Khóa luận Cạnh tranh Trung - Nhật tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh

Khóa luận tốt nghiệp học viện ngoại giao năm 2011 Trung Quốc và Nhật Bản từ lâu đều là những cường quốc có vai trò quan trọng hàng đầu của khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung và tầm ảnh hưởng lớn với khu vực Đông Nam Á nói riêng. Từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1972, quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Đặc biệt từ khi Trung Quốc trỗi dậy nhanh chóng và gia tăng ảnh hưởng thì vấn đề cạnh tranh Trung- Nhật càng trở nên nóng bỏng hơn, nhất là tại khu vực Đông Nam Á. Sự nghi kỵ phổ biến trong nhân dân và thế hệ trẻ hai nước có thể thấy qua một cuộc khảo sát năm 2007: 46% sinh viên Nhật Bản và 57% sinh viên Trung Quốc có cái nhìn tiêu cực về nước kia trong khi đó có tới 80% sinh viên hai nước được hỏi cho rằng quan hệ Nhật Bản-Trung Quốc đang trong thời kỳ “tồi tệ”[1]. Dù đây không phải là một cái nhìn toàn cảnh nhưng điều đó cũng buộc người ta phải đặt ra những câu hỏi rằng: Phải chăng đằng sau những nụ cười và cái bắt tay ngoại giao, bên dưới những bài phát biểu “tan băng” được phát đi từ cả hai phía là cả một tảng băng chìm sẵn sàng ngăn trở và làm nguội lạnh những kỳ vọng về sự xích lại gần nhau giữa hai người khổng lồ châu Á. Trên thực tế, đã có không ít bài khóa luận nghiên cứu về quan hệ Trung - Nhật. Song bài viết dưới đây muốn tìm hiểu về cạnh tranh của hai quốc gia này tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là trong giai đoạn gần đây, trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của đất nước Trung Quốc. Đó là cuộc tranh giành tầm ảnh hưởng khu vực Đông Nam Á của một nước Nhật Bản – một cường quốc kinh tế, vẫn luôn nuôi dưỡng ước mơ vươn tới địa vị một cường quốc toàn diện và Trung Quốc- một cường quốc chính trị đang tiếp tục những bước phát triển vững chắc với đầy tham vọng. Nằm ở vị trí địa chiến lược quan trọng, Đông Nam Á từ lâu đã trở thành địa bàn tranh chấp ảnh hưởng và quyền lực giữa các nền văn hóa- văn minh và các nước lớn trên thế giới.[2] Trong gần hai thập niên trở lại đây, cùng với sự kết thúc chiến tranh lạnh và gia tăng của toàn cầu hóa, khu vực hóa, khu vực Đông Nam Á lại trở nên sống động không chỉ bởi sự gia tăng hợp tác và liên kết nội khối trong ASEAN, mà còn trở thành nơi hội tụ của các sáng kiến mới thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các đối tác trên thế giới, trong đó không thể không nhắc đến Trung Quốc và Nhật Bản. Với đề tài “ Cạnh tranh Trung-Nhật tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh” LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT QUAN HỆ TRUNG-NHẬT TRONG LỊCH SỬ I.TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN TRONG LỊCH SỬ CHÂU Á 1. Khái quát quan hệ Trung – Nhật trước CTTG II: 2. Quan hệ Trung – Nhật trong chiến tranh lạnh: 2.1. Giai đoạn 1949-1971: 2.2. Giai đoạn 1972-1991: II. VAI TRÒ CỦA ĐÔNG NAM Á VỚI TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN TRONG LỊCH SỬ III. DI SẢN LỊCH SỬ ĐỐI VỚI QUAN HỆ TRUNG-NHẬT. 1.Những vấn đề lịch sử. 2.Vấn đề Đài Loan. CHƯƠNG II: CẠNH TRANH TRUNG-NHẬT SAU CHIẾN TRANH LẠNH TẠI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á I.Vận động quan hệ Trung-Nhật sau chiến tranh lạnh. 1. So sánh lực lượng Trung – Nhật sau chiến tranh lạnh. 2.Chính sách của Trung Quốc và Nhật Bản với nhau: 2.1. Chính sách của Trung Quốc với Nhật Bản. 2.2. Chính sách của Nhật Bản với Trung Quốc. II.Đông Nam Á trong chiến lược của Trung Quốc và Nhật Bản sau chiến tranh lạnh 1.Tầm quan trọng của Đông Nam Á đối với Trung Quốc và Nhật Bản sau chiến tranh lạnh 2.Triển khai chính sách của Trung Quốc và Nhật Bản tại Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh 2.1. Chính sách của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á 2.2.Chính sách của Nhật Bản đối với các quốc gia Đông Nam Á III.Cạnh tranh Trung – Nhật trong khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh 1Cạnh tranh chính trị-quân sự Nhật – Trung tại khu vực. 2.Vấn đề xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực. 3.Cạnh tranh kinh tế. 3.1.Cạnh tranh đầu tư – thương mại tại khu vực. 3.2.Vấn đề xử lý cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997. 3.3.Vấn đề ký kết các hiệp định tự do thương mại song phương. 4.Cạnh tranh năng lượng và an ninh hàng hải ở biển Đông. CHƯƠNG III: XU HƯỚNG CẠNH TRANH TRUNG-NHẬT TRONG TƯƠNG LAI I.Tác động của cạnh tranh Trung-Nhật đến khu vực và Việt Nam 1.Tác động đến khu vực. 1.1.Tác động tích cực: 1.2.Tác động tiêu cực. 2. Tác động đến Việt Nam II. Xu hướng cạnh tranh Trung-Nhật trong tương lai 1.Tình hình Trung Quốc và Nhật Bản hiện nay. 2.Xu hướng cạnh tranh Trung- Nhật trong tương lai KẾT LUẬN

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cạnh tranh Trung - Nhật tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh Lạnh kết thúc tác động sâu sắc đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Cạnh tranh Trung – Nhật trong khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh Cạnh tranh chính trị-quân sự Nhật – Trung tại khu vực Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới thay đổi, Trung Quốc và Nhật Bản ra sức tranh giành tầm ảnh hưởng của mình với khu vực Đông Nam Á trên lĩnh vực chính trị và quân sự. Nhật Bản là một nước đã có quan hệ mật thiết với hầu hết các nước ASEAN từ nửa thế kỷ trước còn quan hệ Trung Quốc và ASEAN thì tương đối mới nhưng được triển khai rất nhanh từ thập niên 1990. Trong giai đoạn này,Trung Quốc tích cực, chủ động lập lại quan hệ bình thường với nhiều nước ASEAN. Phần lớn việc lập lại quan hệ bình thường này được thực hiện năm 1990 trong chuyến công du của Thủ tướng Lý Bằng sang Indonesia, Singapore, Malaysia, Thái Lan và Lào. Xem thêm: Trần Hoàng Long(2007), “Quan hệ Nhật – Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, Nghiên cứu Đông Bắc Á(7).tr.13 Do đó, cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng giữa hai quốc gia càng trở nên quyết liệt và sôi động hơn tại khu vực trong cả lĩnh vực chính trị và quân sự. Về chính trị, đối với cả Nhật Bản và Trung Quốc, đây được coi như một cuộc chạy đua trong việc gia tăng ảnh hưởng, lôi kéo các nước đồng minh tại khu vực. Tuy cùng đạt đến vị trí cường quốc chính trị và kinh tế, nhưng sự nổi dậy của Nhật Bản và Trung Quốc lại diễn ra theo hai hướng trái ngược nhau, được nhiều nhà phân tích coi như “Một chín một mười”: Nhật Bản là một cường quốc kinh tế lội ngược dòng để khẳng định vị thế chính trị. Ngược lại, Trung Quốc đi từ cường quốc chính trị đến cường quốc kinh tế. Hẳn nhiên, Trung Quốc không hề muốn nhìn thấy một quốc gia từng bị coi là “lùn về chính trị” sánh ngang hàng với mình trên lĩnh vực này. Do đó, Nhật và Trung Quốc đã không ngừng thiết lập tầm ảnh hưởng của mình đến cộng đồng các nước Đông Nam Á (ASEAN). Để triển khai, Nhật Bản tích cực thúc đẩy các hiệp ước song phương với các nước ASEAN. Nhật đứng ra tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh đặc biệt Nhật-ASEAN vào tháng 12/2003 tại Tokyo. Đây là lần đầu tiên một hội nghị ASEAN – Nhật Bản diễn ra không phải ở một nước ASEAN mà ở Nhật Bản. Điều này cho thấy Nhật đang ngày càng quan tâm hơn và nhấn mạnh hơn tầm quan trọng của Đông Nam Á đối với quốc gia này. Tiếp đến từ 2005 Nhật bắt đầu thương lượng với ASEAN để đi đến hiệp định liên kết kinh tế toàn diện Nhật Bản – ASEAN (JACEP) mà thủ tướng Koizumi đã đề xướng tại Xingapo từ tháng 1/2002. Nhật cam kết sẽ cung cấp khoảng 1,5 tỷ USD để phát triển khu vực sông Mê Công, đồng thời tăng cường hơn nữa vốn FDI từ Nhật sang các nước này. Xem thêm: Ngô Vĩnh Long(2007). “Đông Nam Á trong quan hệ Mỹ, Nhật, Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đối với Việ Nam” (8) Một trong những chiến lược của Nhật đối với khu vực là ưu tiên chú trọng cung cấp ODA để phát triển Hành lang Kinh tế Đông Tây (EWEC) và Tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia. Nhờ có nguồn tài trợ từ Nhật, Tuyến EWEC đã thông xe vào cuối năm 2006. Từ 2005, Nhật Bản cũng đã tổ chức nhiều đoàn khảo sát khu vực Tam giác phát triển và tài trợ bước đầu 2 tỷ yên cho dự án phát triển Tam giác này. Đồng thời, năm 2006, Nhật Bản đã đóng góp 64 triệu USD thành lập Quĩ hội nhập Nhật Bản – ASEAN, trong đó dành phần ưu tiên cho Tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia. Trần Khánh (2009), “Đông Nam Á trong cạnh tranh chiến lược Trung-Nhật (thập niên đầu thế kỷ XXI)”, Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.18. Về phía Trung Quốc, nhằm hạn chế hoặc vô hiệu hóa những nỗ lực mới của Nhật Bản tại Đông Nam Á, nhất là đối với phát triển EWEC và Tam giác Việt Nam – Lào – Campuchia, Trung Quốc vào năm 2006 ( năm thông xe tuyến EWEC) đã đưa ra chiến lược “Một trục hai cánh” hay còn gọi là “Chiến lược chữ M”, trong đó: 1) Xây dựng hành lang kinh tế trên đất liền kéo dài từ Nam Ninh ( Quảng Tây) đi qua một số nước Đông Nam Á đến Xingapo, đồng thời lấy đó làm trục; 2) Thúc đẩy Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS) và coi đây là một Cánh; 3) Xây dựng hành lang kinh tế biển, gọi là vịnh Bắc Bộ mở rộng, đồng thời coi đây là một Cánh. Dự án lớn này sẽ tạo ra sự liên kết theo chiều dọc, hay sự “ hợp tung” giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á. Sự “hợp tung” và “ liên hoành” của các hành lang, vành đai kinh ( như hành Bắc Nam, Hành lang Đông Tây…) trong GMS đã và đang làm tăng nhanh các mối giao lưu, nhất là kinh tế giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lục địa. Tại điểm giao nhau đó ngày càng xuất hiện nhiều Trung tâm thương mại mới của Trung Quốc. Còn Trung Quốc, nhiều trung tâm đô thị, hải cảng lớn được xây dựng để kết nối với trục, hành lang kinh tế trên. Thành phố Nam Ninh đã trở thành trung tâm hội chợ xuất nhập khẩu Trung Quốc- ASEAN, được tổ chức hàng năm kể từ 2004. Cảng Phòng Thành của tỉnh Quảng Tây đã nâng cấp lên thành cảng quốc tế, nơi sẽ thu hút các luồng thương mại từ “Một trục hai cánh”, Nhất là cánh biển, và là cái “phiễu” mới đón nhận các sản phẩm từ vùng Tây Nam của Trung Quốc xuất khẩu ra nước ngoài. Để thực hiện dự án chiến lược này, vào tháng 1/2008, Trung Quốc đã chính thức phê chuẩn Quy hoạch phát triển khu vực hợp tác kinh tế Vĩnh Bắc Bộ (Quảng Tây), và coi khu vực này là cực tăng trưởng thứ 4 của Trung Quốc, tiếp sau khu vực sông Chu Giang, khu vực sông Trường Giang và Vịnh Bột Hải. Chiến lược mới của Trung Quốc trong việc mở rộng ảnh hưởng tại lưu vực sông Mê Công đã làm cho người Nhật cay cú. Không phải ngẫu nhiên mà tờ Yomiuri Shinbun của Nhật Bản lại đưa ra nhận định rằng: “Người gieo giống là Nhật Bản, nhưng quả của nó xem ra đã bị Trung Quốc hái mất rồi”. Trần Khánh (2009), “Đông Nam Á trong cạnh tranh chiến lược Trung-Nhật (thập niên đầu thế kỷ XXI)”, Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.18. Lý do là: Nhật Bản là người đề xướng xây dựng Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), trong đó có hành lang kinh tế Đông – Tây nối liền từ Việt Nam qua Lào, Thái Lan đến Mianma, còn Trung Quốc thì ngược lại, tích cực xây dựng Hành lang Kinh tế Bắc - Nam từ Côn Minh đi qua Lào đến Băng Cốc. Còn về phía Trung Quốc, Giáo sư Mã Yến Bang- Viện Nghiên cứu Quan hệ quốc tế đương đại của Trung Quốc cho rằng: “Hiện nay, GMS đã trở thành chiến trường mới của cuộc đấu tranh chính trị, kinh tế giữa Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Nước nào nắm được bán đảo Trung Nam (tức Đông Dương) thì sẽ có ảnh hưởng đến cục diện địa-chính trị Đông Nam Á, thậm chí cả châu Á; Đây là tiêu điểm mới của cục diện châu Á- Thái Bình Dương”. Còn giáo sư Lý Thần Dương- Sở nghiên cứu Đông Nam Á, đại học Vân Nam chỉ ra rằng: “Việc xây dựng các hành lang kinh tế thuộc GMS đã mang lại dấu ấn sâu sắc của mối quan hệ giữa các nước lớn, biểu hiện chủ yếu là tranh chấp quyền chủ đạo trong hợp tác vùng giữa Trung Quốc và Nhật Bản; Trung Quốc thiên về hành lang theo chiều dọc, còn Nhật Bản lại chú ý đến hành lang theo chiều ngang” Xem thêm: Hoài Nam (2008). “Trung Quốc với Hành lang Kinh tế Đông Tây“, Nghiên cứu Đông Nam Á (11), tr.50-51. Những nhận xét trên có thể là chưa đúng hoàn toàn, nhưng cũng chứng minh một phần về sự gia tăng cạnh tranh giành ưu thế địa chính trị giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở Đông Nam Á, nhất là ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Về quân sự, tuy không quá gay gắt nhưng Nhật Bản và Trung Quốc cũng có những cạnh tranh nhất định trên lĩnh vực này. Nhật Bản vốn là một quốc gia không có thế mạnh về quân sự, nhưng để hoàn thiện mình với khu vực Đông Nam Á và không muốn thua kém gì Trung Quốc tại khu vực, những năm gần đây, Nhật Bản đang tăng cường quan hệ đồng minh chiến lược Mỹ - Nhật – Úc, đồng thời nâng cấp Cục phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng từ tháng 1/2007, gia tăng đầu tư trang bị vũ khí mới, hiện đại, thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận chung với các đồng minh, trong đó có các nước đồng minh ở Đông Nam Á như Thái Lan và Philippin. Tháng 5/2005, lần đầu tiên trong lịch sử, Nhật Bản tham gia vào cuộc tập trận chung với tên gọi là “Hổ mang” tổ chức hàng năm tại Thái Lan với sự tham gia của Mỹ và các đồng minh của họ trong khu vực. Hơn nữa Nhật Bản từ 2005 đã để cho cơ quan chỉ huy của Tập đoàn Bộ binh số 1 từ Oasingtơn đến Kanagawa, đồng thời tăng cường hợp tác quân sự với Mỹ , trong đó có việc xây dựng Hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo tại Nhật Bản. Tuy nhiên, liên minh an ninh-quân sự Mỹ- Nhật lại càng làm cho hố ngăn cách Nhật- Trung ngày càng lớn. Hà Phương (2007), “Triển vọng mới trong quan hệ Trung – Nhật”, Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 3/3/2007. Về phía Trung Quốc, đáp lại sự củng cố liên minh Nhật-Mỹ, ngoài việc tăng cường ảnh hưởng mềm, Trung Quốc cũng không ngừng gia tăng hợp tác an ninh – quốc phòng với Đông Nam Á, trong đó có cả với những đối tác truyền thống và đồng minh của Mỹ-Nhật như Thái Lan và Philippin. Cùng với việc thông qua bản “Kế hoạch hành động chung về hợp tác chiến lược Thái-Trung” nhân dịp kỷ niệm 30 năm quan hệ Trung- Thái, hai nước này lần đầu tiên tiến hành cuộc tập trận chung với quy mô lớn tại vịnh Thái Lan mang tên “Hữu nghị Trung- Thái 2005” (tháng 12/2005) và cuộc tập trận thứ hai với tên gọi “Tấn công 2007” diễn ra tại Quảng Châu hồi tháng 7/2007. Xem thêm: Trần Khánh(2008), “Can dự và cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ở Đông Nam Á trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á(12) Mặt khác, Trung Quốc tiếp tục cung cấp tín dụng quân sự cho Thái Lan bất chấp việc Mỹ ngưng khoản viện trợ vì việc đảo chính vi hiến vào tháng 9/200. Đây là một trong những hành động đáp trả đối với sự gia tăng quan hệ đồng minh chiến lược Nhật- Mỹ. Ngoài ra, từ lâu đã cảnh báo về sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc, Nhật Bản phản đối mạnh mẽ việc EU bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Đồng thời để tránh sự lôi kéo đồng minh của Trung Quốc, Nhật Bản đã phần nào cổ suý cho thuyết về “mối đe dọa Trung Quốc”. Phủ định điều này, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã phải thuyết phục các nước Đông Nam Á bằng việc tuyên truyền về một Trung Quốc “trỗi dậy hòa bình”. Trần Hoàng Long (2007), “Quan hệ Nhật – Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, Nghiên cứu Đông Bắc Á (7).tr.14 Tóm lại, cạnh tranh về vị thế chính trị-quân sự nêu trên đã cho thấy sự lo ngại lẫn nhau của hai quốc gia đầy tham vọng về việc xác định Trung Quốc hay Nhật Bản, ai sẽ là nước nắm vai trò lớn hơn ở khu vực Đông Nam Á, từ đó tiến hành các biện pháp ngăn chặn và kiềm chế tầm ảnh hưởng tại khu vực này. 2. Vấn đề xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực Vấn đề xây dựng cơ chế hợp tác khu vực “Cộng đồng Đông Á” Vấn đề Cộng đồng Đông Á lần đầu tiên được chính thức bàn đến là vào năm 2001 khi Nhóm bàn thảo về tầm nhìn Đông Á (East Asian Vision Group) được thành lập gồm các thức giả trong vùng, theo sự gợi ý của Tổng thống Hàn Quốc đương thời Kim Dae Jung. thể hiện rất rõ việc lôi kéo đồng minh các nước khu vực Đông Nam Á trong chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng của Nhật Bản và Trung Quốc bởi từ lâu, cả hai quốc gia này đều muốn chiếm vai trò chủ đạo trong khu vực Đông Á. Mặt khác, quốc gia nào nắm được Đông Nam Á, quốc gia ấy sẽ có được lợi thế rất lớn trong việc lãnh đạo Đông Á, thậm chí là Châu Á. Ngay từ những năm 1980 thế kỷ trước, Nhật Bản đã là nước đầu tiên đưa ra kiến nghị thành lập “Khối cộng đồng Đông Á” và các nhà kinh tế Nhật Bản đưa ra công thức “Đàn én bay”, tức là trong hợp tác kinh tế của Đông Á thì Nhật Bản là “con én đầu đàn”, tiếp theo đó là bốn “con rồng châu Á”, sau đó mới là các nước đang phát triển như Malaysia và Trung Quốc Đỗ Minh Cao (2009), “Nhật- Trung: Những trở ngại tiềm tàng trong quan hệ song phương, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á (10), tr.19. . Nhưng vào đầu thế kỷ XXI, do kinh tế Nhật Bản bị đình trệ, bên cạnh đó tình hình thế giới và khu vực có những thay đổi lớn, nên công thức “đàn én bay” chỉ tồn tại trên giấy tờ. Năm 2002, Thủ tướng Koizumi kêu gọi thành lập “Khối cộng đồng Đông Á” với ý đồ nắm lại quyền lãnh đạo nhóm này, nhưng cuối cùng vẫn không thành. Tuy nhiên, muốn giành được quyền lãnh đạo Đông Á, Nhật Bản hiểu rằng phải lôi kéo được khu vực Đông Nam Á hay các nước ASEAN làm đồng minh. Như Nhật Bản, Trung Quốc cũng tăng cường hoạt động đối ngoại để giành lấy quyền chủ đạo này. Bước vào thế kỷ XXI, xuất phát từ chiến lược kinh tế toàn cầu, Trung Quốc càng đặt quan hê hợp tác kinh tế Trung Quốc – ASEAN lên hàng đầu. Cùng với các nước ASEAN, Trung Quốc thành lập khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN, đồng thời nhanh chóng thành lập “Khối cộng đồng Đông Á”. Tóm lại, để nắm được vai trò chủ đạo khu vực Đông Á, cả hai quốc gia đều nhận thức được rằng, trong ván cờ này, ASEAN đóng vai trò trung gian, nước nào lôi kéo được ASEAN, nước ấy sẽ có thể có vị trí “chim én đầu đàn” của “Cộng đồng Đông Á”. Do vậy, cạnh tranh Nhật – Trung đối với khu vực Đông Nam Á trong vấn đề này cũng không kém phần quyết liệt như trên phương diện quân sự, kinh tế hay thậm chí là các vấn đề lịch sử còn tồn đọng.  Cạnh tranh kinh tế 3.1. Cạnh tranh đầu tư – thương mại tại khu vực Nhật vốn đã có quan hệ kinh tế mật thiết với năm nước thành viên cũ của ASEAN (Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Phi-lip-pin và Singapore) từ gần nửa thế kỷ nay. Quan hệ Nhật-ASEAN lại phát triển một bước lớn khi các công ty Nhật ào ạt sang đầu tư trưc tiếp (FDI) tại Thái, Malaysia, Singapore và Indonesia sau khi đồng yên tăng giá đột ngột từ cuối năm 1985. Sau chiến tranh lạnh, cùng với mậu dịch, ODA và FDI, Nhật đã tạo ra một sự gắn bó mật thiết với các nước trong khối này. Cho đến nay, Nhật vẫn giữ một vị trí quan trọng trong ngoại thương, đầu tư và ODA tại các nước này. Tuy nhiên, Trung Quốc, với một nền kinh tế lớn nhanh và có khuynh hướng hướng ngoại, Kinh tế Trung Quốc không những phát triển với tốc độ cao mà ngày càng có đặc tính là nghiêng về xuất khẩu hàng công nghiệp. Xem Trần Văn Thọ (2005, 2006), Ch. 3. đã theo kịp hoặc vượt qua vị trí của Nhật trong ngoại thương đối với nhiều nước ASEAN. Tại một số nước thành viên mới của ASEAN như Lào, Campuchia và Myanmar, Trung Quốc chiếm vị trí khá cao trong cả ODA và FDI. Do vậy, cạnh tranh giữa hai quốc gia trên lĩnh vực kinh tế và thương mại này tỏ ra rất sôi động. Điều này có thể được nhận thấy rõ qua biểu đồ “Cơ cấu nhập khẩu của các nước ASEAN” dưới đây: Về ngoại thương, như Hình 1 cho thấy, cho đến khoảng năm 1995, Nhật chiếm tới trên 20% trong tổng nhập khẩu của ASEAN trong khi Trung Quốc chỉ có vài phần trăm. Sau đó thị phần của Nhật giảm liên tục trong khi của Trung Quốc tăng nhanh. Đến năm 2006, Trung Quốc đã vượt Mỹ và tiến gần bằng thị phần của Nhật. Tại các nước thành viên mới của ASEAN, vị trí của Trung Quốc vượt Nhật từ nhiều năm truớc và khoảng cách giữa hai nước ngày càng lớn. Tại Việt Nam, Trung Quốc cũng đã vượt Nhật từ năm 2003 trở thành nước lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Việt Nam (xem Hình 2). Về đầu tư nước ngoài (FDI), Trung Quốc phát biểu chính sách này lần đầu năm 1998 và chiến lược đẩy mạnh chính sách được ghi rõ trong Kế họach 5 năm lần thứ X (2001-2005). Vào cuối năm 2005, tại ASEAN, tích lượng (stock) FDI của Trung Quốc nhiều nhất là tại Singapore (hơn 300 triệu USD), sau đó tới Malaysia (200 triệu USD) và các nước khác. Tuy nhiên so với Nhật là nước đã đầu tư nhiều tại các nước thành viến cũ của ASEAN từ gần nửa thế kỷ nay, vị trí của Trung Quốc không đáng kể. Tại Việt Nam, từ khoảng năm 2001, Trung Quốc bắt đầu đầu tư nhiều trong ngành xe máy, đồ điện gia dụng, v.v. nhưng so với Nhật vị trí của Trung Quốc còn rất thấp. Vào cuối năm 2006, tích lượng FDI tại Việt Nam theo vốn đăng ký là 60 tỉ USD trong đó Nhật 7,4 tỉ (chiếm 12,3%), Trung Quốc chỉ có hơn 1 tỉ (1,8%), và Mỹ là 2,2 tỉ (3,7%). Trần Văn Thọ- GS đại học Waseda, Nhật Bản, “Trung Quốc và Nhật Bản trong trật tự mới Á châu”, truy cập ngày 14/5/2011. Đáng chú ý là vai trò của Trung Quốc tại Lào, Campuchia và Myamar. Mấy năm gần đây, Trung Quốc là nước dẫn đầu FDI tại Campuchia (chủ yếu sản xuất hàng may mặc). Tại Lào, tích lượng FDI (từ năm 2000 đến tháng 3 năm 2007) của Trung Quốc xếp hàng thứ hai, sau Thái Lan, còn Nhật ở vị trí thứ năm. Tại Myanmar, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều đầu tư ít, nhưng về ODA thì Trung Quốc độc chiếm vì Nhật và các nước khác tiếp tục chính sách chế tài kinh tế đối với Myanmar, trong khi Trung Quốc muốn thừa cơ này củng cố thế lực ở phía tây nam. Từ cuối thập niên 1990, Trung Quốc liên tục viện trợ cho Myanmar, bao gồm nhiều lãnh vực từ xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác năng lượng đến các dự án phát triển công nghiệp. Tình hình chính trị ở Myanmar và môi trường quốc tế chung quanh nước nầy đã thay đổi hẳn vị trí của Nhật và Trung Quốc. 3.2. Vấn đề xử lý cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997 Cuộc khủng khoảng tiền tệ Á châu (1997-98) đã trở thành cơ hội cho cả Trung Quốc và Nhật Bản thể hiện vai trò của mình như là một nước lớn với các nước ASEAN. Về phía Trung Quốc, ngay lập tức, nước này giúp 1 tỉ USD cho Thái Lan, nước chịu ảnh hưởng nặng nhất trong cuộc khủng hoảng. Vào tháng 12/1997, Trung Quốc tuyên bố sẽ không giảm giá đồng nhân dân tệ, một hành động được các nước Đông Nam Á hoan nghênh, vì thái độ đó góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình tiền tệ và kinh tế, tránh được một sự cạnh tranh giảm giá đồng tiền để duy trì hoặc đẩy mạnh xuất khẩu Trần Khánh(2009), “Đông Nam Á trong cạnh tranh chiến lược Trung-Nhật (thập niên đầu thế kỷ XXI), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á(1), tr. 16. . Đặc biệt nhiều nước ASEAN có cơ cấu xuất khẩu giống Trung Quốc nên thái độ của Trung Quốc được xem là “hào hiệp”. Trung Quốc đã lợi dụng dịp này để tỏ ra mình có trách nhiệm của một nước lớn.  Về phía Nhật, đây cũng là dịp để họ thi thố vai trò của một nước lớn có trách nhiệm tại khu vực. Tuy kinh tế Nhật đang ở trong thời kỳ suy thoái nặng nhưng họ đã đưa ra các chính sách rất tích cực. Ngay sau khi cuộc khủng hoảng xảy ra tại Thái Lan (7/1997), Nhật chủ trì hội nghị quốc tế để giúp nước này giải quyết tình trạng thiếu ngoại tệ (8/1997). Tháng 10/1998, Nhật đưa ra sáng kiến mới Miyazawa, Sáng kiến mới Miyazawa lấy theo tên của Bộ trưởng Tài chánh Miyazawa Kiichi lúc đó. Yen Loan của Nhật vốn là một bộ phận trong ODA, từ lâu đã được áp dụng theo phương thức nước  nhận ODA không bị ràng buộc (untied) vào điều kiện phải chi dùng vào việc mua hàng hóa và dịch vụ của Nhật. Nhưng Yen Loan lần này là đặc biệt vì có bị ràng buộc (tied), xem như là phần cho vay ưu đãi ngoài các chương trình ODA đã có, và vì kinh tế Nhật đang gặp khó khăn nên chuyện ràng buộc được xem là hợp lý.  cam kết sẽ xuất ra 30 tỉ USD giúp 6 nước Á châu chịu ảnh hưởng nặng trong cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, tháng 12/1998, Nhật cam kết lập chương trình Yen cho vay đặc biệt (Special Yen Loan) gồm 650 tỉ yen thực hiện trong 3 năm, giúp các nước Á châu cải thiện, xây dựng thêm cơ sở hạ tầng kinh tế. Qui mô tài chính của các chương trình hợp tác của Nhật như vậy là rất lớn, không nước nào hoặc cơ quan quốc tế nào có mức cam kết nhiều như vậy. Trong cuộc khủng hoảng tiền tệ Á châu, 3 nước chịu ảnh hưởng nặng nhất (Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc) được IMF giúp tổng cộng là 35 tỉ, và Ngân hàng thế giới là 16 tỉ USD. Cùng thời điểm với IMF và Ngân hàng thế giới, Nhật Bản cũng giúp ngay cho 3 nước 19 tỉ USD. (Theo Nihon Keizai Shinbun, 2/7/2007). Sau đó Nhật phát biểu Sáng kiến mới Miyazawa và Yen Loan đặc biệt để giúp Á châu trong dài hạn. Đặc biệt,  khác với IMF hay Ngân hàng thế giới chỉ chú trọng giúp giải quyết khó khăn nhất thời về tài chánh, tiền tệ, Nhật có cái nhìn dài hạn, chú trọng giúp các nước ASEAN xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp để phục hồi sản xuất, cải thiện sức cạnh tranh. Các công ty đa quốc gia Nhật cũng có chính sách bám trụ tại ASEAN, nỗ lực tái hồi phục sản xuất, củng cố sức cạnh tranh của các công ty con tại vùng này. Nhìn chung, chính sách của chính phủ và thái độ của xí nghiệp Nhật được các nước ASEAN đánh giá cao. Mahathir, Thủ tướng đương thời của Malaysia, trong cuốn sách xuất bản năm 1999, đã đánh giá cao vai trò của Nhật trong quá trình công nghiệp hóa của ASEAN, và lên tiếng phê phán tư bản tài chính Mỹ mà ông ta cho là thủ phạm của cuộc khủng hoảng tài chính Á châu. Mahathir, Mohamad (1999), A New Deal for Asia, Pelanduk Publications (M) Sdn Bhd, Malaysia,Chương 5.  Một vấn đề đáng chú ý trong cuộc khủng hoảng tài chính Á châu là Nhật đã tích cực đưa đề án thành lập Quỹ tiền tệ châu Á (Asian Monetary Fund, AMF) nhưng bị cả Mỹ và Trung Quốc phản đối. Trong đề án nầy, AMF sẽ có một ngân quỹ 100 tỉ USD đủ để đối phó các cuộc khủng hỏang tài chánh tương tự và Nhật hứa sẽ đóng góp phần lớn nếu đề án được thực hiện. Cũng theo lập luận của Nhật, giống như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), tuy đã có Ngân hàng thế giới nhưng ở Á châu vẫn cần một tổ chức riêng, thì việc lập AMF ở Á châu dù đã có IMF cũng là chuyện thường. Nhưng Mỹ và Trung Quốc sợ mất vai trò tại Á châu nên cương quyết phản đối, cho là đã có IMF thì không cần AMF. Theo Sakakibara Eisuke, Thứ truởng đương thời của Bộ Tài chánh Nhật, và là người phụ trách vận động thành lập AMF, Nhật không được Trung Quốc ủng hộ là vì họ không biết cách vận động truớc. Theo ông ta thì Nhật đã thất bại vì đã tiếp xúc với bộ Tài chánh và Ngân hàng Trung ương Trung Quốc trong khi đáng lẽ phải vận động trực tiếp Bộ Chính trị là nơi có quyền quyết định cuối cùng. Theo phát biểu gần đây của Sakakibara trên báo Nhon Keizai Shinbun, 9/7/2007. Tuy nhiên theo tôi, dù Nhật có vận động bộ Chính trị, Trung Quốc cũng phản đối việc thành lập AMF do Nhật chủ xướng. 3.3. Vấn đề ký kết các hiệp định tự do thương mại song phươngSong phương ở đây bao gồm cả trường hợp Nhật hay Trung Quốc ký kết với toàn khối ASEAN Nhằm tăng cường hợp tác với các nước ASEAN, Trung Quốc và Nhật Bản đang chạy đua trong việc kí kết các hiệp định tự do thương mại song phương. Nhật Bản là nước đầu tiên châm ngòi cho những thảo luận và đề án FTA sôi nổi tại khu vực từ năm 1999 bằng sự kiện Nhật Bản và Hàn Quốc cùng nghiên cứu khả năng và hiệu quả của một FTA giữa hai nước. Sau đó, Nhật và Singapore bắt đầu thảo luận từ tháng 11/1999 và đã ký kết Hiệp định hợp tác kinh tế (Japan-Singapore Economic Partnership Agreement, JSEPA) vào tháng 1/2002. Từ năm 2004, Nhật đã xúc tiến thương lượng và cuối cùng đã ký kết FTA song phương với Phi-lip-pin, Malaixia và Thái Lan trong năm 2006 và với Inđonesia năm 2007.Trần Khánh (2009), “Đông Nam Á trong cạnh tranh chiến lược Trung-Nhật (thập niên đầu thế kỷ XXI)”, Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.18. Cùng vào thời điểm đó, Thủ tướng Koizumi đề xuất lập quan hệ đối tác toàn diện Nhật-ASEAN. Tuy nhiên, trong lúc Nhật còn lúng túng, chậm chạp trong quá trình triển khai hợp tác thì Trung Quốc đã tiến hành nhanh chóng một chiến lược rất dứt khoát, rõ ràng và  hấp dẫn đối với ASEAN. Đó là Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA). Trung Quốc và 10 nước ASEAN qua các Hội nghị thượng đỉnh ở Brunei (2001), Pnom Penh (2002), Bali (2003) và Vientiane (2004) đã lần lượt thoả thuận các bước chuẩn bị để cuối cùng đi đến ký kết các hiệp ước liên quan đến FTA. Tính cạnh tranh trong FTA của Trung Quốc còn được thể hiện ở nội dung của Hiệp định: Trung Quốc đã nhượng bộ tối đa, đưa ra một đề án với nội dung hấp dẫn để các nước ASEAN dễ chấp nhận. Ngoài kế hoạch giảm thuế nói chung, hiệp định bao gồm một chương trình gọi là Thu hoạch sớm (Early Harvest) để giảm thuế ngay (từ đầu năm 2004) những mặt hàng nông phẩm mà đa số các nước ASEAN đặc biệt quan tâm. Trong hiệp định, Trung Quốc cũng đặc biệt chiếu cố các thành viên mới của ASEAN (Việt Nam, Lào, Myanmar và Cambodia): Trung Quốc dành sự đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) cho cả các nước chưa gia nhập WTO, trì hoãn nghĩa vụ thực hiện FTA đối với các thành viên mới, viện trợ 5 triệu USD cho chương trình phát triển lưu vực sông Mê Kông, phụ đảm 1/3 phí tổn xây đường cao tốc nối Côn Minh với Bangkok. Tóm lại, Trung Quốc đơn phương mở cửa thị trường trước cho hàng hoá của ASEAN và chịu phụ đảm nhiều hơn cho các chương trình xây dựng hạ tầng kinh tế khu vực. Sở dĩ, Trung Quốc có thái độ tích cực như vậy là do Trung Quốc nhận thức được tầm quan trọng của việc hợp tác với các nước Đông Nam Á trong cuộc chạy đua với Nhật Bản về vị trí lãnh đạo “Cộng đồng Đông Á” trong tương lai. Mặt khác, Trung Quốc cũng muốn cho các nước trong khu vực thấy hình ảnh thân thiện của một nước Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”. Có thể nói, trong việc thỏa thuận ký kết ACFTA, ASEAN nhắm cái lợi kinh tế, còn Trung Quốc nhắm cái lợi về chính trị. Chính sự kiện này đã làm cho Nhật tỉnh ngộ, nhận thấy cần phải đặt lại chiến lược ASEAN để vừa duy trì ảnh hưởng tại vùng này, vừa giữ thế chủ động trong quá trình hình thành cộng đồng kinh tế Đông Á trong tương lai. Từ đó, Nhật đã tiến hành Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Nhật- ASEAN vào tháng 12 năm 2003 tại Tokyo. Gọi là “đặc biệt” vì đây là lần đầu tiên một hội nghị như vậy được tổ chức tại một nước không phải thành viên ASEAN. Theo tuyên ngôn Tokyo, Nhật sẽ đặt ưu tiên cao cho nỗ lực giúp các nước ASEAN phát triển và hội nhập với nhau hơn nữa. Nhật cũng ưu tiên cấp tiền viện trợ và vốn vay ưu đãi (ODA) cho ASEAN, đặc biệt trong lãnh vực đào tạo nhân tài, phát triển xí nghiệp nhỏ và vừa, và giúp phát triển các nước thuộc lưu vực sông Mê Kông để rút ngắn khoảng cách giữa 2 nhóm nước (6 nước thành viên cũ và 4 nước thành viên mới) trong khối này. Mặt khác, Nhật và ASEAN sẽ tăng cường sự liên kết kinh tế về mọi mặt. Cho đến năm 2012, hai bên sẽ cụ thể hoá ý tưởng này bằng việc ký Hiệp định liên kết kinh tế toàn diện Nhật ASEAN (JACEP) mà Thủ tướng Koizumi đề xướng tại Singapore tháng 1 năm 2002. Sự liên kết này có phạm vi rộng, từ trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đến hợp tác đầu tư, tài chánh, tiền tệ, công nghệ thông tin, năng lượng…Trên quan hệ đặc biệt này, Nhật và ASEAN sẽ hợp tác trong các vấn đề của khu vực và thế giới. Tóm lại, tuyên ngôn Tokyo và Kế hoạch hành động là sự cam kết cao độ của Nhật trong việc giúp các nước ASEAN hơn nữa. Đây là chiến lược của Nhật nhằm tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc tại vùng Đông Nam Á. Cạnh tranh năng lượng và an ninh hàng hải ở biển Đông Từ lâu, năng lượng dầu mỏ đã là một vấn đề rất nhạy cảm đối với nhiều quốc gia, đặc biệt là với các nước phát triển như Nhật Bản và Trung Quốc, nhu cầu năng lượng với họ là rất lớn. Trên thế giới, thậm chí đã có rất nhiều cuộc chiến tranh đổ máu chỉ vì vấn đề nhạy cảm này. Từ năm 2002, Trung Quốc đã trở thành nước nhập khẩu dầu lửa đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Dự đoán lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc có thể lên tới 60% vào năm 2020. Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục thống kê nhà nước Trung Quốc cho biết dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế vào năm 2006 đạt mức 10,5% tăng 1% so với năm 2005 Đỗ Minh Cao (2007), “Quan hệ Nhật – Trung xung quanh vấn đề năng lượng”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á(4) . Với đà tăng trưởng như vậy, Trung Quốc cần phải tích cực hơn trong việc tìm kiếm các nguồn bổ sung năng lượng, nhiên liệu tự nhiên, đặc biệt là các mỏ dầu. Điều này dường như còn thiết yếu hơn đối với Nhật Bản, bởi Nhật là nước rất nghèo tài nguyên thiên nhiên, hầu hết các nguồn nhiên liệu chủ yếu đều nhập khẩu (nước này hầu như phải nhập toàn bộ số dầu lửa cần thiết lên tới 99,7% ). Nhật Bản không có mỏ uranium và các nguồn năng lượng thay thế địa nhiệt… Trên thực tế Nhật Bản chỉ cung cấp được gần 18% nguồn năng lượng, trong đó năng lượng mặt trời chiếm 2%. Trần Hoàng Long (2007), “Quan hệ Nhât-Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á (7). Tr.14. Trong những năm tới, Nhật Bản tiếp tục là nước nhập khẩu năng lượng thứ 3 thế giới. Nhưng do tình hình năng lượng thế giới có nhiều biến động phức tạp, Nhật Bản đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt năng lượng và buộc phải có chính sách an ninh năng lượng đúng đắn nhằm duy trì nền kinh tế khổng lồ của mình. Sự thiết hụt nguồn năng lượng phục vụ phát triển kinh tế đất nước buộc Nhật Bản và Trung Quốc phải tìm kiếm nguồn năng lượng ở nước ngoài. Tại Đông Nam Á, Biển Đông là một tiềm năng về trữ lượng dầu mỏ. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. “Biển Đông: Địa chiến lược và tiềm năng kinh tế”, Nghiên cứu biền Đông, truy cập ngày 5/5/2011. Mặt khác, Trung Quốc và Nhật Bản còn là hai trong nhiều nước có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông. Ước tính lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Nt Sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế đã dẫn tới nhu cầu khổng lồ về dầu và khí để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế và đáp ứng nhu cầu ngày một lớn của các phương tiện giao thông. Người ta ước tính rằng, hàng năm, nhu cầu dầu từ Đông Á sẽ tăng 2,7% từ 14,8 triệu thùng/ngày (mmbpd) lên 29,8 mmbpd vào năm 2030 Nt , trong đó Trung Quốc chiếm khoảng một nửa tổng số. Nhu cầu năng lượng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những động thái mang tính cứng rắn gần đây của Trung Quốc trong tranh chấp biển Đông với ASEAN như bắt giữ ngư dân Việt Nam, tuyên bố biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc ngang hàng với Tân Cương, Tây Tạng và Đài Loan; dấy lên những quan ngại trong các nước ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc cũng như những nước có lợi ích liên quan như Mỹ và Nhật. Đối với Nhật Bản, vùng biển này hết sức quan trọng về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế. Biển Đông còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đông. Vì vậy, việc Biển Đông bị Trung Quốc khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực. Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% Nt lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông. Sự phụ thuộc rất lớn vào tuyến đường hàng hải này khiến Nhật Bản rất lo ngại và nghi kỵ trước những hành động đơn phương mang tính quả quyết của Trung Quốc gần đây ở biển Đông và ngầm ủng hộ lập trường của các nước ASEAN trong tranh chấp biển Đông với Trung Quốc. Tiểu kết: Tóm lại, với những mâu thuẫn từ rất lâu đời và tương quan thay đổi từ sau chiến tranh lạnh, Nhật Bản và Trung Quốc không ngừng cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, quân sự đến năng lượng nhằm tranh giành tầm ảnh hưởng của mình tới khu vực Đông Nam Á - một vị trí chiến lược giao thông hàng hải quan trọng đối với cả hai nước. Mặc dù từ sau chiến tranh lạnh, hai quốc gia láng giềng này đã cố gắng thúc đẩy quan hệ hai nước hướng tới đối tác chiến lược, tuy nhiên, trong quan hệ hai nước vẫn và đang tồn tại một loạt thách thức tiềm tàng. Nguyên nhân sâu xa của những thách thức này là cuộc cạnh tranh ngầm: giành thế mạnh tại châu Á- Thái Bình Dương. Để khẳng định được vị thế của mình trên thế giới, hai nước cần khẳng định vai trò chủ đạo của mình với khu vực châu Á nói chung và tầm ảnh hưởng với khu vực Đông Nam Á nói riêng. Với những quyết tâm lớn như vậy, triển vọng quan hệ Trung-Nhật trong tương lai sẽ như thế nào? Liệu Trung Quốc và Nhật Bản có thể gạt bỏ được những nghi kỵ và bất đồng cũng như những lợi ích quốc gia trong khu vực Đông Nam Á để cùng xây dựng một thế kỷ XXI của “quan hệ đối tác hữu nghị và hợp tác” vì “hòa bình và phát triển” Đỗ Minh Cao (2009), “Nhật-Trung: Những trở ngại tiềm tàng trong quan hệ song phương”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 10(104)10/2009, tr.19 như trong tuyên bố chung năm 1998 hay không? Điều này sẽ tiếp tục được nghiên cứu ở phần tiếp theo của bài Khóa luận. CHƯƠNG III: XU HƯỚNG CẠNH TRANH TRUNG-NHẬT TRONG TƯƠNG LAI Tác động của cạnh tranh Trung-Nhật đến khu vực và Việt Nam Tác động đến khu vực Tác động tích cực: Một trong những tác động tích cực lớn nhất của cạnh tranh Trung- Nhật đến khu vực Đông Nam Á là các nước này có thể tranh thủ thời cơ để phát triển kinh tế, hưởng lợi từ các nguồn đầu tư, ODA, FDI từ cả hai nước Trung Quốc và Nhật Bản. Qua đó các nước đang phát triển trong khu vực cũng có điều kiện để trao đổi khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Thực vậy, nhằm tăng sức ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Nam Á, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều ra sức lôi kéo đồng minh các quốc gia khu vực này bằng các hình thức chạy đua cung cấp viện trợ và đầu tư cho các nước trong khu vực như ta đã liệt kê ở trên. Theo đó, một loạt các hiệp định song phương được kí kết. Các nước ASEAN còn được hưởng những quy chế Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và rất nhiều những ưu đãi từ cả hai phía Trung Quốc và Nhật Bản. Minh chứng cho điều này là Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA). Trong hiệp định này, Trung Quốc đã nhượng bộ tối đa, đưa ra một đề án với nội dung hấp dẫn để các nước ASEAN dễ chấp nhận. Nhật Bản cũng tương tự với việc ký Hiệp định liên kết kinh tế toàn diện Nhật-ASEAN (JACEP). Không chỉ thế, các nước khu vực Đông Nam Á cũng được hưởng lợi trong việc khai thác được thị trường hai nước này một cách dễ dàng thông qua các FTA song phương. Nhiều nước ASEAN cũng thành công trong việc xâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Chẳng hạn từ năm 1992 đến 2004, xuất khẩu hàng công nghiệp của ASEAN tăng 3 lần, nhưng riêng xuất khẩu sang Trung Quốc tăng tới 16 lần. Trần Văn Thọ- GS đại học Waseda, Nhật Bản, “Trung Quốc và Nhật Bản trong trật tự mới Á châu”, truy cập ngày 14/5/2011. Hiện nay thị phần của ASEAN trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc chiếm độ 10%, tương đương với Mỹ và Hàn Quốc. Về phía Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu của ASEAN sang Nhật Bản tăng 22,8% từ 85,1 tỷ USD năm 2007 lên 104,5 tỷ USD năm 2008. Kim ngạch nhập khẩu vào ASEAN từ Nhật Bản trong cùng giai đoạn cũng tăng từ 87,9 tỷ USD lên 106,8 tỷ USD, tương đương mức tăng 21,5%. Nhật Bản là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN với 12,4% tổng kim ngạch thương mại của khối. “Đối thoại ASEAN- Nhật Bản”, WTO hội nhập kinh tế quốc tế, truy cập ngày 13/5/2011. Mặt khác, một sự cạnh tranh lành mạnh giữa Trung Quốc và Nhật Bản có thể mang lại cho các nước Đông Nam Á một cơ hội đa dạng hoá và cân bằng các mối quan hệ với các cường quốc khu vực khác (như Mỹ, Ấn Độ) cũng như thúc đẩy hơn nữa quá trình liên kết khu vực mà ASEAN đóng vai trò điều phối qua các cơ chế của mình. Tuy nhiên, cạnh tranh Trung-Nhật cũng đặt ra không ít thách thức cho các nước khu vực. Tác động tiêu cực Quan hệ bất ổn định như đã phân tích ở trên giữa Trung Quốc và Nhật Bản đã gây ra những tác động tiêu cực tới khu vực Đông Nam Á. Thứ nhất, sự nghi kỵ lẫn nhau giữa hai nước có thể tác động tiêu cực đối với tính ổn định chung của nền kinh tế và an ninh khu vực mà điển hình là quá trình hợp tác và liên kết khu vực đã bị trì hoãn trong thời kỳ “đóng băng” quan hệ Trung Nhật năm 2005-2006 do những bất đồng liên quan đến vấn đề lịch sử. Thứ hai, những mâu thuẫn giữa hai nước về các vấn đề khu vực như Biển Đông có thể sẽ dấy lên tới những bất đồng không đáng có trong quan hệ giữa các quốc gia Đông Nam Á. Thứ ba, cạnh tranh Trung-Nhật có thể tạo nên những hoang mang cho các nước yếu hơn trong khu vực Đông Nam Á trước sức ép của sự lôi kéo của các nước lớn. Từ đó, sự chia rẽ trong nội bộ khối ASEAN cũng khó có thể tránh khỏi. Nói tóm lại, mối quan hệ với các nước siêu cường như Trung Quốc và Nhật luôn đem lại cho các nước này những thời cơ và thách thức. Trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của hai cường quốc trên khu vực tạo cho khu vực những thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Điều này đòi hỏi các nước trong khu vực phải có một lập trường vững vàng và hết sức bản lĩnh để chèo lái con thuyền ASEAN của mình. 2. Tác động đến Việt Nam Hai nước láng giềng Trung Quốc và Nhật Bản có những mối quan hệ quan trọng về nhiều mặt an ninh, chính trị, kinh tế đối với Việt Nam. Do vậy, cạnh tranh hai quốc gia này tại khu vực chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam. Cuộc cạnh tranh để xác lập vai trò ảnh hưởng và địa vị lãnh đạo khu vực của hai cường quốc vô tình đã nâng cao vai trò và tầm quan trọng của các nước nhỏ lân cận như Việt Nam. Cả Trung Quốc và Nhật Bản đều nhận thấy vai trò quan trọng của Việt Nam trong ASEAN. Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm của ASEAN, lại là một quốc gia có một nền kinh tế ổn định, dân số đông, có tiềm năng phát triển lớn. Khi Nhật Bản xác định Trung Quốc là “đối thủ tiềm tàng” thì vị trí địa chiến lược của Việt Nam có ý nghĩa như một khu vực đệm để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc coi Việt Nam là “bàn đạp” để tiến xuống phía Nam. Chính vì vậy, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều muốn tranh thủ lôi kéo Việt Nam với ý đồ của riêng mình. Việc thành lập được một khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc trong khuôn khổ của ASEAN giúp Việt Nam thu hút thêm một khoàn đầu tư nước ngoài rất lớn, vì bất kỳ một quốc gia nào hay một nhà đầu tư nào có ý định hợp tác đầu tư và làm ăn tại thị trường Việt Nam đều tính đến triển vọng sẽ được hưởng quy chế ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do khổng lồ này. Hơn nữa Việt Nam có thể tận dụng cơ hội dùng các khuôn khổ đối thoại đa phương của ASEAN có Trung Quốc tham gia như ASEAN+1, ASEAN+3 hay ARF để giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông với Trung Quốc. Trung Quốc có thể sẽ có những động thái thể hiện tinh thần “mềm mỏng hơn” hợp tác hơn” với Việt Nam cũng như với các nước khác trong khu vực để phần nào xóa đi hình ảnh “mối đe dọa Trung Quốc” tồn tại trong khu vực. Tương tự, trong cuộc đua với Trung Quốc, Nhật Bản cũng đang thúc đẩy việc hình thành một khu vực mậu dịch tư do Nhật Bản – ASEAN. Hơn nữa để cạnh tranh với hàng hóa rẻ của Trung Quốc các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ đầu tư nhiều vốn, cộng với công nghệ và kỹ thuật cao vào các nước ASEAN. Chính phủ Nhật Bản cũng sẽ “lấy lòng” các quốc gia ASEAN bằng tăng cường nguồn vốn ODA. Thập kỷ vừa qua tuy kinh tế tăng trưởng trì trệ nhưng viện trợ của Nhật Bản cho Việt Nam vẫn không bị giảm. Hai nước đã trở thành đối tác chiến lược của nhau. Việc hai nước ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (EPA) năm 2008 đã làm cho hàng hóa của 2 nước đi vào thị trường của nhau dễ dàng hơn. Đồng yên lên giá giúp tăng khả năng cạnh tranh cho hàng Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Đây là những điểm thuận lợi cho Việt Nam, đặc biệt với vị trí địa lí đặc biệt ở Đông Nam Á, chắc chắn Việt Nam sẽ giành được sự quan tâm hơn nữa của Nhật Bản. Tuy nhiên, Việt Nam cũng sẽ bị rơi vào thế bất lợi nếu làm mất lòng một trong hai nước trong cuộc chạy đua của hai quốc gia tại khu vực. Do vậy, trước sự cạnh tranh của Trung Quốc và Nhật Bản, Việt Nam cần phải có chính sách ngoại giao khôn khéo để vừa thể hiện bản lĩnh và chủ quyền của mình mà vẫn không làm mất lòng nước lớn. Bài học rút ra với Việt Nam là trước sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày nay và những bài học ngày xưa, chiến lược trước mắt và lâu dài là phải phát triển, phải thật sự mạnh lên về mọi mặt, trong đó nếu mạnh lên về kinh tế sẽ kéo theo những cái mạnh khác. Trong ý nghĩa đó, tận dụng sự cạnh tranh của hai cường quốc ở Á châu, Việt Nam có thể tranh thủ công nghệ, FDI, ODA, v.v.. của Nhật, một nước công nghiệp tiên tiến, để phát triển nhanh và mạnh hơn. Từ đó, mở rộng ra cho cả những mối quan hệ khác như trong trường hợp cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc: tận dụng tối đa thành quả khoa học, công nghệ, giáo dục, v.v. của Mỹ để phát triển nhanh và mạnh hơn. Tương tự, Việt Nam cần tận dụng cơ hội hiện nay để phát triển nhanh và mạnh hơn, tạo tiền đề xác lập, duy trì quan hệ bình đẳng tương đối hơn với Trung Quốc. II. Xu hướng cạnh tranh Trung-Nhật trong tương lai Tình hình Trung Quốc và Nhật Bản hiện nay Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 kinh tế Nhật Bản phát triển dưới mức tiềm năng với những đặc điểm nổi bật như tăng trưởng trí tuệ, thấp nghiệp cao, giảm phát kéo dài, nợ công tăng. Hậu quả của những vấn đề này đã làm cho vị trí của Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới giảm sút. Quí 2 năm 2010, GDP của Nhật Bản đã thấp hơn của Trung Quốc. “Triển vọng của nền kinh tế Nhật Bản”, Tạp chí Đông Bắc Á số 11 (11/2010), tr.10. Với tình hình kinh tế ấy, Nhật Bản lại phải hứng chịu một trận động đất và sóng thần lịch sử vào tháng tháng 3/2011 gây nên những khủng hoảng nặng nề về kinh tế và hạt nhân vừa qua. Chính phủ Nhật Bản ước tính, thảm họa động đất và sóng thần ngày 11/3 vừa qua đã gây thiệt hại cho nước này khoảng 25.000 tỷ yen tức gần 300 tỷ đô la Mỹ. Con số này chưa bao gồm những ảnh hưởng của sự cố hạt nhân tại Nhà máy Fukushima số 1, đặc biệt là đối với nông nghiệp. Thảm họa này có thể làm giảm tỷ lệ tăng trưởng GDP của Nhật Bản từ 0,2 đến 0,6% trong quý I/2011 và 1,4% trong quý tiếp theo. Thu Thủy (2011),“Nhật Bản:Nỗ lực phát triển kinh tế và tái thiết kinh tế sau thảm họa”, truy cập ngày 19/5/2011. Tuy nhiên theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), kinh tế Nhật Bản sẽ tăng trưởng trở lại trong quý 3 năm nay nhờ động lực từ hoạt động tái thiết đất nước. Việt Khoa (TTXVN/Vietnam), “Kinh tế Nhật Bản sẽ phục hồi trong quý 3 năm nay”, truy cập ngày 19/5/2011. Hiện chính phủ và người dân nước này đang dồn sức để khắc phục hậu quả của thảm họa. Những nỗ lực tái thiết đất nước có thể sẽ gặp nhiều trở ngại do những khó khăn về tài chính bởi Nhật Bản chỉ vừa mới gượng dậy sau cuộc suy thoái kinh tế. Trong khi quá trình tái thiết của Nhật Bản được Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá là có thể sẽ diễn ra trong 5 năm, Minh Long, “Nhật sẽ gượng dậy sau 5 năm”, truy cập ngày 19/5/2011. thì đất nước Trung Quốc lại đang trỗi dậy mạnh mẽ và trở thành một quốc gia không chỉ mạnh về chính trị mà còn vượt Nhật để trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Trung Quốc đang ngày càng khẳng định vai trò khổng lồ của mình không chỉ trong khu vực mà trên toàn thế giới. Trong nhiều tài liệu nghiên cứu, Trung Quốc được coi là “một hiện tượng”. Hiện nay, Trung Quốc đang gia sức nâng tầm ảnh hưởng của mình với khu vực, Trung Quốc luôn muốn thể hiện mình là một cường quốc “trỗi dậy hòa bình” và thân thiện. Hiện nay, có vẻ như lợi thế trong cuộc canh tranh này đang nghiêng về phía Trung Quốc. Tuy nhiên, với tinh thần và ý chí đã từng làm nên hiện tượng “thần kỳ Nhật Bản” trong những năm sau CTTG II, có cơ sở để tin rằng kinh tế Nhật Bản có khả năng phục hồi và phát triển mạnh trong thập kỷ tới vì cơ sở kinh tế và xã hội của đất nước vẫn còn mạnh. Khả năng tăng trưởng cao trong ngắn hạn là chưa thể được vì thế giới vừa bước ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhật Bản sẽ tiếp tục là một nền kinh tế mạnh và là đầu tàu công nghệ, vượt xa các nước Châu Á khác. Mức sống và tình trạng kinh tế của Nhật Bản sẽ tiếp tục được cải thiện. Xu hướng cạnh tranh Trung- Nhật trong tương lai Nhìn nhận triển vọng cạnh tranh Trung-Nhật qua lăng kính của thuyết tự do ta sẽ thấy cho dù còn rất nhiều mâu thuẫn và những vấn đề tồn tại, nhưng cùng nhau hợp tác và phát triển luôn luôn là sự lựa chọn của các quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Cạnh tranh luôn tồn tại song hành với hợp tác để cùng hợp tác phát triển. Thực vậy, điều này được thấy ngay cả khi quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Nhật Bản “giá lạnh” trong 7 năm (2000 – 2007), mối quan hệ giữa hai nước này vẫn đi đến hợp tác và hòa dịu sau chuyến công du tới xứ sở hoa anh đào từ ngày 11 – 13/4/2007 của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. đây được coi là chuyến thăm “tan băng” trong quan hệ hai nước lớn ở Châu Á, sau chuyến thăm “phá băng” của Thủ tướng Abe tới Bắc Kinh vào tháng 10/2006. Trong một bữa tiệc chiêu đãi người đồng nhiệm Ôn Gia Bảo, Thủ tướng Abe khẳng định “Chúng ta cần phải xây dựng mối quan hệ Nhật – Trung ổn định hướng tới tương lai, cần phát triển những lợi ích chung thông qua đối thoại trên nhiều lĩnh vực…” Trần Hoàng Long (2007), “Quan hệ Nhât-Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á (7), tr.19. Mới đây nhất sự kiện đụng tàu trên vùng biển Hoa Đông vào hồi tháng 9 năm 2010 cũng đã làm gián đoạn ngoại giao hai nước trong một thời gian. Tuy nhiên, tháng 12/2010, phía Trung Quốc cũng khởi động lại đối thoại ngoại giao cấp bộ trưởng với Nhật, điều đó cho thấy dấu hiệu khôi phục toàn diện trong quan hệ hai nước này. Sầm Hoa (Theo CRI online) (2011), “2011-Quan hệ Trung-Nhật khởi sắc?”, truy cập ngày 19/5/2011. Về phía Nhật Bản, nước này cũng muốn nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Phát biểu trước một cuộc họp với sự tham dự của các nhà ngoại giao tới từ nhiều nước khác nhau, Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan ngày 20/1 đã chỉ ra một trong năm trụ cột cơ bản trong đường lối đối ngoại của Nhật năm 2011 là “…thắt chặt mối quan hệ hợp tác với các nước Châu Á- Thái Bình Dương, cụ thể là với Trung Quốc…”Theo ĐCS Online(2011), “Năm trụ cột trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản”, truy cập ngày 19/5/2011. Như vậy, trước mong muốn hòa dịu căng thẳng của cả hai bên, xu hướng quan hệ Trung-Nhật trong năm 2011 sẽ dần được cải thiện. Nhìn nhận được tầm quan trọng của sự hợp tác này, phiên họp đầu tiên của nhóm các chuyên viên vốn được chính phủ Nhật Bản thành lập để thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc đã chỉ ra rằng “2011 là thời điểm tốt để tái xây dựng quan hệ song phương khi cả hai bên đã bình tĩnh nhìn nhận sự việc, đồng thời nhấn mạnh cần tiếp tục thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao với Trung Quốc vì đây là thị trường đang tăng trưởng nhanh”. Theo Việt Báo (2011), “Nhật muốn nối lại quan hệ với Trung Quốc”, truy cập ngày 19/5/2011. Nhìn chung, về xu hướng trong những năm tới, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều xem nhau là những đối tác quan trọng cần hợp tác và cũng là đối thủ lớn nhất của nhau ở khu vực. Sự hợp tác giữa hai nước được lý giả là do bối cảnh toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải cùng nhau giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh… Ngoài ra, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa hai nước hiện nay là rất lớn: cả hai bên là đối tác hàng đầu của nhau trên hầu như mọi lĩnh vực: chính trị, đầu tư, thương mại, viện trợ, văn hóa… Chính sự tùy thuộc lẫn nhau này đã góp phần ngăn những xung đột căng thẳng trong vụ đụng tàu trên biển Hoa Đông tháng 9/2010 vừa qua không leo thang và dẫn đến đổ vỡ quan hệ. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng, những nguy cơ hồi sinh chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa nước lớn, những tranh chấp biển đảo và kể cả những mâu thuẫn có từ quá khứ lịch sử như đã đề cập vẫn còn là những vấn đề nổi cộm mà hai bên luôn phải quan tâm giải quyết mới có thể duy trì được quan hệ ổn định để cùng nhau phát triển. Do vậy, quan hệ giữa hai bên trong những năm tới sẽ tiến triển theo xu hướng phức tạp là cả hai luôn đều cần đến nhau nhưng vẫn theo động thái vừa kiềm chế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác phát triển. Đối với khu vực ASEAN, mỗi biến động trong hợp tác và cạnh tranh của hai quốc gia này đều có ảnh hưởng nhất định đến khu vực. Nếu hai nước này “hữu hảo” với nhau thì không chỉ có lợi cho quan hệ hai nước mà còn giúp an ninh và ổn định khu vực, góp phần thúc đẩy hợp tác kinh tế mậu dịch và đầu tư. Đây còn là xu hướng tích cực không chỉ có lợi cho Trung Quốc và Nhật Bản mà còn đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển bền vững ở khu vực Đông Nam Á và thế giới. Hà Phương (2007), “Triển vọng mới trong quan hệ Trung-Nhật”, Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 3/3/2007. Trong tương lai, Đông Nam Á vẫn luôn là mục tiêu quan trọng trong cuộc chạy đua tranh giành tầm ảnh hưởng của Trung Quốc và Nhật Bản nhằm đạt được vai trò chủ đạo ở Đông Á nói riêng và Châu Á nói chung. KẾT LUẬN Trong những thập niên gần đây, trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, cạnh tranh Trung – Nhật được thể hiện rõ nét tại khu vực Đông Nam Á. Việc Nhật Bản gia tăng hợp tác với Mỹ, nhất là về an ninh quốc phòng không nằm ngoài mục tiêu cùng nhau kiêm chế Trung Quốc, mượn sức Mỹ để “đuổi kịp về chính trị”, duy trì “Trật tự châu Á” mà Mỹ đã sắp đặt từ thời chiến tranh lạnh là Mỹ là số 1 và Nhật Bản là số 2. Cũng giống như mọi cuộc tranh đua khác, cạnh tranh Trung- Nhật được biểu hiện trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị, anh ninh quốc phòng đến mô hình phát triển nói chung, trong đó hình thức “không tuyên bố”, “bán công khai” với việc thi đua mở rộng “ảnh hưởng mềm” là hết sức phổ biến. Hiện tại, nếu không tính yếu tố người Hoa, Hồng Công và Đài Loan thì ảnh hưởng mềm của Trung Quốc ở Đông Nam Á đến cuối thập niên đầu thể kỷ XXI về tổng thể đã vượt Nhật Bản, cho dù vốn đầu tư của Nhật Bản vào Đông Nam Á lớn hơn nhiều so với Trung Quốc. Trong những năm tới, cạnh tranh Trung- Nhật ở Đông Nam Á sẽ tiếp tục gia tăng, nhưng sẽ khó dẫn đến đối đầu nhau vì hai nước này đang cần đến nhau để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và thúc đầy hội nhập khu vực, trước mắt là cùng hợp tác chống lại khủng hoảng tài chính nổ ra từ tháng 9/2008. Trong các vấn đề chiến lược của khu vực và thế giới, sự gia tăng cạnh tranh Trung- Nhật sẽ tác động sâu sắc đến tương quan lực lượng của trục quan hệ Mỹ-Trung, đến vị thế của ASEAN và nhóm các nước thành viên. Cuộc cạnh tranh này một mặt làm tăng sự “mặc cả” của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn, măc khác có thể phân hóa, cản trở sự phát triển của ASEAN. Tuy nhiên, việc cạnh tranh để hoàn thiện, tồn tại, và phát triển luôn là chuyện bình thường, nằm trong dòng chảy của lịch sử. Đất nước, dân tộc, tổ chức nào nếu biết khai thác, vận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó thì luôn mang lại thành quả tốt đẹp cho hòa bình và phát triển. Cạnh tranh Trung-Nhật tại Đông Nam Á, do đó đã, đang và sẽ tiếp tục đặt ra cả thách thức lẫn cơ hội cho các nước khu vực. Trong đó, Việt Nam với quan hệ lâu đời. gần gũi và sâu sắc với cả Trung Quốc và Nhật Bản cần suy nghĩ làm thế nào để vừa phát triển vừa giữ cân bằng được hai mối quan hệ này, tránh lập lại sai lầm mà chúng ta đã mắc phải trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc trong thời kỳ phân liệt Xô-Trung mấy thập kỷ trước đây. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc440 khoa luan ngoai giao.doc