LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM DÂN SỰ 3
2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm dân sự 6
2.1. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng có đền bù 6
2.2. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng song vụ 7
2.3. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự có điều kiện 7
2.4. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là một hợp đồng chuyển dịch rủi ro 8
2.5. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng dịch vụ 9
3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm 9
3.1. Phân loại theo ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm 10
3.2. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm 15
CHƯƠNG II 20
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÙNG 20
1. Khái niệm chung về hợp đồng bảo hiểm trùng 20
1.1. Định nghĩa 20
1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trùng 21
2. Các trường hợp bảo hiểm trùng 24
2.1. Hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị 24
2.2. Hợp đồng bảo hiểm trùng dưới giá trị 26
2.3. Hợp đồng bảo hiểm trùng bằng giá trị 26
3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm trùng 27
3.1. Đối tượng được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng 27
3.2. Sự kiện bảo hiểm 30
3.3. Định mức tài chính trong hợp đồng bảo hiểm trùng 32
3.4. Điều kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng 33
3.5. Mức phí và số tiền bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng 34
3.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm trùng 36
CHƯƠNG III 47
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÙNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 47
3. Thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng 47
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng 52
2.1. Kiến nghị chung 52
2.2. Kiến nghị cụ thể 53
KẾT LUẬN 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hợp đồng bảo hiểm trùng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực tế...trong khi đó thiệt hại và giá trị của thiệt hại thực tế vẫn còn là một ẩn số đối với các bên khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Do đó định mức tài chính trong trong các hợp đồng bảo hiểm trùng chỉ là việc xác định khung tài chính mà trong phạm vi của khung đó, bên bảo hiểm phải bồi thường theo thiệt hại thực tế đã xảy ra. Hay nói cách khác định mức tài chính trong các hợp đồng bảo hiểm trùng là việc xác định trước mức trách nhiệm bảo hiểm.
Mức trách nhiệm bảo hiểm trong từng hợp đồng của bảo hiểm trùng nó chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị của tài sản là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm theo giá thị trường tại thời điểm giao kết. Tức là nó có thể thấp hơn hoặc bằng với giá trị của tài sản bảo hiểm, nó không được cao hơn giá trị của tài sản là đối tượng được bảo hiểm tính theo giá thị trường tại thời điểm hợp đồng được giao kết. Nhưng tổng mức trách nhiệm bảo hiểm của tất cả các hợp đồng bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng lại có thể cao hơn giá thị trường của tài sản tại thời điểm hợp đồng được giao kết. Tuy nhiên theo nguyên tắc cấm thu nhập không chính đáng từ bảo hiểm thì phần mức trách nhiệm bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản bảo hiểm tại thời điểm hợp đồng bảo hiểm được giao kết sẽ không có giá trị, còn phần trách nhiệm bảo hiểm trong phạm vi giá trị của tài sản nói trên vẫn phát sinh hiệu lực bình thường.
3.4. Điều kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng
Điều kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng là các điều kiện được xác định trong các hợp đồng bảo hiểm hoặc đã được xác định trước, theo đó người mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm của mình chỉ được bảo hiểm khi đã đáp ứng được các điều kiện đó. Điều kiện bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm là đều như nhau. Các điều kiện bảo hiểm đó phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Người tham gia bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm theo đối tượng bảo hiểm.
Theo nguyên tắc "lợi ích bảo hiểm" Xem một số điều cần biết về kinh doanh bảo hiểm - GSTS Trương Mộc Lâm , Lưu Nguyên Khánh
nxb thống kê năm 2000
trong hợp đồng bảo hiểm thì thì nguời tham gia bảo hiểm phải có một mối liên hệ nhất định đối với đối tượng được bảo hiểm và đã được pháp luật công nhận. Xét về mối quan hệ giữa người tham gia bảo hiểm với tài sản, quyền lợi có thể được bảo hiểm theo đối tượng được bảo hiểm có thể là quyền lợi về sở hữu, tức là quyền lợi phát sinh từ mối quan hệ có lợi ích thuộc quyền sở hữu; Có thể là quyền lợi sử dụng, tức là quyền lợi phát sinh từ mối quan hệ có lợi ích chiếm hữu sử dụng quản lý tài sản; Cũng có thể là quyền lợi phát sinh từ mối quan hệ có lợi ích trong trường hợp phải chịu trách nhiệm bồi thường khi xảy ra tai nạn rủi ro. Ví dụ như người bảo quản phải chịu trách nhiệm về thiệt hại tài sản nên mới có lợi ích bảo hiểm đối với những tài sản do họ bảo quản.
- Đối tượng được bảo hiểm phải trong tình trạng bình thường.
Thuật ngữ "tình trạng bình thường" rất khó xác định. Thế nhưng qua thuật ngữ này ta có thể hiểu được rằng chỉ có thể bảo hiểm được những gì mà thiệt hại đối với nó không phải là một điều chắc chắn sẽ xảy ra. Ví dụ các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không thể bảo hiểm cho một chiếc xe ô tô nếu biết chắc nó sẽ bị hư hỏng trong thời gian bảo hiểm, hay nó không còn đủ điều kiện hoạt động bình thường nữa.
Điều kiện bảo hiểm của các hợp đồng trong hợp đồng bảo hiểm trùng là như nhau. Như vậy khi một rủi ro xảy ra được xem là một sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm này thì nó cũng được xem là sự kiện bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm khác.
3.5. Mức phí và số tiền bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng
Mức phí bảo hiểm là khung giá xác định cho một sản phẩm bảo hiểm nhất định được xác đinh theo tỷ lệ phần trăm (%) so với giá trị của tài sản được bảo hiểm trên cơ sở dựa vào các yếu tố được gọi là mức độ rủi ro hoặc theo mức trách nhiệm mà pháp luật quy định. Ví dụ như mức phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới được xác định dựa vào loại xe, môi trường hoạt động của xe, chất lượng của xe, tính năng sử dụng của xe. Mức phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe cơ giới là các hạn mức tối thiểu mà pháp luật quy định đối với từng loại xe.
Phí bảo hiểm là khoản chi phí của người tham gia bảo hiểm đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm để trả cho việc doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm đảm bảo bằng hình thức bảo hiểm theo sự thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Do đó phí bảo hiểm là khoản tiền của người tham gia bảo hiểm chi ra để đổi lấy trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Trong các hợp đồng bảo hiểm trùng thì mức phí bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố như: Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Và các yếu tố này cũng là căn cứ để xác định số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm là nguồn tài chính được người tham gia bảo hiểm đóng góp vào quỹ chung để chia sẻ rủi ro và là sự phản ánh về tần suất của hiểm hoạ mà người tham gia bảo hiểm mang đến cho quỹ chung đó.
Từ trên ta thấy phí bảo hiểm là số tiền cụ thể được tính theo công thức mức phí bảo hiểm nhân với giá trị được bảo hiểm.
Như đã trình bày ở chương II mức phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng có thể bằng nhau hoặc có thể khác nhau giữa các hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm trùng. Nó phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng tham gia bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm là phạm vi định mức tài chính mà theo đó bên nhận bảo hiểm phải chi trả tiền bồi thường thiệt hại. Số tiền này là do bên mua bảo hiểm đăng ký để bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm trên cơ sở phải nộp một mức phí tương ứng cho bên bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là sự phản ánh về mức độ của tổn thất, là giới hạn trong một phạm vi cụ thể của số tiền bồi thường. Dù thiệt hại thực tế có xảy ra bao nhiêu đi nữa thì mức bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm tối đa cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm đã được các bên thoả thuận trong hợp đồng.
Trong hợp đồng bảo hiểm trùng số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên giá trị của tài sản được bảo hiểm, hoặc dựa vào mức trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba. Trong từng hợp đồng bảo hiểm với từng doanh nghiệp bảo hiểm số tiền bảo hiểm luôn luôn bằng hoặc thấp hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm hợp đồng được giao kết. Thế nhưng tổng số tiền bảo hiểm mà bên tham gia bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm có thể bằng hoặc cao hơn giá trị của tài sản. Trong trường hợp tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các doanh nghệp bảo hiểm lớn hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm hợp đồng được bảo hiểm thì phần số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị của tài sản đó không có hiệu lực. Tức là các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chỉ phải bồi thường số tiền bảo hiểm tối đa bằng giá trị tài sản được bảo hiểm.
3.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm trùng
Hợp đồng bảo hiểm trùng là hợp đồng có tính chất song vụ, tức là quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trùng do các bên thoả thuận xây dựng nên khi giao kết hợp đồng bảo hiểm dựa trên quy định của Bộ luật dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm và văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó còn dựa vào các quy tắc bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm ban hành. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng hợp đồng bảo hiểm được thể hiện như sau:
a. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểmXem Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000
.
- Thứ nhất: quyền của doanh nghiệp bảo hiểm.
+ Thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là nguồn hình thành quỹ bảo hiểm của cộng đồng người tham gia bảo hiểm. Việc khắc phục tổn thất tài chính, chi trả bảo hiểm cho người được bảo hiểm được thực hiện thông qua nguồn quỹ trên. Doanh nghiệp bảo hiểm trong trường hợp này đóng vai trò như là người trung gian để tập hợp quản lý và làm cho quỹ tài chính trên sinh lợi để đảm bảo cho việc chi trả bảo hiểm và cũng đảm bảo thu nhập cho doanh nghiệp mình. Khi giao kết một hợp đồng bảo hiểm bên tham gia bảo hiểm hướng tới lợi ích đó là được doanh nghiệp bảo hiểm khắc phục tổn thất tài chính cho mình, còn doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới khoản phí bảo hiểm mà người mua bảo hiểm sẽ nộp cho mình. Việc thu phí bảo hiểm bao nhiêu, thu một lần hay thu theo định kỳ, thu bằng phương thức nộp trực tiếp hay thu bằng phương thức chuyển khoản...là do bên doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm trùng thường thu phí bảo hiểm một lần và bằng phương thức nộp trực tiếp.
+ Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm thuộc hợp đồng may rủi. Điều đó có nghĩa là khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm không thể biết chắc rủi ro có xảy ra hay không và cũng không biết được thiệt hại có xảy ra với đối tượng được bảo hiểm hay không. Trong trường hợp rủi ro không xảy ra thì người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí nhưng lại không được nhận một khoản tiền bồi thường nào từ doanh gnhiệp bảo hiểm. Trái lại nếu rủi ro xảy ra cho đối tượng bảo hiểm và gây tổn thất thì doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại cho người được bảo hiểm. doanh nghiệp bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho một tổn thất không chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai chứ không bảo hiểm cho một rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai. Vì vậy doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên tham gia bảo hiểm cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Các thông tin đó có thể là các thông tin về tình trạng, đặc điểm của đối tượng được bảo hiểm, thông tin về đối tượng được bảo hiểm trong quá trình hợp đồng bảo hiểm được thực hiện, thông tin về sự kiện bảo hiểm khi nó xảy ra...
+ Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường hay không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách đầy đủ và trung thực liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm cho bên doanh nghiệp bảo hiểm. Khi có sự thay đổi các yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm theo hướng tăng lên thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm. Nếu bên tham gia bảo hiểm không đồng ý tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên tham gia bảo hiểm không thực hiện các biện pháp an toàn cho đối tượng được bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
+ Từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Khi rủi ro dẫn đến tổn thất trong phạm vi bảo hiểm thuộc sự kiện bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ bồi thường cho người được bảo hiểm. Trong trường hợp rủi ro xảy ra nhưng không thuộc phạm vi, không thuộc sự kiện bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều kiện loại trừ trách nhiệm bảo hiểm có thể do các bên thoả thuận trong hợp đồng hoặc có thể các bên không thoả thuận trong hợp đồng nhưng lại được pháp luật quy định, khi rủi ro xảy ra nhưng lại thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng có quyền từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm.
+ Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất.
Người tham gia bảo hiểm phải thực hiện các quy đinh về an toàn cho đối tượng được bảo hiểm. Ví dụ thực hiện các quy định về phòng cháy chữa cháy...và doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện bảo đảm an toàn cho đối tượng được bảo hiểm, khuyến nghị, yêu cầu bên tham gia bảo hiểm áp dụng các biện pháp để đề phòng, hạn chế tổn thất. Nếu bên tham gia bảo hiểm không thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
+ Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự.
Trong trường hợp người thứ ba gây thiệt hại đối với tài sản và trách nhiệm dân sự cho người tham gia bảo hiểm thì theo yêu cầu của người tham gia bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm. Sau khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu người tham gia bảo hiểm chuyển cho mình giấy tờ tài liệu chứng minh việc gây thiệt hại là do lỗi của người thứ ba để thực hiện yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà mình đã bồi thường cho người được bảo hiểm.
Ngoài các quyền trên doanh nghiệp bảo hiểm còn có các quyền khác do pháp luật quy định.
- Thứ hai: nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm.
+ Giải thích cho bên mua bảo hiểm các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm.
Như chúng ta đã rõ hợp đồng bảo hiểm thường có nội dung rất phức tạp, có nhiều thuật ngữ mang tính kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ. Chính vì vậy người tham gia bảo hiểm không phải bao giờ cũng hiểu rõ các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm. Để đảm bảo quyền lợi cho người được bảo hiểm và tránh tình trạng xảy ra tranh chấp, doanh nghiệp bảo hiểm phải có nghĩa vụ giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm để họ hiểu rõ khi giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
+ Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Hình thức của hợp đồng bảo hiểm là phương tiện thể hiện và ghi nhận sự thoả thuận cam kết giữa các bên. Theo quy định của pháp luật Xem Điều 570 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000
"hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản" và "giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng . Do vậy do doanh nghiệp bảo hiểm phải cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi cho bên mua bảo hiểm.
+ Bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Mục đích cuối cùng của bên mua bảo hiểm là được doanh nghiệp bảo hiểm khắc phục tổn thất tài chính để đảm bảo cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống thường nhật của mình được ổn định. Do vậy khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và khi được bên tham gia bảo hiểm thông báo thì bên doanh nghiệp bảo hiểm phải kịp thời tiến hành các biện pháp cần thiết để xác định nguyên nhân, mức độ thiệt hại thực tế, trên cơ sở đó xác định số tiền bồi thường cụ thể, bồi thường cho bên được bảo hiểm trong thời hạn do hai bên thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Ngoài số tiền bồi thường doanh nghiệp bảo hiểm còn phải thanh toán các khoản chi phí cần thiết và hợp lý mà người thứ ba đã bỏ ra để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại, đồng thời trả lãi suất quá hạn đối với khoản tiền chậm trả.
Trong hợp đồng bảo hiểm trùng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì các doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ đóng góp bồi thường cho người được bảo hiểm. Nếu một doanh nghiệp đã trả toàn bộ tiền bồi thường thì doanh nghiệp đó có quyền yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm khác đóng góp theo nguyên tắc "chia theo tỷ lệ". Nếu chưa có doanh nghiệp nào đứng ra bồi thường thì người được bảo hiểm có thể đòi từng doanh nghiệp bồi thường theo nguyên tắc trên.
+ Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bồi thường.
Khi từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích bằng văn bản cho người được bảo hiểm để bên được bảo hiểm có căn cứ bảo vệ quyền lợi của mình thông qua việc khiếu nại, khiếu kiện.
+ Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự thì khi sự kiện bảo hiểm xảy ra người tham gia bảo hiểm có thể bồi thường cho người thứ ba rồi sau đó yêu cầu bên bảo hiểm bồi hoàn cho mình, cũng có thể người tham gia bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người thứ ba. Trong trường hợp này bên doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ phối hợp với bên tham gia bảo hiểm để giải quyết bồi thường cho người thứ ba.
Ngoài các nghĩa vụ trên doanh nghiệp bảo hiểm coàn có các nghĩa vụ khác do pháp luật quy định.
b. Quyền và nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm. Xem Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
- Thứ nhất: Quyền của bên tham gia bảo hiểm.
+ Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để mua bảo hiểm.
Đây là quyền tự do ý chí của bên mua bảo hiểm ở giai đoạn trước khi giao kết hợp đồng, theo đó người mua bảo hiểm dù là bảo hiểm tự nguyện hay bắt buộc đều có quyền mua bảo hiểm ở bất kỳ một doanh nghiệp bảo hiểm nào mà không cần phân biệt doanh nghiệp bảo hiểm đó là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nước ngoài miễn là nó đang hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Chính quyền này đã đảm bảo cho người tham gia bảo hiểm được lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có mức phí bảo hiểm thấp nhất đối với cùng một loại sản phẩm bảo hiểm, lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có uy tín, nhanh gọn về thủ tục trả tiền bảo hiểm cho mình khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Xét ở một khía cạnh khác thì quyền này còn là động lực thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau trong hoạt động trên thị trường bảo hiểm.
+. Quyền chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
Trong trường hợp theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, hợp đồng bảo hiểm được phép chuyển nhượng thì bên mua bảo hiểm có quyền chuyển nhượng cho người khác. Trong thực tế việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có thể được thực hiện trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản dài hạn và mức phí bảo hiểm được trả theo định kỳ mà người tham gia bảo hiểm đã bán tài sản đó trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực ( trường hợp này chính là việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm kèm theo hợp đồng mua bán tài sản). Khi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm bên tham gia bảo hiểm phải thông báo cho bên bảo hiểm biết về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và chỉ được coi là hợp đồng bảo hiểm đã được chuyển nhượng khi bên bảo hiểm đã có văn bản chấp nhận hoặc xác nhận việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
+ Quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm.
"Trong trường hợp gây ra tổn thất, người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản bảo hiểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định hoặc các bên có quy định khác". Xem Điều 51 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000
Qua quy định trên ta thấy về nguyên tắc chung thì người tham gia bảo hiểm không được từ bỏ đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên đối với một số hợp đồng bảo hiểm tài sản pháp luật có quy định riêng về quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm được thực hiện quyền này trong trường hợp đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là tài sản có nguy cơ không tránh khỏi tổn thất toàn bộ hoặc chi phí sửa chữa, khắc phục sẽ cao hơn so với giá trị của tài sản bảo hiểm. Trong các văn bản về pháp luật bảo hiểm đã có quy định về một số trường hợp mà trong đó người tham gia bảo hiểm có quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm. Ví dụ theo quy định tại Điều 12 Quyết định 128/1999/QĐ-BTC ngày 25 tháng 10 năm 1999 của Bộ Trưởng Bộ Tài chính quy định như sau "...khi tàu thuyền đã bị hư hỏng mà xét thấy không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ hoặc toàn bộ chi phí sửa chữa, phục hồi, chi phí trục vớt, cứu hộ và các chi phí khác vượt quá giá trị bảo hiểm thì được phép từ bỏ tàu thuyền. Trong trường hợp này nếu người tham gia bảo hiểm từ bỏ tàu thuyền phải làm giấy từ bỏ tàu thuyền cho doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu việc từ bỏ không được chấp nhận doanh nghiệp bảo hiểm giải quyết bồi thường phần tổn thất bộ phận được bảo hiểm".
Tuy nhiên ngay cả khi pháp luật đã quy định thì việc tuyên bỏ đối tượng bảo hiểm phải được bên bảo hiểm đồng ý và theo đó, bên bảo hiểm mới thực hiện việc bồi thường toàn bộ tổn thất ước tính. Trong trường hợp bên bảo hiểm chấp nhận việc tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và đã bồi thường thiệt hại cho bên được bảo hiểm nhưng sau đó tài sản là đối tượng bảo hiểm thoát khỏi hiểm hoạ thì bên bảo hiểm có quyền sở hữu tài sản đó.
Ngoài ra bên mua bảo hiểm còn có các quyền : Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện điều khoản bảo hiểm; Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm; Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường thiệt hại khi có rủi ro thuộc sự kiện bảo hiểm gây tổn thất cho mình; Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
-. Thứ hai: Về nghĩa vụ của bên bảo hiểm.
+ Đóng phí bảo hiểm theo đúng thoả thuận.
Nộp phí bảo hiểm là điều kiện để bên được bảo hiểm hưởng bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm vì hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng. Vì vậy nếu trong hợp đồng bảo hiểm đã xác định phí bảo hiểm được đóng một lần thì bên mua bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trước khi bên bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm các lần sau theo đúng định kỳ đã được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí bảo hiểm so với định kỳ đã được xác định nhưng đã được bên bảo hiểm gia hạn thêm và bên mua bảo hiểm đã tiếp tục đóng phí bảo hiểm trong thời hạn đó thì vẫn được coi là đã thực hiện đúng nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm .
+ Cung cấp cho bên bảo hiểm các thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm.
Việc nắm bắt các thông tin chính xác về đối tượng bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Theo quy định tại Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm hay không thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Như vậy trong các thông tin về đối tượng được bảo hiểm có những thông tin phải thực hiện trước khi hợp đồng được giao kết, ngoài ra bên mua bảo hiểm còn phải cung cấp các thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm trong suốt thời hạn được bảo hiểm. Cụ thể hơn là khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải kê khai đầy đủ và trung thực mọi chi tiết liên quan đến hợp đồng bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã yêu cầu. Các yêu cầu mà doanh nghiệp bảo hiểm thường yêu cầu bên tham gia bảo hiểm kê khai thường là các chi tiết về đặc điểm tính chất của đối tượng bảo hiểm. Trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực bên mua bảo hiểm phải thông báo kịp thời cho bên bảo hiểm biết những tình hình thực tế xảy ra có nguy cơ làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm.
+ Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Nghĩa vụ này đòi hỏi bên mua bảo hiểm phải thông báo kịp thời cho bên bảo hiểm biết về việc sự kiện bảo hiểm xảy ra, trong đó bên tham gia bảo hiểm phải khai báo trung thực về tình hình diễn biến của rủi ro dẫn đến thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về thiệt hại làm cơ sở cho việc xét bồi thường. Ví dụ trong quy tắc bảo hiểm trộm cướp đã quy định " khi phát sinh bất kỳ sự cố nào có thể dẫn đến việc khiếu nại theo hợp đồng này, bên mua bảo hiểm có trách nhiệm thông báo cho công an và dành cho họ mọi sự hợp lý để họ tìm ra, trừng phạt kẻ có tội và tìm ra tài sản bị trộm cắp, thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm bằng văn bản trong vòng 7 ngày, sau đó gửi cho doanh nghiệp bảo hiểm hồ sơ khiếu nại bồi thường cùng với tất cả các bằng chứng cụ thể và chi tiết".
+ Áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất.
Nhằm nâng cao trách nhiệm của bên mua bảo hiểm khi đã tham gia bảo hiểm, pháp luật về bảo hiểm đã quy định bên mua bảo hiểm phải thực hiện tất cả các biện pháp phòng ngừa thiệt hại mà hợp đồng bảo hiểm đã xác định cũng như các biện pháp đã được pháp luật quy đinh về phòng cháy chữa cháy, an toàn sản xuất, an toàn giao thông...nhằm duy trì sự an toàn cho đối tượng bảo hiểm. Trong thời hạn bảo hiểm, bên bảo hiểm có thể kiểm tra các biện pháp để loại trừ rủi ro và các vấn đề đang đe doạ sự an toàn của đối tượng bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải thực hiện các biện pháp đó trong thời gian mà bên bảo hiểm đã khuyến nghị, nếu không thể thực hiện được thì phải báo cho bên bảo hiểm biết để các bên xác định lại phí bảo hiểm hoặc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Nghĩa vụ này cũng được quy định trong Điều 574 Bộ luật dân sự năm 2005 "bên bảo hiểm có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện ghi trong hợp đồng, các quy định của pháp luật có liên quan và thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại. Trong trường hợp bên bảo hiểm có lỗi không thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại đã ghi trong hợp đồng thì bên bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để bên bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó nếu hết thời hạn mà các biện pháp phòng ngừa vẫn không được thực hiện thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại xảy ra do các biện pháp phòng ngừa đã không được thực hiện".
Ngoài việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa bên mua bảo hiểm còn có nghĩa vụ kịp thời áp dụng các biện pháp cần thiết trong khả năng của mình để hạn chế thiệt hại khi xảy ra sự kiện bảo hiểm như cứu chữa, bảo vệ đối tượng bảo hiểm, ngăn chặn diễn biến thiệt hại..."Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên mua bảo hiểm hoặc bên được bảo hiểm phải thông báo ngay cho bên bảo hiểm và phải thực hiện ngay mọi biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại" Xem Điều 575 Bộ luật dân sự 2005
.
+ Chuyển yêu cầu bồi hoàn.
Thông thường trong những trường hợp một người có quyền đòi người khác bồi thường thiệt hại do người đó gây ra thì họ sẽ chọn việc yêu cầu bên bảo hiểm phải bồi thường vì việc bồi thường đó sẽ được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và trọn vẹn hơn. Trong trường hợp này bên bảo hiểm phải bồi thường các thiệt hại cho người được bảo hiểm và sau đó bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người gây ra thiệt hại phải hoàn lại cho mình khoản tiền đó trong phạm vi trách nhiệm bồi thường của họ. Tuy nhiên việc bồi thường thiệt hại vẫn là trách nhiệm pháp lý của người đã có lỗi gây ra thiệt hại nhưng là trách nhiệm của họ đối với bên bị thiệt hại nên bên bảo hiểm chỉ có thể thực hiện được yêu cầu này khi người được bảo hiểm đã chuyển giao quyền yêu cầu bồi hoàn. Trong trường hợp này bên được bảo hiểm phải có trách nhiệm cung cấp cho bên bảo hiểm mọi tin tức, tài liệu bằng chứng cần thiết để bên bảo hiểm làm căn cứ trong việc thực hiện quyền yêu cầu đối với người thứ ba.
Ngoài các nghĩa vụ trên bên tham gia bảo hiểm còn có nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÙNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
3. Thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng
Luật Kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua ngày 09 tháng 12 năm 2000 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 04 năm 2001 là một trong những cơ sở pháp lý đảm bảo cho quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi tham gia quan hệ bảo hiểm. Ở một phương diện rộng hơn nó đã tạo ra một môi trường pháp lý khá thông thoáng và ưu đãi cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã thể hiện được vai trò là một công cụ đảm bảo an toàn tài chính hữu hiệu cho các cá nhân, gia đình và các doanh nghiệp. Ngoài ra bảo hiểm còn là một kênh huy động vốn nhàn rỗi trong dân một cách có hiệu quả, nhất là khi tổng công ty bảo hiểm Việt Nam phát triển thành tập đoàn tài chính - bảo hiểm theo Quyết định số 310/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy là rõ ràng Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 đã đạt được những mục tiêu nhất định mà nhà nước đặt ra khi ban hành nó. Thế nhưng qua 7 năm đi vào thực tế, trước yêu cầu mới của đời sống xã hội nhất là khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), một sân chơi toàn cầu trong đó có lĩnh vực bảo hiểm, Luật Kinh doanh bảo hiểm đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong phạm vi khoá luận này người viết chỉ nghiên cứu thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng và đưa một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Như đã trình bày ở trên hợp đồng bảo hiểm được quy định trong Bộ luật dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm và văn bản hướng dẫn thi hành. Thế nhưng vấn đề bảo hiểm trùng trong pháp luật thực định hiện nay mới chỉ được chính thức quy định tại Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và được gián tiếp thừa nhận tại khoản 3 Điều 9 Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25 tháng 2 năm 2003 của Bộ tài Chính về việc ban hành quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Trong Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định: "1. hợp đồng bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. 2. trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã được thoả thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản".
Điều 9 Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC có quy định "...trong trường hợp chủ xe cơ giới tham gia từ hai hợp đồng bảo hiểm trở lên cho cùng một xe cơ giới thì số tiền bồi thường chỉ được tính trên một hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cấp hợp đồng bảo hiểm đầu tiên có trách nhiệm giải quyết bồi thường và thu hồi số tiền bồi thường chia đều cho các doanh nghiệp bảo hiểm."
Như vậy qua hai quy định trên ta thấy hợp đồng bảo hiểm trùng đã được quy định trong văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Hay nói cách khác quan hệ xã hội phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm trùng đã được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên mức độ điều chỉnh (hay là sự tác động) của pháp luật vào quan hệ xã hội phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm trùng mới chỉ ở mức sơ khai đơn giản, chưa tiên liệu hết mọi khả năng có thể xảy ra từ quan hệ này.
Trong Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm mới chỉ nêu được định nghĩa về hợp đồng bảo hiểm trùng (ở khoản 2); còn trong Điều 9 Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 25 tháng 2 năm 2003 về việc ban hành quy tắc biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì mới chỉ đưa ra nguyên tắc bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm trùng có đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên quy định này chưa rõ ràng và không thống nhất với quy định tại Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.
Ngoài hai quy định trên của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng thì trong các quy tắc bảo hiểm của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm cũng có quy định về hợp đồng bảo hiểm trùng nhưng sự quy định đó không thống nhất trong các quy tắc bảo hiểm của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm, mặc dù các quy tắc này khi được ban hành đều được đồng ý của Bộ Tài chính. Trong quy tắc bảo hiểm của một số doanh nghiệp bảo hiểm còn quy định doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường khi đã có một doanh nghiệp khác bồi thường.
Do sự quy định sơ sài thiếu đồng bộ nên trong thực tế đã có nhiều trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dụng hợp đồng bảo hiểm trùng để trục lợi và bên doanh nghiệp bảo hiểm nhiều khi biết là mình đang giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng mà vẫn tiến hành vì lợi nhuận, vì có thể lợi dụng sự "mập mờ" trong quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng để trục lợi, cũng do nguyên nhân trên mà trong thực tế đã xảy ra tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trùng.
Nhìn một cách tổng thể ta thấy thực trạng về hợp đồng bảo hiểm trùng hiện nay nổi lên mấy vấn đề cần giải quyết như sau:
- Thứ nhất: hợp đồng bảo hiểm trùng có đặt ra với bảo hiểm trách nhiệm dân sự hay không? Bởi theo Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 thì hợp đồng bảo hiểm trùng mới chỉ được quy định trong Điều 44 thuộc mục 3 "hợp đồng bảo hiểm tài sản", tức là theo Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 thì hợp đồng bảo hiểm trùng chỉ được áp dụng với hợp đồng bảo hiểm tài sản. Còn theo Điều 9 Quyết định 23/2003/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 25 tháng 2 năm 2003 thì hợp đồng bảo hiểm trùng cũng được áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, nhưng quy định trên chưa thực sự rõ ràng, minh bạch và cũng mới chỉ ở mức độ sơ sài, đơn giản.
- Thứ hai: trong hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị thì Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 mới chỉ quy định nguyên tắc bồi thường (khoản 2 Điều 44) mà chưa quy định về xử lý phần phí bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm. Cụ thể trong trường hợp này luật chưa quy định là mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trong số các doanh nghiệp bảo hiểm đã ký hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị phải hoàn trả cho người tham gia bảo hiểm trùng một khoản tiền bảo hiểm theo tỷ lệ giữa mức phí bảo hiểm đã thu của doanh nghiệp mình trong phần phí bảo hiểm vượt quá, hay chỉ doanh nghiệp nhận bảo hiểm sau khi các doanh nghiệp bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm với mức phí bảo hiểm bằng với giá thị trường của tài sản tại thời điểm hợp đồng được giao kết phải hoàn trả toàn bộ số tiền phí bảo hiểm vượt quá cho người tham gia bảo hiểm. Sự thiếu quy định của pháp luật trong trường hợp này sẽ gây ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp bảo hiểm và theo đó dễ dẫn đến tranh chấp giữa các doanh nghiệp nhận bảo hiểm trùng. Bởi lẽ khi giao kết hợp đồng bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới khoản phí bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm sẽ nộp cho họ. Trong trường hợp bảo hiểm trùng trên giá trị các doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng sau khi các doanh nghiệp bảo hiểm khác đã tham gia bảo hiểm bằng với giá trị của tài sản khi hợp đồng được giao kết lúc này rất muốn hoàn lại toàn bộ phí bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm để rũ bỏ trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì thế cần có một quy định cụ thể của pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
- Thứ ba: trong hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị áp dụng tương tự theo quy định tại khoản 2 Điều 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm: "trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan..." Như vậy thì khi xác định được lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo hiểm trùng trên giá trị phải hoàn lại số phí bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, còn khi không xác định được lỗi của bên tham gia bảo hiểm, do lỗi cố ý của bên tham gia bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có được giữ lại phần phí bảo hiểm vượt quá đó hay không, điều đó vẫn chưa được luật giải quyết. Việc xác định lỗi trong trường hợp này là rất khó khăn bởi ưu thế luôn thuộc về phía doanh nghiệp bảo hiểm. Do vậy pháp luật cần quy định rõ vấn đề này để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia quan hệ bảo hiểm nhất là phía người mua bảo hiểm.
- Thứ tư: một khi pháp luật đã thừa nhận vấn đề bảo hiểm trùng thì cũng cần quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trùng để các bên có quy tắc xử sự chung ,tránh tranh chấp xảy ra.
- Thứ năm: tại khoản 1 Điều 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 có quy định "...doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị". Vậy pháp luật cũng nên quy định vấn đề này trong hợp đồng bảo hiểm trùng. Theo nguyên tắc cấm thu nhập không chính đáng trong hợp đồng bảo hiểm thì trách nhiệm bảo hiểm của bên bảo hiểm bao giờ cũng chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị của của tài sản được bảo hiểm do vậy pháp luật cần quy định cấm việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị để tránh những phiền toái khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Sở dĩ có thực trạng trên là vì ngành bảo hiểm Việt Nam ra đời khá muộn (thành lập năm 1964 với Quyết định 179/CP của Hội đồng Chính phủ). Văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này còn ít từ 1965 đến nay văn bản pháp luật bảo hiểm đáng quan tâm nhất là Nghị định 100 - CP ngày `18 tháng 12 năm 1993 về điều kiện, thủ tục thành lập, hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động bảo hiểm; Nghị định 115- CP ngày 17 tháng 12 năm 2007 về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; mãi đến năm 2000 Luật Kinh doanh bảo hiểm mới được Quốc hội thông qua do đó kinh nghiệm lập pháp trong lĩnh vực bảo hiểm còn hạn chế nên nhà làm luật chưa có được một tầm nhìn bao quát về hoạt động bảo hiểm trong đó có hợp đồng bảo hiểm trùng. Mặt khác nhận thức hiểu biết về bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm trùng nói riêng của nhân dân ta còn hạn chế, nên khi giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng bên mua bảo hiểm vẫn còn chưa nhận thức được hết quyền và nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó trong những năm gần đây Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, có nhiều chủ thể nước ngoài tham gia vào quan hệ bảo hiểm, kéo theo đó tình trạng lợi dụng bảo hiểm trùng để trục lợi dưới những hình thức tinh vi đã xảy ra. Để đáp ứng với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (trong đó có bảo hiểm) và để xây dựng một thị trường bảo hiểm lành mạnh ở Việt Nam cần sớm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm trong đó có phần quy định về hợp đồng bảo hiểm trùng
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng
Như đã giới hạn ở phần mở đầu khoá luận này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng về hợp đồng bảo hiểm trùng, qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và nêu ra một số hướng hoàn thiện về vấn đề này. Với khả năng và những kiến thức nhất định của mình người viết khoá luận xin đề xuất một số kiến nghị sau để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng.
2.1. Kiến nghị chung
Tuy Luật Kinh doanh bảo hiểm đã có hiệu lực pháp luật và đi vào thực tế đã 7 năm nhưng Chính phủ đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện các quy định trong chương II "Hợp đồng bảo hiểm", trong đó có quy định hợp đồng bảo hiểm trùng. Các nhà làm luật khi xây dựng Luật Kinh doanh bảo hiểm do yêu cầu phạm vi định khung pháp luật không được quá rộng nên chỉ quy đinh những vấn đề mang tính định khung, còn quy định cụ thể chi tiết được dành cho văn bản dưới luật. Thực tiễn cho thấy việc xây dựng văn bản luật chỉ nên mang tính định khung còn việc quy định chi tiết nên để dành cho văn bản dưới luật bởi lẽ: Nếu quy định quá chi tiết trong văn bản luật thì sẽ làm cho văn bản luật quá dài dòng, bên cạnh đó các quan hệ xã hội thì ngày một biến đổi các quy định của văn bản luật sau một thời gian sẽ không còn phù hợp. Việc thay đổi bổ sung một văn bản luật cần mất nhiều thời gian và tốn kém tiền của, công sức, do vậy để cho văn bản dưới luật quy định chi tiết là hợp lý, khi cần thay đổi bổ sung một Nghị định hay Thông tư thì quy trình sẽ đỡ phức tạp hơn thay đổi bổ sung văn bản luật. Thế nhưng hiện nay văn bản dưới luật lại không hướng dẫn thực hiện quy định ở chương II "hợp đồng bảo hiểm" mà để cho các doanh nghiệp bảo hiểm được phép linh hoạt áp dụng thông qua việc ban hành các quy tắc bảo hiểm cho mình. Các quy tắc này tuy được Bộ Tài chính xem xét trước khi thông qua nhưng vẫn không có sự thống nhất trong quy định của các doanh nghiệp bảo hiểm. Vì thế theo chúng tôi để các quy định tại chương II "hợp đồng bảo hiểm" trong đó có hợp đồng bảo hiểm trùng được thực hiện tốt hơn Chính phủ cần sớm ban hành một nghị định hướng dẫn thi hành các quy định trong chương II "hợp đồng bảo hiểm " của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Để pháp luật được thực hiện đầy đủ chính xác điều quan trọng trước hết là phải nhận thức đúng, chính xác, đầy đủ nội dung của các quy phạm pháp luật. Muốn làm được điều đó thì phải tiến hành giải thích, tuyên truyền pháp luật. Theo chúng tôi bên cạnh việc ban hành văn bản dưới luật Nhà nước, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và các cơ quan tổ chức có liên quan cần tích cực giải thích, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân về lĩnh vực bảo hiểm trong đó có kiến thức về hợp đồng bảo hiểm trùng, để từ đó người tham gia bảo hiểm nhận diện được bảo hiểm trùng và tránh việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng.
2.2. Kiến nghị cụ thể
- Thứ nhất: về việc có hay không đặt ra vấn đề bảo hiểm trùng đối với đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự, và quy định như thế nào? Hiện nay Luật Kinh doanh bảo hiểm chưa quy định, vấn đề này chỉ mới được đề cập ở Điều 9 Quyết định số 23/QĐ-BTC ngày 25 tháng 12 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Về mặt lý luận thì ngoài hợp đồng bảo hiểm con người không đặt ra vấn đề bảo hiểm trùng vì một lẽ giá trị tính mạng con người không thể nào tính toán bằng tiền được và khi có thiệt hại tính mạng xảy ra thì không thể khắc phục được. Do vậy việc tham gia hợp đồng bảo hiểm với số tiền bảo hiểm bao nhiêu là do bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm tự thoả thuận các bên không bị giới hạn số tiền bảo hiểm. Pháp luật không đặt ra quy định bảo hiểm trên giá trị hay bảo hiểm trùng với hợp đồng bảo hiểm con người là vì vậy. Thế nhưng trong hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì giá trị của đối tượng được bảo hiểm lại có thể xác định được và khi thiệt hại xảy ra cho đối tượng được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể khắc phục được. Bên cạnh đó theo nguyên tắc cấm thu nhập không chính đáng thì người tham gia bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, hợp đồng bảo hiểm trên giá trị để trục lợi.Vì vậy theo ý kiến của chúng tôi như đã trình bày ở trên thì pháp luật cần đặt ra vấn đề hợp đồng bảo hiểm trùng trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Và Luật Kinh doanh bảo hiểm nên quy định vấn đề này theo cách quy định tại Điều 44 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
-.Thứ hai: về hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị hiện nay pháp luật chỉ mới quy định về nguyên tắc bồi thường mà chưa quy định vấn đề xử lý phần phí bảo hiểm vượt quá giá trị của tài sản theo giá thị trường tại thời điểm hợp đồng bảo hiểm được giao kết. Nếu trường hợp một doanh nghiệp nhận bảo hiểm trên giá trị thì không có vấn đề gì phải bàn cãi bởi lẽ doanh nghiệp bảo hiểm này sẽ phải hoàn lại phần phí bảo hiểm vượt quá áp dụng với giá trị vượt quá của tài sản là xong. Nhưng trong hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị thì doanh nghiệp nào sẽ phải hoàn trả phần phí bảo hiểm vượt quá ? Và các doanh nghiệp sẽ phải hoàn trả số phí bảo hiểm vượt quá là bao nhiêu? vẫn là một vấn đề cần được làm rõ. Lợi ích mà các doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới khi giao kết hợp đồng bảo hiểm là khoản phí bảo hiểm. Nhưng gắn với lợi ích là nghĩa vụ, khi đã nhận phí bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có nghĩa vụ bồi thường cho người được bảo hiểm khi có tổn thất thuộc sự kiện bảo hiểm xảy ra. Theo tâm lý chung thì các doanh nghiệp nhận bảo hiểm trùng trên giá trị khi sự kiện bảo hiểm xảy ra các doanh nghiệp nhận bảo hiểm sau khi các doanh nghiệp khác đã nhận bảo hiểm với mức phí bằng với giá trị của tài sản theo giá thị trường tại thời điểm hợp đồng bảo hiểm được giao kết, muốn hoàn lại số phí bảo hiểm để rũ bỏ trách nhiệm bồi thường. Như vậy ta thấy cách xử sự như trên của các doanh nghiệp bảo hiểm sau sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp bảo hiểm đã nhận bảo hiểm trước và cách xử sự này cũng tỏ ra thiếu công bằng trong trách nhiệm bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm trùng. Do vậy về hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị luật cần bổ sung quy định theo hướng ''Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị, nếu chưa xảy ra sự kiện bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo hiệm sau khi các doanh nghiệp khác đã nhận bảo hiểm và tổng mức bảo hiểm đó đã bằng giá thị trường của tài sản được bảo hiểm phải trả toàn bộ phí bảo hiểm đã nhận. Nếu khi sự kiện này đã xảy ra thì mỗi doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn trả phần phí bảo hiểm vượt quá theo tỷ lệ mà mình đã nhận và bồi thường cho người được bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều 44 luật này"
- Thứ ba: về quy định ở khoản tại Điều 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 "Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm."
Theo quy định trên thì khi xác định được người tham gia bảo hiểm trùng trên giá trị có lỗi vô ý thì doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại số phí bảo hiểm vượt quá. vậy nếu không xác định được lỗi của bên mua bảo hiểm hay xác định được bên mua bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị với lỗi cố ý thì doanh nghiệp bảo hiểm có phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm vượt quá hay không ? Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền được giữ lại số phí bảo hiểm vượt quá hay không ? Để xác định được lỗi cố ý hay vô ý trong trường hợp này là rất khó khăn, mặt khác ưu thế luôn thuộc về phía doanh nghiệp bảo hiểm. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị có thể là người tham gia bảo hiểm do thiếu hiểu biết hoặc do nhầm lẫn như định giá tài sản không chính xác nên để bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và để các bên chủ thể có cách xử sự chung thì theo chúng tôi quy định ở Điều 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm cần sửa đổi bổ sung theo hướng "Trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi của bên tham gia bảo hiểm, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm phí bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản đã được bảo hiểm sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp xảy sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không quá giá trị tài sản được bảo hiểm.
Quy định này cũng được áp dụng với hợp đồng bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản và trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự "
KẾT LUẬN
Bảo hiểm dân sự là một vấn đề còn mới mẻ ở việt Nam hiện nay. Các công trình nghiên cứu về nó vẫn còn hạn chế .Việc tiếp tục tìm tòi nghiên cứu thêm về vấn đề này để góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm, qua đó tác động vào thị trường bảo hiểm để nó ngày càng mang lại nhiều lợi ích cho đời sống kinh tế xã hội của đất nước là cần thiết.Trong phạm vi của một khoá luận tốt nghiệp với khả năng còn hạn chế tài liệu có hạn và sự hiểu biết trải nghiệm về Luật Kinh doanh bảo hiểm chưa nhiều, tác giả đã cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng bảo hiểm trùng:
- Để nghiên cứu được các vấn đề về hợp đồng bảo hiểm trùng, ở chương 1 khoá luận đã nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm dân sự trên các khía cạnh, khái niệm, đặc điểm, phân loại.
- Trong chương 2 khoá luận đi vào nghiên cứu các vấn đề về hợp đồng bảo hiểm trùng: khái niệm, đặc điểm các trường hợp bảo hiểm trùng, nội dung của hợp đồng bảo hiểm trùng qua đó khoá luận đã làm rõ khái niệm, đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trùng, khoá luận đã nêu và phân tích ba trường hợp hợp đồng bảo hiểm trùng: bảo hiểm trùng trên giá trị, bảo hiểm trùng dưới giá trị, bảo hiểm trùng bằng giá trị; khoá luận cũng đã nghiên cứu trình bày các vấn đề cơ bản trong nội dung hợp đồng bảo hiểm trùng đó là đối tượng bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, định mức tài chính, điều kiện bảo hiểm mức phí bảo hiểm và quyền nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trùng.
- Ở chương 3 khoá luận trình bày thực trạng về hợp đồng bảo hiểm trùng, trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn ở chương 1 và chương 2 khoá luận đã chỉ ra các vấn đề cần giải quyết trong quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng và đưa ra một số hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
Tóm lại hợp đồng bảo hiểm trùng là vấn đề không còn quá mới mẻ nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu kỹ lưỡng. Nó vẫn là một vấn đề phức tạp cần nghiên cứu thêm.Với khả năng có hạn của một sinh viên chắc chắn những nghiên cứu trong khoá luận này còn nông cạn và nhiều khiếm khuyết. Rất mong được các thầy giáo, cô giáo góp ý thêm giúp em hoàn thiện đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn.
Danh mỤc tài liỆu tham khẢo
1. GS-TSKH Trương mộc Lâm, Lưu nguyên Khánh- Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm. Nxb Thống Kê năm 2000
2. Giáo trình bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Nxb Thống Kê năm 2003
3. Giáo trình bảo hiểm - Trường đại học tài chính kế toán. NxbTài chính năm 1999
4. Giáo trình đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ - Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.Nxb Thống Kê năm 2005
5. Giáo trình luật dân sự - Trường đại học Luật Hà nội. Nxb Công an nhân dân năm 2005
6. Các website: www.Baohiem.pro.vn
www.Baoviet.com
7. Bộ luật dân sự năm 2005.Nxb Chính trị quốc gia năm 2006
8. Luật Kinh doanh bảo hiểm. Nxb Chính trị quốc gia năm 2005
9. Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 08 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm
10. Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 08 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
11. Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25 tháng 02 năm 2003 về việc ban hành biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc tách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (67).DOC