thêm những lực lượng mới. Câu lạc bộ gồm có một cái hát là cô Nguyễn Thị Lan và còn các bạn nàng thì số lượng khá đông đảo, có nhiều lứa tuổi.
Trong những năm gần đây Câu lạc bộ vẫn ngày đêm miệt mài tập luyện và thường xuyên tham gia các cuộc thi cũng như sinh hoạt quần chúng như: Hát ở Triển lãm Vân Hồ; Chương trình hội tụ xuân… Về Liệp Tuyết trong những buổi nông nhàn không khí hát Dô tràn ngập khắp đường làng ngõ xóm, điều này càng khẳng định sự trường tồn và bền vững của loại hình dân ca “có một không hai” này. Giờ đây, khi nhắc đến hát Dô ai cũng rất vui vẻ kể chuyện và sự tự hào về làn điệu quê hương. Với em Nguyễn Thị Mai (16 tuổi), ở thôn Đại Phu, thì tham gia Câu lạc bộ là một vinh dự, một niềm tự hào to lớn như lời em tâm sự “Em đi hát được 4 năm rồi. Trong tất cả các bài hát thì em thì thích nhất là bài “Trồng chuối” bởi nó tái hiện cuộc sống lao động khá gần gũi và bình dị. Ở Câu lạc bộ này, em luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ rất lớn của các anh chị đặc biệt là cô Lan. Điều đó càng giúp em thêm yêu điệu hát Dô và cố gắng nhiều hơn”.
Như vậy, với nỗ lực không mệt mỏi của cá nhân và cộng đồng người dân xã Liệp Tuyết, hát Dô ngày nay đã được phục hồi và có những bước phát triển đáng kể. Một số Câu lạc bộ hát Dô được thành lập để lưu truyền, giảng dạy điệu hát này, đồng thời đó cũng là những nơi sinh hoạt văn hóa của người dân. Hát Dô cũng đã được đưa vào sân khấu trở thành một trong những tiết mục độc đáo dành nhiều giải thưởng trong các cuộc thi về dân ca cổ truyền. Điều này chứng tỏ sức sống lâu bền, sự đặc sắc và giá trị to lớn của loại dân ca nghi lễ này. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy hát Dô ngày nay cũng có những điểm khác biệt so với hát Dô xưa. Điều này được thể hiện ở người hát, ở không gian diễn xướng, mục đích diễn xướng… Đó có thể là một bước phát triển của hát Dô và điều này làm cho nó có tính linh hoạt hơn. Hát Dô cũng đã được một số những nhạc sĩ phổ nhạc và gặt hái được một số thành công nhất định.
3.1.2. Một số khó khăn trong việc phát triển hát Dô
Văn bản hát Dô theo thời gian không còn giữ được nhiều và nguyên bản. Các bản tập hợp lại đều là những sự chắp vá. Vì vậy, không có sự thống nhất, vừa thừa lại vừa thiếu. Đây là một tổn thất rất lớn không chỉ cho vùng mà còn cho cả đất nước này. Điều này có thể hiểu được, bởi vì các văn bản hát Dô sau khi tổ chức hội xong thì phải cất giữ bản gốc tại đền, còn các bản phụ thì phải đem đốt hết nên không thể lưu truyền được trong dân gian. Đa số những văn bản còn lưu truyền đến hiện nay là do công sưu tập của các nhà nghiên cứu từ những cụ tham gia Hội Hát Dô năm xưa (tức năm 1926) và dịch từ cuốn “Quốc nhạc diễn ca”.
Lời ca nhiều khi cứng nhắc, thiếu phong phú. Đây là một thực trạng chung của các loại hình dân ca nghi lễ. Lời ca của nó thường được cố định thành văn bản do đó nó giữ được nhiều câu cổ. Vì vậy, lời ca đơn điệu, khô cứng chủ yếu là do nội dung hát Dô quy định. Điều này khác với các thể loại dân ca trữ tình như quan họ, hát Ví…. Làm cho giới trẻ rất khó tiếp cận.
Các nghệ nhân biết và thuộc lời các bài hát Dô đến nay còn lại rất ít, chỉ duy nhất bà Nguyễn Thị Lan vẫn ngày đêm truyền dạy cho các cháu, điều đó là một thiệt thòi lớn. Hơn nữa, hiện nay do thiếu cái hát nên bà Lan vẫn phải là người cái hát, dẫn dắt lối. Điều này có phần sai khác với quy định khi xưa, đồng thời tạo nên sự thiếu cân bằng.
Sự nhận thức của nhân dân còn hạn chế. Họ vẫn còn bị ám ảnh bởi lời hèm năm xưa. Lúc đầu, nhiều gia đình vì sợ lời nguyền thánh phạt mà không dám cho con, cháu của họ tham gia Câu lạc bộ hát Dô. Chính vì vậy, đó là một trở ngại rất lớn trong việc duy trì và bảo tồn hát Dô.
3.2. Một số giải pháp để bảo tồn và phát triển làn điệu hát Dô
Sau khi có Nghị quyết 5 khóa VIII của Đảng thì vấn đề bảo tồn, phát huy và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống để xây dựng nền văn hóa mới dân tộc và hiện đại hay nói đúng hơn là truyền thống và cách tân. Nhưng có thể nói vấn đề bảo tồn, phát huy, phát triển như thế nào, bằng hình thức nào, giải pháp ra sao đòi hỏi sự tìm tòi, thận trọng. Bởi hiện nay, những bối cảnh và hoàn cảnh sinh hoạt cũng đã khác xưa rất nhiều. Vì lẽ đó bảo tồn, phục hưng và phát huy hát Dô là làm sao vẫn giữ được bản chất nhân văn, bản sắc dân tộc, cũng như tính cộng đồng, cộng cảm ở làng xã. Vấn đề đặt ra với hát Dô hiện nay là chúng cần được bảo tồn và phát huy như thế nào trong điều kiện xã hội nước ta đang chuyển hóa từ một xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp thông qua sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đang được xúc tiến mạnh mẽ trong điều kiện đất nước ta ngày càng giao lưu mở rộng với các nước trên thế giới. Sự tồn tại của văn hóa dân gian chính là sự tồn tại dân tộc, mất văn hóa dân gian là mất đi nguồn gốc, mất đi bản sắc. Cần phải làm gì và làm như thế nào với không chỉ dân ca hát Dô mà còn với các dân ca khác đó chính là vấn đề của rất nhiều những cơ quan chuyên trách.
Vì vậy, Ủy ban nhân dân xã Liệp Tuyết đã đưa ra những hướng, giải pháp bảo tồn và phát triển điệu hát này.
Trước hết, đề nghị cần sự phối hợp đồng bộ giữa Bộ văn hóa thể thao và du lịch, Sở văn hóa thông tin Hà Tây với các có quan chuyên nghành như Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội văn học nghệ thuật nhằm phát huy chức năng của từng cơ quan đơn vị và việc bảo tồn di sản này.
Tiếp theo là các hoạt động văn nghệ hay các phong trào quần chúng tham gia một cách thường xuyên. Để không chỉ người dân vùng đó biết mà người dân cả nước và thế giới biết đến hát Dô.
Thứ nữa, xã Liệp Tuyết còn tích cực vận động những người biết hát truyền dạy cho thế hệ mai sau những thanh niên để biết về một miền quê giàu truyền thống văn hóa và có một loại hình dân ca độc đáo.
Cuối cùng là vấn đề ngân sách, tài chính. Bởi vật chất có tốt thì đời sống tinh thần, văn hóa được nâng cao. Vì vậy, xã Liệp Tuyết đang cần sự giúp sức của các cấp trên và sự ủng hộ nhiệt tình của người dân để công tác bảo tồn được tốt hơn.
Qua những giải pháp của các cơ quan chức năng, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa ra những ý kiến những quan điểm của mình để bảo tồn làn điệu có một không hai này:
Lễ hội hát Dô phải được phục hồi. Từ lễ hội được mở vào năm 1926, các cụ kể lại rằng: Lúc đó Liệp Tuyết được chia thành 5 thôn 7 trại, gần đến ngày mở hội mọi việc đều được chuẩn bị chu đáo kỹ càng, việc sửa sang đền thờ, may sắm cờ lọng được chuẩn bị trước hàng năm. Cả 6 thôn 7 trại đều tập trung các con hát tập hát. Ngoài lý do làm cho ngày hội được long trọng trang nghiêm, còn một lý do nữa. Đó là sự đua tài rất quyết liệt giữa các thôn với nhau trong dịp lễ hội. Tinh thần đó càng thúc đẩy nhân dân ra sức tập luyện và chuẩn bị chu đáo. Các con hát đều là trai thanh gái lịch, chủ yếu là tầm tuổi từ 13 đến 18 tuổi. Vì vậy, gia đình nào có con được tham gia hội hát Dô thì rất vinh dự và tự hào. Hơn nữa, nơi đây là không gian tâm linh, tín ngưỡng linh thiêng, thu hút rất đông du khách thập phương. Hội Dô là một hội lớn trong vùng và là một trong những lễ hội đặc biệt của vùng xứ Đoài, nhưng gắn với một tục hèm mà 36 năm mới tổ chức một lần. Thiết nghĩ, trong những năm vừa qua chúng ta đã phục hồi, phát triển dần những làn điệu hát Dô. Nó đã vượt qua được ngưỡng cửa của những quy định, những tục lệ cổ xưa tức là chỉ được hát trong những ngày hội ở đền Khánh Xuân, thì tại sao chúng ta phải ràng buộc trong giới hạn thời gian là 36 năm. Hội Dô nên tổ chức đều đặn khoảng vài năm một lần, vì tính từ năm 1926 đến nay hát Dô chưa được tổ chức lần nào. Lễ hội là dịp để mọi người có dịp gặp gỡ trò chuyện, cũng là dịp để những di tích này có người trông nom, chăm sóc và sự đóng góp hảo tâm của những người yêu mến mảnh đất nơi đây. Đặc biệt, nơi đây còn có thể kết hợp với chùa Thầy, chùa Tây Phương tạo nên một hình thức du lịch độc đáo: du lịch tâm linh tín ngưỡng. Lễ hội đền Khánh Xuân được khôi phục và hoàn chỉnh không chỉ có những tác động mạnh mẽ đến khơi dậy nền văn hóa dân tộc mà còn lưu giữ và trao truyền những tinh hoa văn hóa truyền thống của địa phương, giúp giáo dục được thế hệ trẻ, những người sẽ là lớp kế cận sau này. . Lễ hội ấy phải giữ được sắc thái cổ truyền kết hợp với nội dung mới. Theo chúng tôi chỉ có vùng hát Dô có Hội Dô mới bảo tồn và phát huy được truyền thống tinh hoa văn hóa, bởi đó chính là môi trường sống. Theo tinh thần tiếp thu có chọn lọc, lễ hội hát Dô tiếp thu có chọn lọc, có phê phán “bình cũ, rượi mới”, lễ hội Dô có bảo tồn mà vẫn cải tạo nội dung cho phù hợp.
Bảo tồn không gian hát Dô. Có thể nói, đền Khánh Xuân chính là một không gian hát Dô đặc biệt. Đền Khánh Xuân được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII [22,87], dưới thời phong kiến đã được các triều vua ban các sắc phong thần cho phép dân làng thờ tự lâu dài. Hệ thống sắc phong với những quy định chặt chẽ của làng là cơ sở pháp lý cho việc giữ gìn, bảo vệ di tích trong những năm trước cách mạng. Đến ngày nay thời gian đã trên 200 năm trải qua mưa nắng thời gian và sự biến đổi của thiên nhiên, thời tiết, độ bền của vật liệu xây dựng đã giảm. Ngôi đền đã xuống cấp mặc dù đã được địa phương nhiều lần tu sửa, nhưng vì kinh phí để tu sửa không nhiều nên việc tu sửa không đồng bộ, không mang tính thống nhất mang tính chắp vá. Khung gỗ mái bị mối xông võng mái, tường nhà bị rạn nứt do lún móng. Các hoa văn ở bốn góc đao và Long Ly chầu Nguyệt đều bị nứt gãy. Ngôi đền rất cần được tu sửa lại để bảo vệ nguyên trạng. Vì vậy, việc sửa lại cần sự ủng hộ của nhân dân và cả địa phương với chính quyền cấp trên để có thể giữ nguyên trạng di tích lịch sử văn hóa này. Hiện tại, khi chúng tôi đến thì thấy đó là một ngôi đền khang trang và rất đẹp. Khi tiếp xúc với người dân và ông thủ đền Nguyễn Văn Ly (60 tuổi) chúng tôi cảm nhận được sự kính trọng và lòng tôn nghiêm của ngôi đền này với cuộc sống người dân nơi đây. Vì vậy, có thể thấy đền Khánh Xuân không chỉ một không gian lễ hội mà đó còn là một tín ngưỡng tâm linh của người dân Liệp Tuyết. Và một điểm đặc biệt là trong 108 địa chỉ thờ Tản Viên sơn thánh ở quanh chân núi Ba Vì, không một nơi nào, hay nói đúng hơn là chỉ có đền Khánh Xuân là có một loại dân ca nghi lễ - hát Dô tặng Ngài. Điều này chính là một sự ưu ái khác biệt mà người dân nơi đây có được. Ngày nay, lễ hội vẫn sẽ được duy trì trên một bình diện mới, mang một nội dung nhân văn mới gắn với những giá trị nhân văn truyền thống. Tưởng nhớ công ơn của những người đã khuất, những người có công với nước, với cộng đồng, ước vọng về một cuộc sống hạnh phúc, vươn lên để dành những thành quả lao động nhiều hơn… là nội dung lành mạnh trong đời sống tâm linh của mỗi con người Việt Nam xưa và nay. Nó giống như một cơ tầng tín ngưỡng mới trong các nội dung lễ hội. Sau khi sàng lọc cái cũ và đưa vào những cái mới, nhiều tiết mục nghi thức truyền thống của hát Dô vẫn còn có thể tiếp tục tồn tại trong phần lễ của lễ hội. Có thể duy trì ở phần hội những màn múa hát mang tính chất hoạt cảnh, những trò chơi giao duyên với sự khuyến khích những sáng tạo mới theo phương thức dân gian để những giá trị nghệ thuật của hát Dô vừa được bảo tồn vừa luôn có cái mới gắn với nhịp sống của thời đại.
Bảo tồn những văn bản của lời ca hát Dô. Lời ca hát Dô chính là sản phẩm của cuộc sống lao động vất vả. Nó là một di sản văn hóa vô giá, có vai trò gắn kết cộng đồng. Hát Dô cũng giống như nhiều di sản văn hóa khác, được sáng tạo rất lâu, ít nhất là trước năm 1926, rồi trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, những người lưu giữ các giá trị văn hóa này đến hiện nay, phần nhiều là những người già, lại truyền miệng cho nên một số người đã ra đi, phần còn lại giờ đây trí nhớ cũng kém nên nguy cơ mai một là rất lớn. Thiết nghĩ, để thuận lợi cho công tác nghiên cứu, sưu tầm hát Dô trước hết cần phải có một kế hoạch khoa học, đó là công việc thuộc các cơ quan chủ quản. Chúng ta đã và đang tiếp tục đề cao vai trò của nghệ nhân. Chúng ta cần phải sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu toàn bộ những giá trị di sản văn hóa phi vật thể và chăm sóc các nghệ nhân dân gian những người thầy tài năng trí tuệ và hết lòng vì sự nghiệp bảo tồn này. Công tác bảo tồn di sản đặc biệt là ghi chép, ghi hình, ghi tiếng, dàn dựng những tiết mục liên quan đến hát Dô để làm sao đảm bảo được tính nguyên gốc, không bị nét hiện đại xâm nhập. Điều này xảy ra ở nhiều nơi trong các khâu như dựng lại phục trang cổ…. Việc tu sửa, bảo tồn cần tôn trọng tối đa tính nguyên bản, nguyên gốc nhằm tránh làm sai lệch giá trị lịch sử và khoa học của di sản hát Dô.
Phát triển tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hóa, sinh thái môi trường trong thời kỳ mới là một chủ trương lớn của nhà nước ta. Từ đó, việc đưa văn hóa vào du lịch sẽ mở ra một hướng đi có nhiều triển vọng to lớn trong việc bảo tồn và phát huy vốn văn hóa dân gian. Hát Dô cần và có thể hòa nhập vào xu thế này.
Một môi trường nữa có thể góp phần vào việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy, phát triển nghệ thuật hát Dô là làm cho những thành phần thích hợp của nó sống lại dưới dạng chuyên nghiệp bằng những phương tiện,hình thức như hội diễn, liên hoan, đưa lên làn sóng truyền thanh, truyền hình, có sự bổ sung phương thức biểu hiện mới như nhạc đệm, nâng cao chất lượng vũ đạo, và ở một trình độ cao hơn là dùng những yếu tố nghệ thuật trong hát Dô để làm chất liệu – chủ đề - đề tài cho những sáng tạo mới. Ở môi trường này hát Dô không tự thân vận động để bảo lưu và phát huy mà như một đối tượng, một chất liệu để vận hành vào những quy trình sáng tạo khác nhau, chúng ta có thể gọi đây là môi trường đặc dụng.
Phải xã hội hóa văn hóa của hát Dô để nó sống trong lòng của người dân. Theo GS. TS Tô Ngọc Thanh Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam cho rằng: “Chúng tôi khôi phục lại môi trường tâm thức và tâm linh của nhân dân thì cả làng ủng hộ… Như thế là chúng tôi trả lại và đó chính là xã hội hóa văn hóa. Và chỉ có như vậy thì di sản mới có thể sống được”. Chỉ có sống giữa quần chúng thì những di sản độc đáo ấy mới có chỗ trú chân, mới là chính mình. Vì vậy, nó nảy nở rất nhanh và bền vững. Xã hội hóa hát Dô nói riêng và xã hội hóa văn hóa dân gian nói chung đang được tiến hành nhanh chóng, khẩn khoản.
Phổ biến truyền thống giáo dục, vốn di sản hát Dô trong nhân dân, đặc biệt là trong các trường học. Như chúng ta đã biết thì hát Dô là vốn di sản quý của Liệp Tuyết nhưng chẳng lẽ cứ trưng bày trong tủ kính, phủ ni lông lên thì như vậy nó sẽ nhanh chóng bị mai một và không còn. Qua đó ta phải biến nó thành di sản chung của dân tộc. Vì vậy, các cấp, các ngành phải động viên, hướng dẫn nhân dân biết yêu mến những nét quý giá để bảo tồn phát huy, sử dụng trong đời sống xã hội. Phổ cập dưới hình thức, nhiều cách. Gắn nó với chương trình giáo dục thẩm mỹ hay văn hóa dân gian ở các cấp học. Việc nuôi trồng những giá trị văn hóa cổ truyền ở đây cần được lưu ý đến tâm lý của từng lứa tuổi. Nếu như các em nhỏ học ở cấp tiểu học thì cần cải biên và chỉnh sửa một chút để những tiết mục gần với đồng dao, hơn nữa còn nên gắn với các trò chơi để như vậy, các em vừa có thể học, vừa có thể chơi, nâng cao hiệu quả của hát Dô. Có thể cải biên những tiết mục có kỹ năng hay những khúc hát, làn điệu có lối đồng ca để từ đó luân phiên xen kẽ giữa giọng nam và giọng nữ, giữa các bộ phận của một tốp, giữa đơn ca và đồng ca.
Khuyến khích những người làm công tác văn học nghệ thuật, đặc biệt là các nhạc sĩ, các tác giả xây dựng các tiết mục, tác phẩm, chương trình dựa trên chất liệu hát Dô. Nếu có thể được thì hát Dô càng được bảo tồn, phát triển.
Ươm mầm tài năng thông qua Câu lạc bộ hát Dô. Đó chính là lớp kế cận những tầng lớp đã sắp không thể hướng dẫn được nữa. Vì vậy, phải tích cực chủ động đối với những thanh niên.
Tiểu kết
Như vậy với việc nêu ra những thực trạng, tình hình cụ thể của làn điệu hát Dô thì chúng ta đã thấy những bước phát triển, những thăng trầm của làn điệu này để từ đó có những giải pháp phù hợp với nó.
Sự thăng trầm của hát Dô một phần do chiến tranh, phần nữa do sự hiểu biết còn non kém của nhân dân, càng làm những lời ca hát Dô trở nên thất truyền và mai một. Những giải pháp ấy đã bước đầu thực hiện có hiệu quả nhưng còn rất nhiều vấn đề cần phải bàn. Để hát Dô thực sự sống trong tâm tưởng vùng đất ấy thì phải làm cho những người dân hiểu sâu sắc, bởi chính họ sẽ là những chủ nhân của di sản văn hóa này. Chính vì vậy, hát Dô cần được nhân rộng được phổ biến một cách mạnh mẽ. Đặc biệt, phải làm cho những lời ca hát Dô sống ngay trên mảnh đất Liệp Tuyết này.
C. KẾT LUẬN
Nằm trong hệ thống dân ca nghi lễ ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hát Dô mang những đặc điểm chung của loại thể, như có liên quan trực tiếp đến lịch tiết nông nghiệp, truyền thống thờ các vị thần và ca ngợi công lao của Tản Viên sơn thánh, một vị thần trong tứ bất tử của Việt Nam, cũng như những bài ca về lao động, về cuộc sống bình dị của nhân dân. Nhưng được sinh ra từ vùng quê Liệp Tuyết, một vùng đất đặc thù với địa hình bán sơn địa, quanh năm phải chịu những trận lụt lội do dòng sông Tích tràn về, rồi dần dần những cảnh lụt lội ấy đã không còn khi công tác thủy lợi được chú trọng thì cảnh ngập úng mới được khắc phục. Đây còn là một vùng đất cổ, xuất hiện từ thời Hùng Vương thứ Sáu (Khánh Xuân điện thần tích) chính vì thế mà vùng đất ấy đã có những truyền thống văn hóa, giáo dục đặc sắc. Với những yếu tố khác biệt như vậy, đó là môi trường để dân ca hát Dô khởi nguồn, phát tích.
Hát Dô là một loại hình dân ca nghi lễ đặc sắc của mảnh đất xứ Đoài. Nguồn gốc nguyên thủy của nó vốn là những lời ca, bài ca khẩn nguyện các vị thần linh phù hộ cho cuộc sống tốt đẹp, cũng như những khắc nghiệt trong cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên như: lụt lội, mất mùa… và nó được “phù phép” bởi màu sắc huyền thoại về vị thần đặc biệt, vị thần mà nhân dân quanh vùng ai cũng kính trọng và ngưỡng mộ. Chẳng thế mà ở địa bàn Hà Tây cũ có 108 nơi thờ ngài. Nhưng không một nơi nào có hình thức diễn xướng dân ca như hát Dô để tạ ơn Ngài. Đây được coi là một điểm đặc biệt về mảnh đất và con người nơi đây. Dần dần, khi mà triều đại phong kiến cực thịnh, Nho giáo phát triển thì văn bản hát Dô được hình thành vào thế kỷ thứ XV. Và từ đó có những bước phát triển và hoàn thiện. Đây là sự đấu tranh, thâm nhập, hòa quyện giữa văn hóa dân gian với nền văn học uyên bác tạo nên một loại hình dân ca đặc sắc: Hát Dô.
Không gian đặc biệt nơi diễn ra hát Dô đó chính là đền Khánh Xuân (Xuân Ca cung). Đây là một ngôi đền được xây dựng trên một gò đất cao rộng của trung tâm thôn Đại Phu, ở một nơi hội tụ đầy đủ những yếu tố tốt đẹp như bản thần tích trong đền đã nói: Gò nổi lên giống như rùa đội bảng, như gối vào sao Mộc và bên ngoài lại có sao Kim phù ứng. Với kiến trúc và trang trí thời Nguyễn tạo nên một chốn sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng thiêng liêng cổ kính. Phía trước có sân rộng thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Thực là hiếm có nơi nào có vị trí và địa thế đẹp được như vậy. Một không gian tuyệt đẹp lại là nơi diễn ra một loại hình dân ca độc đáo, đó là sự hội tụ của nhiều yếu tố thuận lợi. Mà lễ hội này phải 36 năm mới tổ chức một lần, có nghệ nhân giải thích rằng bởi lễ hội dành cho Ngài nhiều quá nên 36 năm sau mới đến lượt Liệp Tuyết hay có những giải thích khác dựa vào tổng của hai con số. Nó thể hiện sự viên mãn tràn đầy. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì dân ca hát Dô vẫn là độc đáo và không nơi đâu có. Phải chăng vì thế mà muốn có một lễ hội hát Dô thì phải chờ đợi?
Là dân ca nghi lễ của một xã hội nông nghiệp, hát Dô phản ánh cuộc sống lao động, cuộc sống tình cảm của nhân dân lao động. Nó là ước mong khát khao một cuộc sống lao động ngày càng thịnh vượng, ngày càng tốt đẹp. Nó còn phản ánh những nhận thức của nhân dân về thiên nhiên, về thời tiết mưa thuận gió hòa, về mùa màng bội thu, con cháu đông đúc. Ngoài ra, ở phần lời ca Bỏ bộ vượt qua những khuôn mẫu văn bản, lời ca hát Dô có những chặng giao duyên thể hiện những tiếng ca trữ tình, đằm thắm thể hiện sự thâm nhập, ảnh hưởng sâu sắc của dân ca trữ tình vào dân ca nghi lễ và có xu hướng ngày càng tăng lên.
Mặc dù phải chống chọi với sự mai một văn bản lời ca, bởi thời gian và những điều kiện lịch sử khác nhưng hiện nay vốn di sản văn hóa độc đáo ấy đang được bảo tồn, duy trì và phát triển. Điều này cũng đồng nghĩa với việc vốn văn hóa dân tộc vẫn còn thì “nước còn”, chính vì thế hát Dô phải được nhân rộng và làm cho nó ăn nhập với cuộc sống thường nhật. Đó là một viên ngọc vô giá mà càng mài nó càng trở nên sáng và lấp lánh.
Hiện nay, hát Dô đang được đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cùng với rất nhiều loại hình văn hóa độc đáo khác của dân tộc đã được công nhận như: Nhã nhạc Cung đình Huế, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Ca trù… Đây là một trong những tiền đề để phục dựng và phát triển hơn nữa làn điệu có “một không hai” này.
Từ những nghiên cứu của bản thân, chúng tôi xin đưa ra hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài đó là tìm hiểu sự ảnh hưởng của hát Dô trong đời sống văn hóa của nhân dân Liệp Tuyết. Đây chính là một nghiên cứu sâu hơn về hát Dô, về những tác động của hát Dô đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Đồng thời tìm ra những giá trị đặc sắc của hát Dô.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa_luan_tot_nghiep_ha_1109.doc