Khóa luận Hợp tác kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và APEC, thực trạng và giải pháp

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 1 CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI 1 GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC 1 1. Lịch sử hình thành và phát triển của APEC 1 1.1. Tính tất yếu khách quan của hợp tác kinh tế - thương mại giữa các nước APEC 1 1.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực 1 1.1.2. Sự ra đời của APEC 3 1.2. Các giai đoạn phát triển của APEC 3 1.2.1. Giai đoạn đầu (1989 - 1993) 3 1.2.2. Giai đoạn từ 1993 - 1998 4 1.2.3. Giai đoạn từ 1998 đến nay 5 2. Cơ cấu tổ chức, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC 7 2.1. Cơ cấu tổ chức của APEC 7 2.1.1. Cấp chính sách 7 2.1.2. Cấp chuyên viên 8 2.1.3. Ban thư ký 8 2.1.4. Cơ chế hoạt động của APEC 8 2.2. Mục tiêu hoạt động của APEC 9 2.3. Nguyên tắc hoạt động của APEC 10 3. Sự cần thiết của hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC 12 3.1. Nhu cầu phá thế bị bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về chính trị 12 3.2. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế 14 CHƯƠNG II 16 MỘT SỐ NỘI DUNG PHÁP LÝ VỀ HỢP TÁC 16 KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC 16 1. Một số nội dung cơ bản của tiến trình APEC 16 1.1. Phát triển về thể chế 16 1.2. Các chương trình, sáng kiến của APEC 19 1.2.1. Tự do hoá thương mại và đầu tư 20 1.2.2. Thuận lợi hoá thương mại và đầu tư 20 1.2.3. Hợp tác kinh tế - kỹ thuật 21 2. Nghĩa vụ của Việt Nam trong APEC 25 2.1. Xây dựng, thực hiện, bổ sung hàng năm kế hoạch hành động quốc gia (IAP) 25 2.2. Tham gia các chương trình hành động tập thể và hoạt động tập thể khác (CAP) 29 CHƯƠNG III 34 HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM 34 VÀ CÁC THÀNH VIÊN APEC 34 1. Thực trạng kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập APEC 34 1.1. Những thuận lợi, khó khăn trong hợp tác giữa Việt Nam và APEC 35 1.1.1. Thuận lợi 35 1.1.2. Khó khăn 38 1.2. Thành công của năm APEC Việt Nam 2006 40 2. Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với một số nước lớn là thành viên APEC 42 2.1. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ 42 2.2. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Trung Quốc 45 2.3. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Nhật Bản 47 3. Những giải pháp về quá trình hợp tác giữa Việt Nam và APEC 50 3.1. Định hướng và giải pháp phát triển 50 3.1.1. Môi trường - thể chế 51 3.1.2. Phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng vật chất - kỹ thuật 51 3.1.3. Nguồn nhân lực 52 3.1.4. Chính sách - công cụ 52 3.1.5. Giải pháp về đối tác 53 3.1.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 53 3.1.7. Bộ máy nhà nước - công tác Cán bộ 54 3.2. Một số đề xuất, kiến nghị 54 KẾT LUẬN 57

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2013 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hợp tác kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và APEC, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý ở cấp trung ương và địa phương cũng như các đối tượng xã hội khác nhau, ủng hộ đối với tiến trình hợp tác APEC. APEC đã thiết lập một ngân quỹ (tiền huy động đóng góp của các nền kinh tế thành viên và của các nhà tài trợ chính như Hoa Kỳ, Nhật Bản) dành riêng tài trợ các loại hình dự án xây dựng năng lực, hợp tác kinh tế, kỹ thuật phục vụ hoạt động các diễn đàn và các nhóm công tác trong APEC, đã được các thành viên hết sức ủng hộ, đặc biệt từ các nền kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam. Số tiền huy động đóng góp của mỗi thành viên là 50.000 USD/ năm để duy trì hoạt động của ngân quỹ này. Đây cũng là nghĩa vụ tương đối quan trọng, nhưng đã mang lại nhiều lợi ích cho các thành viên đang phát triển như Việt Nam trên khía cạnh đào tạo chuyên gia, đào tạo cán bộ nghiên cứu và hoạch định chính sách và nhiều dự án tài trợ nghiên cứu chính sách phát triển thương mại. Hơn nữa, thông qua cơ chế hợp tác song phương trong APEC, Việt Nam đã phối hợp với Australia, Hoa Kỳ, Nhật Bản xây dựng một loạt các dự án hỗ trợ nâng cao năng lực, trong đó có những dự án quan trọng như xây dựng Pháp lệnh thương mại điện tử, hỗ trợ xây dựng luật cạnh tranh. Các hoạt động hội nghị, hội thảo, trao đổi thông tin, đối thoại chính sách. Tham gia vào các hoạt động hợp tác trong APEC là một phần của tiến trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động này được Chính phủ Việt Nam rất coi trọng. Uỷ ban Quốc tế về hội nhập kinh tế quốc tế có nhiệm vụ giúp chính phủ điều phối chung các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực này. Bộ Ngoại giao tham gia vào các hoạt động liên quan tới Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC, Hội nghị liên Bộ trưởng ngoại giao - kinh tế và các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành. Cơ quan điều phối tham gia trực tiếp là Bộ thương mại, các Bộ ngành hữu quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn, phối hợp với Bộ thương mại và Bộ ngoại giao tham gia vào các hoạt động liên quan tới Hội nghị các quan chức cấp cao và một số cuộc họp chuyên ngành trong APEC. Như vậy, việc xây dựng IAP không chỉ để thực hiện cam kết với APEC mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Việt Nam tham gia đóng góp tích cực trong việc xây dựng mẫu IAP mới (e- IAP) làm cho IAP của các thành viên rõ ràng, minh bạch hơn với mục tiêu mang lại lợi ích tối đa cho các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các hoạt động của APEC theo hướng có chọn lọc, trong thời gian tới đối với CAP: ngoài lĩnh vực tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn và thủ tục hải quan, Việt Nam sẽ tham gia tích cực hơn nữa vào các chương trình hợp tác kinh tế - kỹ thuật, sở hữu trí tuệ, du lịch và sự lưu chuyển của doanh nhân. Từ ngày 12-19/11/2005 Việt Nam đã tham dự các cuộc họp cấp cao APEC 13 tại Busan (Hàn Quốc), nhằm khẳng định quyết tâm chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của mình. Minh chứng cho điều này là Việt Nam đăng cai tổ chức thành công APEC-2006 lần thứ 14 với chủ đề “Hướng tới một cộng đồng năng động vì phát triển bền vững và thịnh vượng” là một trong những hoạt động đối ngoại quan trọng của Việt Nam. CHƯƠNG III HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC THÀNH VIÊN APEC 1. Thực trạng kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập APEC Trong thế giới ngày nay, liên kết và hợp tác kinh tế ở khu vực và trên phạm vi toàn cầu phát triển mạnh, tự do hoá kinh tế, thương mại và đầu tư trở thành xu hướng phổ biến, bao trùm, trở thành đặc trưng của thời đại. Toàn cầu hoá mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt các quốc gia trước sự lựa chọn không dễ dàng: đứng ngoài xu thế đó thì bị cô lập và tụt hậu, tham gia thì phải ứng phó với sự cạnh tranh khốc liệt. Châu Á - Thái Bình Dương cũng không nằm ngoài xu thế chung này. Điều đó cũng lý giải vì sao mà hầu hết các nước, kể cả các nước đang phát triển, thậm trí kém phát triển cũng tham gia vào quá trình hội nhập, từng bước chấp nhận những “luật chơi” chung của các tổ chức quốc tế, khu vực và toàn cầu. Hội nhập đòi hỏi các quốc gia phải chấp nhận các nguyên tắc cơ bản của hệ thống, có nhân nhượng và có chương trình triển khai chính sách phù hợp với các quy tắc và chương trình chung, đồng thời phải công bố rành mạch công khai chế độ ngoại thương, các thuận lợi về cơ chế chính sách thương mại, các cam kết mở cửa thị trưởng với lộ trình mở cửa khác nhau, sự đãi ngộ không phân biệt so với các thành viên khác, chấp nhận các nguyên tắc chung trong hoạt động và triển khai chính sách, có các biện pháp để bảo đảm thực thi các cam kết, chương trình đã đề ra cũng như sự tự nguyện, linh hoạt xây dựng lộ trình thực hiện. Do vậy, khi hội nhập APEC, Việt Nam cũng không nằm ngoài những quy luật chung của Thương mại quốc tế này. Trên bình diện tổng thể có thể thấy APEC đã có vai trò đáng kể trên một số lĩnh vực sau: - APEC góp phần tăng cường hệ thống thương mại đa phương. - APEC điều tiết các thoả thuận thương mại tự do song phương và khu vực. - APEC gắn thương mại với an ninh khu vực. - APEC đưa ra nhiều chương trình hành động, sáng kiến nhằm thực hiện các mục tiêu của APEC. Tất cả các tuyên bố, sáng kiến và chương trình hợp tác của APEC bên cạnh tính chất kinh tế, thương mại sâu đậm còn có ý nghĩa và tác dụng chính trị. Đó là kết quả của những thương lượng, trao đổi chính trị của các nền kinh tế thành viên vì phát triển kinh tế và ổn định an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương: các nước lớn, các nước phát triển thì thể hiện trách nhiệm của mình, còn các nước nhỏ đang và kém phát triển thì đã gắn được những vấn đề quốc gia của mình với một khu vực rộng lớn. Việt Nam tham gia APEC có nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng cũng rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, những khó khăn này không làm suy giảm sự tích cực chủ động trong quan hệ hợp tác của nước ta. Nó có tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đã cho chúng ta một số nhìn nhận rõ hơn về các kết quả đạt được trong tiến trình, mà đặc biệt là APEC Việt Nam 2006. 1.1. Những thuận lợi, khó khăn trong hợp tác giữa Việt Nam và APEC 1.1.1. Thuận lợi Khi tham gia APEC, để đánh giá sự thuận lợi hay khó khăn, không thể chỉ nhìn nhận đơn giản một chiều là tình hình buôn bán ngoại thương của Việt Nam với các nước trong khu vực, mà phải xem xét một cách khách quan toàn diện cả yếu tố nội lực và ngoại lực. Quan trọng nhất là các yếu tố cơ bản về kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng, các điều kiện về nguồn lực, các yếu tố về chính sách, môi trường pháp lý. Vì vậy, theo hướng này, nước ta có những điều kiện thuận lợi sau: - Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ ràng rằng: Việt Nam sẽ chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là Việt Nam thực hiện “mở cửa” kinh tế, hợp tác với tất cả các nước, trước hết là các nước trong khu vực. Từ đó, Việt Nam đã chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. - Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động chính trị đối ngoại, đồng thời với hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhờ vậy mà đã thu được thành quả rất lớn, thể hiện sự đúng đắn của đường lối chính sách: mang lại ổn định về chính trị và chính sách kinh tế bắt nguồn từ thực tiễn, làm cho kinh tế ngày càng phát triển, các giá trị văn hoá của dân tộc tạo nên đời sống tinh thần phong phú, tốt đẹp. - Quá trình phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam khá thuận lợi, mức tăng trưởng GDP là tương đối nhanh. Xuất khẩu tăng nhanh và trang trải được phần lớn nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư, nguyên nhiên liệu, hàng tiêu dùng “tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (2001 - 2005) lên 109- 111 tỷ USD. Nhập siêu từ chỗ chiếm 176,3% kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (1986- 1990) đã giảm xuống còn 18,7 -18,8% trong 10 năm (1996- 2005)” [11, tr.7], tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần kiềm chế và đẩy lùi hiện tượng lạm phát. - Việt Nam có vị trí địa lý - chính trị - kinh tế quan trọng, nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á, có một vùng biển giàu tiềm năng. Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển làm cho nước ta có thể dễ dàng giao lưu về kinh tế và văn hoá với nhiều nước trên thế giới. Hơn nữa, nước ta có sự đa dạng, phong phú về tài nguyên thiên nhiên, đây có thể được coi là một trong các nguồn lực cơ bản thuận lợi phát triển đất nước. - Nước ta đã thu được nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình hợp tác quốc tế trước khi gia nhập APEC đó là: thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thành viên tiến trình hợp tác Á - Âu (ASEM). Điều này có nghĩa là không có lý do gì cản trở sự hợp tác hơn nữa với bên ngoài của Việt Nam, một mặt khẳng định cơ sở hiện thực của quá trình thực hiện, mặt khác thể hiện uy tín của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế. - Người Việt Nam có khả năng thích ứng nhanh với kinh tế thị trường, ứng dụng nhanh các thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, "Nền kinh tế tri thức. Qua đó ta thấy, xuất phát từ thực tế Việt Nam, là nước đang phát triển, có nhu cầu đặc biệt quan trọng là phát triển kinh tế, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, nên khi tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với APEC, Việt Nam có thể có được một số cơ hội sau: - Đối với Chính phủ: + Khi tham gia APEC, Việt Nam có thêm một diễn đàn đa phương, phục vụ mục đích đối ngoại có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta về mặt kinh tế và chính trị. APEC bao gồm các nền kinh tế trên các khu vực địa lý khác nhau, trong đó với nhiều thành viên có vai trò kinh tế - chính trị lớn như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc mà ta sẽ có vị trí thành viên bình đẳng, giúp giảm thiểu tình trạng bị phân biệt đối xử. Tăng cường cơ hội tiếp xúc, đối thoại với các nhà lãnh đạo cấp cao để đề đạt nguyện vọng, trao đổi và giải quyết những vấn đề các nước cùng quan tâm. + Tìm ra những đối sách hợp lý cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phải đẩy mạnh công cuộc cải cách cơ chế chính sách theo hướng minh bạch hơn, bình đẳng và thuận lợi hơn cho các hoạt động kinh doanh. - Đối với doanh nghiệp: + Có thị trường thương mại rộng lớn khoảng 2,6 tỷ người tiêu dùng, hàng hoá, dịch vụ phong phú và đa dạng, với sức mua lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng quan hệ thượng mại và đầu tư. + Tận dụng và phát huy được những nguồn lực có lợi thế so sánh như: nguồn lực, giá lao động rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, hàm lượng chất xám… để thuận lợi hơn khi tham gia vào phân công lao động khu vực và quốc tế, tiếp tục quá trình chuyên môn hoá trong các ngành sản xuất. + Tiếp thu công nghệ, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, đào tạo kỹ thuật cao, nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn, từ đây mới có điều kiện thu hút vốn đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, đáp ứng yêu cầu sản xuất, hợp tác kinh tế - kỹ thuật. + Tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tiêp tục hoàn thiện và phát triển. + Tháng 3 năm 2006, Chính phủ đã ban hành quy chế cấp và quản lý thẻ đi lại của doanh nhân APEC cho những doanh nhân có nhu cầu đi lại thường xuyên và ngắn hạn, mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, đây cũng là kết quả của sự tham gia tích cực của Việt Nam trong khuôn khổ APEC. - Đối với nhân dân: tạo điều kiện nâng cao trình độ nghề nghiệp, tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho người dân. Giá sinh hoạt thấp do việc cắt giảm các rào cản thương mại, phù hợp với sức mua đã cải thiện được đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động và củng cố hệ thống an toàn xã hội. 1.1.2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, trong hợp tác APEC, Việt Nam còn phải đối diện với những khó khăn và thách thức, đó là: - Nhìn chung, có thể nói rằng chúng ta có một xuất phát điểm không thật sự thuận lợi, khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước APEC là quá lớn, gây nhiều bất lợi trong quá trình hội nhập, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, chất lượng hàng hoá thấp nhưng giá thành cao, khiến cho Việt Nam trở nên khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường, nhiều doanh nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp theo đó tăng lên. - Tính bị động của nền kinh tế nhỏ, đang phát triển, chủ yếu là hạn chế về tiềm lực kinh tế, Việt Nam rất dễ bị rơi vào thế yếu trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh với các nước. - Nhận thức về APEC của cán bộ, giới doanh nghiệp, quần chúng nhân dân còn nhiều hạn chế; một mặt là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được đầy đủ vai trò và lợi ích mà diễn đàn mang lại, mặt khác là do một phần của công tác tuyên truyền, phổ biến về APEC mới chỉ ở mức độ hạn chế, chưa thật sự đi vào sâu rộng, có thể nói đây là một trong những trở ngại lớn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam. - Cơ chế thị trường ở hầu hết các nước trong khu vực đã được hình thành và phát triển, trong khi đó nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi, khó có thể thích ứng ngay được với tập quán và phương thức kinh doanh khu vực. Thêm vào đó còn hạn chế về nguồn nhân lực cả về chất và lượng, thiếu đội ngũ cán bộ giỏi có chuyên môn và kinh nghiệm trong hợp tác quốc tế, năng lực tiếp nhận các nguồn đầu tư cũng như tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vẫn còn nhiều yếu kém, dễ rơi vào tình trạng nợ nần. Sự hạn chế hiểu biết về cơ chế thị trường và sự vận hành của nó, các học thuyết, các quy định của thương mại quốc tế, rất dễ bị thua thiệt trong các vụ việc tranh chấp xảy ra. - Phần lớn đều là những doanh nghiệp còn non trẻ, khó khăn về tài chính, trình độ quản lý, tín nhiệm và kinh nghiệm. Đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá dịch vụ liên quan đến hàng nông sản, chế biến thuỷ hải sản, dệt may và thủ công mỹ nghệ có thể gặp khó khăn trong ngắn hạn khi bị áp dụng các hạn chế bởi hàng rào phi quan thuế và các biện pháp quản lý hành chính từ các nền kinh tế khác. - Chưa có được điều kiện tốt nhất để có được thông tin về thị trường, chính sách thương mại, đầu tư của các thành viên một cách nhanh nhất và chính xác nhất, nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu kém. - Khó khăn lớn nhất đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vẫn là: hệ thống pháp luật, cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư, thông tin dịch vụ còn chưa hoàn thiện, trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và cả các doanh nhân còn chưa đáp ứng được với nhu cầu đặt ra của tình hình mới, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ và phương pháp làm việc trong môi trường hiện đại. Như vậy, những thuận lợi và lợi thế so sánh của Việt Nam có thể do nhiều nhân tố khách quan khác nhau mang lại, song những khó khăn thách thức chủ yếu là những yếu tố bắt nguồn từ nội lực của chúng ta. Điều đó chứng tỏ trong quá trình hội nhập khu vực, Việt Nam sẽ là nước dễ “bị tổn thương” nhất so với các nước thành viên. Do vậy, trong thời gian tới chúng ta phải nỗ lực, có các biện pháp thích hợp để tăng cường tiềm lực kinh tế, tạo ra thế và lực mới, tăng thêm các lợi thế so sánh, có đủ sức thích ứng nhanh hơn với môi trường đầu tư và kinh doanh toàn cầu đang biến động. 1.2. Thành công của năm APEC Việt Nam 2006 Tuần lễ cấp cao APEC 2006 với sự tham dự của trên 10.000 đại biểu, doanh nhân và phóng viên báo chí trong và ngoài nước, được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 12- 19/11/2006. - Hội nghị cấp cao thông qua Tuyên bố Hà Nội, cùng với tuyên bố của Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế đã đề ra phương hướng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, cho tất cả các diễn đàn của APEC cho năm 2007 và các năm tiếp theo. - Hội nghị cấp cao phê chuẩn Kế hoạch hành động Hà Nội nhằm thực hiện lộ trình Busan, hướng tới mục tiêu Bogor. Các thành viên đánh giá cao ý nghĩa và nội dung bản kế hoạch hành động, cho đây là cơ sở mang tính định hướng cho các hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại của APEC. Kế hoạch hành động Hà Nội là sáng kiến quan trọng của Việt Nam, để lại dấu ấn của Việt Nam trong tiến trình hợp tác. Nhiều thành viên cho rằng “đây là một biểu hiện rõ ràng quyết tâm và khả năng của Việt Nam tham gia ngày càng sâu, chủ động hơn vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế” [12, tr. 24]. - Hội nghị cấp cao đã ra tuyên bố riêng về vòng đàm phán Doha, khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, đặc biệt nhấn mạnh mỗi thành viên APEC sẽ chủ động đưa ra các cam kết cao hơn, nhằm thúc đẩy việc sớm khởi động lại vòng đàm phán. Tuyên bố cũng chúc mừng Việt Nam gia nhập WTO, coi đây là một nỗ lực thúc đẩy vòng Doha. - Hội nghị đã thông qua báo cáo về các biện pháp cải cách APEC nhằm làm cho APEC ngày càng có sức sống mạnh mẽ, năng động và hiệu quả hơn. Nhiều thành viên đánh giá “Năm APEC 2006 là năm cải cách APEC” [13, tr.24]. - Hội nghị cấp cao và Hội nghị Bộ trưởng đã thông qua 6 biện pháp mẫu của các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực chất lượng cao, hai hướng dẫn mẫu về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đánh gía kế hoạch hành động thuận lợi hóa thương mại về giảm chi phí giao dịch thương mại 5% (TFAP) giai đoạn 1 (2001-2006) và khung kế hoạch TFAP giai đoạn 2 nhằm giảm tiếp 5% giao dịch thương mại (2006- 2010). - Khẳng định quyết tâm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực an ninh con người, chống khủng bố, an ninh năng lượng, cùng nhau ứng phó với những thách thức chung như thiên tai, dịch bệnh, nạn tham nhũng... - Thông qua kết quả năm Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành được tổ chức trong năm 2006 với nhiều sáng kiến của Việt Nam, đó là đóng góp lớn, tích cực của Việt Nam tại một diễn đàn lớn. Một thành công nữa trong năm APEC là Hội nghị các Tổng giám đốc với số đại biểu tham dự đông nhất là 1500 đại biểu, trong đó có khoảng 750 đại biểu nước ngoài và số nguyên thủ phát biểu đông nhất (10 nhà lãnh đạo) được đánh giá là “Hội nghị thành công nhất kể từ khi bắt đầu được tổ chức tại Philipin năm 1996” [14, tr. 24]. Trong khuôn khổ của Hội nghị này, Việt Nam cũng tổ chức rất thành công diễn đàn xúc tiến thương mại và đầu tư với chủ đề “Những cơ hội kinh doanh khi Việt Nam trở thành thành viên WTO”. Bộ Kế hoạch và đầu tư đã chủ trì, tổ chức tốt diễn đàn đầu tư APEC trong hai ngày 15 và 16 tháng 11 năm 2006 tại Hà Nội Bên cạnh những kết quả đạt được trong khuôn khổ hợp tác đa phương APEC, Việt Nam cũng đạt được nhiều thoả thuận cực kỳ quan trọng cả về chính trị và kinh tế trong các cuộc thăm chính thức song phương. Như vậy, cùng với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO thì APEC là hoạt động đối ngoại đã thành công tốt đẹp trên cả ba mặt: nội dung, lễ tân, tổ chức và trên cả hai bình diện: đa phương và song phương, cũng như việc Việt Nam được các nước châu Á nhất trí bầu làm đại diện cho khu vực ứng cử ghế thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khoá 2008- 2009. Những thành công quan trọng này đã góp phần nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. 2. Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với một số nước lớn là thành viên APEC Đối với Việt Nam, APEC thực sự là diễn đàn có ý nghĩa quan trọng, bởi ở đó hội tụ hầu hết các đối tác thương mại và kinh tế hàng đầu thế giới. Trong khuôn khổ APEC, ngoài hợp tác đa phương, mối quan hệ hợp tác song phương cũng có vai trò đặc biệt quan trọng. Để góp phần minh chứng cho nhận định này, cần đề cập tới mối quan hệ hợp tác thượng mại và đầu tư với một số nền kinh tế lớn của APEC. 2.1. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ * Khái quát Ngày 03/02/1994 Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam và hai bên mở cửa cơ quan đại diện của nhau. Ngày 11/7/1995 Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố chính thức bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Việt Nam, và là bước ngoặt phát triển trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và có vai trò quan trọng cũng như ảnh hưởng lớn tới toàn bộ nền kinh tế thế giới. Việt Nam coi quan hệ với Hoa Kỳ là nhân tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, đặc biệt là trên lĩnh vực hợp tác kinh tế - thương mại. * Hợp tác kinh tế - thương mại Từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, buôn bán giữa hai nước đã có những bước phát triển nhảy vọt. Hiện nay, Hoa Kỳ đang là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam, đó là thực tế không thể đảo ngược, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Sự kiện quan trọng là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết năm 2000, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá nước ta tiếp cận thị trường rộng lớn này. Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là hàng dệt may, thuỷ hải sản, dầu khí, giày dép, đồ gỗ gia dụng và nhập khẩu từ Hoa Kỳ các thiết bị y tế, máy bay, máy công cụ v.v... Các công ty Việt Nam đã ký kết được ba hợp đồng thương mại lớn với các công ty và tập đoàn lớn của Hoa Kỳ: Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) ký hợp đồng mua 4 máy bay Boeing 787; Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) cùng hai tập đoàn năng lượng và thiết bị năng lượng lớn của Hoa Kỳ (Fluor Corporation và Unocal International Corporation) ký hợp đồng bổ sung triển khai nghiên cứu khả thi dự án xây dựng đường ống dẫn khí đốt ở miền Nam Việt Nam; Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam và Tập đoàn Motorola ký hợp đồng về cung cấp trang thiết bị cải tạo mạng di động tại 8 tỉnh miền Nam. Ngoài ra, để lĩnh vực thương mại dịch vụ phát triển hơn nữa giữa hai nước, Chính phủ Việt Nam đã trao giấy phép thành lập và hoạt động cho hai hãng bảo hiểm lớn của Hoa Kỳ (New York Life International và ACE INA International Holdings). Đây được coi là những kết quả lớn đạt được sau chuyến thăm của Thủ tướng Phan Văn Khải sang Hoa Kỳ (tháng 6 năm 2005). Cuối năm 2005, cả Hạ viện và Thượng viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thông qua việc bãi bỏ Tu chính án Byrd hay còn gọi là Luật chống bán phá giá và đền bù trợ cấp (song vẫn tiếp tục có hiệu lực đối với các lô hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ trước ngày 01/10/2007) là tín hiệu tốt đối với các doanh nghiệp Việt Nam, vì nó làm giảm bớt động cơ khởi kiện chống bán phá giá của các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đạo luật này chỉ là một phần của hệ thống pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, nên các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ hơn các quy định về thương mại, đầu tư, thị trường Hoa Kỳ, các cam kết của Hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ, góp phần phát triển kênh phân phối, xuất khẩu hàng hoá, tránh được các vụ kiện chống bán phá giá khi thâm nhập thị trường này. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm những thách thức mới khi các cam kết về lộ trình mở cửa của thị trường Việt Nam trong Hiệp định có hiệu lực ngày 10/12/2005: - Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử quốc gia về giá và phí đối với tất cả cả các hàng hoá và dịch vụ, bao gồm cả giá điện và vận tải hàng không. - Xoá bỏ hạn chế về số lượng trong nhập khẩu phù hợp với các quy định trong hiệp định. - Xây dựng và áp dụng thủ tục đăng ký cấp phép thành lập liên doanh có vốn đầu tư Hoa Kỳ không quá 49% để kinh doanh các dịch vụ viễn thông cơ bản. Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, 5 tháng đầu năm 2006: hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 3 tỷ USD (bằng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2005) chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong cùng thời điểm đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 2,104 tỷ USD, sang Trung Quốc 1,19 tỷ USD, sang Australia là 1,12 tỷ USD [15, tr. 18]. Trong quan hệ thương mại, thành công lớn nhất sau khi Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực không chỉ là sự tăng trưởng ngoạn mục về kim ngạch buôn bán, nhất là tăng trưởng về xuất khẩu của Việt Nam, mà cái được lớn hơn là thúc đẩy sản xuất các ngành nghề sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép... như vậy Việt Nam tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ không phải chuyển hay giảm xuất khẩu từ thị trường khác, để tập trung sang Hoa Kỳ, mà do mở mang sản xuất trong nước, tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động. Hiện nay Hoa Kỳ đã trao cho Việt Nam quy chế PNTR và cùng với việc triển khai rộng Hiệp định thương mại song phương, chắc chắn quan hệ thương mại hai nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa. * Hợp tác về đầu tư Với việc cam kết đầu tư 606 triệu USD của Intel (Hoa kỳ) vào đầu năm 2006, dấu hiệu đầu tư vào công nghệ mới và từ các nước phát triển nhất đã và đang bước đầu nổi rõ hơn ở Việt Nam. Năm 2006 theo thống kê, Hoa Kỳ đã trở thành một trong những quốc gia có vốn đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Lĩnh vực đầu tư lớn nhất của các công ty Hoa Kỳ vào nước ta là dầu lửa, chiếm gần 1 tỷ USD và cũng có nhiều công ty Hoa Kỳ đang quan tâm tới lĩnh vực chế tạo và dịch vụ. Hoa Kỳ đang đóng vai trò quan trọng trong chu chuyển vốn FDI trên thế giới. Trong thời gian qua, đầu tư từ Hoa Kỳ vào Việt Nam hạn chế là do một số nguyên nhân cơ bản: các doanh nghiệp Mỹ coi ưu đãi về thuế là yếu tố cần thiết, nhưng điều họ quan tâm nhất vẫn là thị trường, chi phí đầu tư, lao động có tay nghề, hạ tầng cơ sở, tính minh bạch của pháp luật, thủ tục hành chính. Theo số liệu của Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư): tính tới ngày 20/4/2006 các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài với tổng số vốn thực hiện trên 15 triệu USD và vốn đăng ký trên 655 triệu USD (chỉ tính các dự án còn hiệu lực). Như vậy, đây là các chỉ số thương mại, đầu tư còn rất khiêm tốn, vì hai nước đang ở giai đoạn đầu của quá trình hợp tác đi vào toàn diện. Trong thời gian tới, chắc chắn rằng các chỉ số đó sẽ rất cao, Việt Nam còn có nhiều khả năng và cơ hội để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, người lại các doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ thường xuyên đến đầu tư hơn khi Việt Nam đáp ứng được tốt nhất những yêu cầu được coi là khắt khe nhất của họ, đó là sự ổn định về chính trị, xã hội và những cải thiện đáng kể trong môi trường kinh tế vĩ mô. 2.2. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Trung Quốc * Khái quát Trung Quốc là nước đông dân nhất và có thể coi là thị trường tiềm năng lớn nhất thế giới. Trong giai đoạn lịch sử hiện tại, quan hệ hợp tác giữa hai nước cũng đã có thời kỳ bị ngắt quãng, nhưng trong thời gian gần đây đã có sự chuyển biến tích cực, đặc biệt là quan hệ kinh tế - thương mại phát triển mạnh mẽ. * Hợp tác thương mại Từ khi ký kết các hiệp định hợp tác và ra thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc về bình thường hóa quan hệ vào ngày 07/11/1991, quan hệ Việt - Trung phát triển nhanh chóng, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực và đem lại hiệu quả thiết thực. Hợp tác kinh tế có nội dung trọng tâm, trong số hơn 40 các hiệp định và thoả thuận cấp nhà nước đã ký kết, có tới hơn một nửa liên quan trực tiếp tới hợp tác kinh tế- thương mại. Uỷ ban hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung thành lập năm 1994 đã đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư giữa hai nước. “Sau 20 năm, kim ngạch buôn bán tăng từ 266 triệu USD năm 1992 lên 3,26 tỷ năm 2002” [16, tr. 64]. Mấy năm gần đây, một số hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đang có nhiều cơ hội, triển vòng thâm nhập nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc là dầu thô, cà phê, hải sản, rau quả, giày dép, chè và cao su. Trong khi đó, các hàng hoá nhập từ Trung Quốc như nguyên liệu phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp dệt may, da giày, chế tạo hay dược phẩm tăng mạnh. Để có cách khái quát hơn về vấn đề này, chúng ta có thể đưa ra bảng sau: Ngày 04/11/2002 Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa Trung Quốc và ASEAN đã chính thức được ký. Theo Hiệp định này, khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ được thiết lập vào năm 2010, gồm hợp tác kinh tế, đầu tư, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nội dung đặc biệt quan trọng đối với xuất nhập khẩu là các biện pháp hạn chế thương mại và hàng rào thuế quan sẽ dần dần được loại bỏ. Trong Hiệp định khung, hai bên thống nhất áp dụng “Chương trình thu hoạch sớm” theo chương trình này, Trung Quốc sẽ hoàn thành cắt giảm thuế năm 2006 và từ 2002 Việt Nam sẽ phải cắt giảm 88 dòng thuế nhập khẩu từ Trung Quốc thuộc ba nhóm (trên 30%, 15- 30% và dưới 15%) xuống còn 0% vào năm 2008. Như vậy, hàng hoá Việt Nam sẽ có điều kiện cạnh tranh tốt hơn trên thị trường Trung Quốc. Một bước tiến nữa quan trọng trong quá trình hợp tác kinh tế giữa hai nước đó chính là chính sách xây dựng “hai hành lang, một vành đai”. Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Thủ tướng nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa là Ôn Gia Bảo, hai nước Việt - Trung đã ra thông cáo chung, trong đó hai bên đồng ý tích cực thảo luận tính khả thi của hành lang kinh tế “Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh”, “Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh” và vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ. Văn bản chính thức cho sự hợp tác này đã được hai nước ký kết trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư Đảng cộng sản Trung quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa là Hồ Cẩm Đào tháng 11/2006. Với chính sách này, cùng với diễn đàn doanh nghiệp Việt - Trung ra đời cuối tháng 9/2006, thương mại hai nước sẽ ngày càng phát triển, đặc biệt là giao lưu thương mại giữa các tỉnh biên giới Việt Nam với tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. * Hợp tác đầu tư Chính phủ Trung Quốc đã dành cho Việt Nam nhiều khoản vay ưu đãi, giúp Việt Nam cải thiện các công trình hạ tầng như đường sắt, cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất tại một số cơ sở trọng yếu của nước ta. Hàng loạt các dự án hợp tác mới với tổng vốn đầu tư lên tới hàng tỷ USD đã được các doanh nghiệp hai nước triển khai thực hiện. Đối với đầu tư trực tiếp: tổng vốn đầu tư của Trung Quốc năm 2005 vào Việt Nam vượt 100 triệu USD, tăng 32% so với năm 2004. Tính tới 31/12/2005, Trung Quốc (không kể Hồng Kông) đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với 357 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 739,21 triệu USD và tính đến hết tháng 8/2006 có tới 328 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn 805 triệu USD, vốn thực hiện đạt 207 triệu USD [17, tr. 16]. Về đầu tư gián tiếp: từ khi bình thường hoá quan hệ, Trung Quốc cũng đã trở thành một trong nhiều nhà cung cấp tài trợ cho Việt Nam dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, tín dụng không lãi và tín dụng ưu đãi để giúp nước ta cải tạo, nâng cấp một số cơ sở công nghiệp do Trung Quốc xây dựng trước đây và một số dự án hợp tác mới (đặc biệt khi uỷ ban hỗn hợp kinh tế - khoa học - kỹ thuật Việt Trung ra đời tháng 11/1995). Như vậy, quan hệ hợp tác kinh tế là một cấu thành trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Hiện tại hai nước xác định rõ tư tưởng chỉ đạo thể hiện qua mười sáu chữ: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Tuy nhiên quan hệ hợp tác kinh tế Việt - Trung lên một tầm cao mới như mong muốn của lãnh đạo cấp cao hai nước, đòi hỏi phải có những giải pháp thật sự hợp lý và nỗ lực cố gắng của cả hai nước. 2.3. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Nhật Bản * Khái quát Việt Nam và Nhật Bản là hai nước cùng ở khu vực Đông Á có nhiều nét tương đồng về địa lý tự nhiên và đời sống văn hoá xã hội. Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 21/9/1973, song do nhiều nguyên nhân lịch sử và đương đại khác nhau cùng chi phối mà trong quan hệ hai nước đã từng trải qua những bước thăng trầm. Đến khi Việt Nam thực hiện đường lối mở cửa năm 1986, giữa hai nước đã hình thành cơ chế đối thoại thường kỳ cấp Bộ trưởng và Thứ trưởng về các vấn đề chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng. Nhật Bản là nước có trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến với kinh nghiệm quản lý có hiệu quả và uy tín cao trên trường quốc tế, luôn coi trọng mối quan hệ hợp tác toàn diện và tin cậy, tích cực ủng hộ công cuộc đổi mới của Việt Nam, khuyến khích Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. * Hợp tác thương mại Khoảng hơn thập niên gầy đây, Nhật Bản luôn là bạn hàng, thị trường lớn của Việt Nam. Các hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế- xã hội của cả hai nước, đặc biệt là với Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước mấy năm qua luôn ở mức 5- 7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 14- 16% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đáng lưu ý, kim ngạch xuất nhập khẩu của ta sang Nhật đã luôn tăng trưởng với tốc độ cao, trung bình từ 15- 19% và là nước xuất siêu sang Nhật Bản. Năm 2004 tổng kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước đạt 7,05 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt khoảng 3,79 tỷ USD, tăng 16,6% so với năm 2003. Đến năm 2005 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng đáng kể, đạt gần 8,2 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 4,56 tỷ USD tăng hơn 20% so với năm 2004 và chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam [18, tr. 63]. Trong quan hệ song phương, hai nước đã dành cho nhau ưu đãi MFN về thuế, tuy nhiên hàng Việt Nam vào thị trường Nhật Bản vẫn hay gặp phải khó khăn bởi hệ thống kiểm tra phi thuế chặt chẽ, đặc biệt là các quy định khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh, kiểm định. Giờ đây, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, mở ra một thời kỳ mới, tạo cơ hội và động lực cho sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện giữa hai nước, trong đó hợp tác thương mại chắc chắn vẫn là lĩnh vực sẽ được tiếp tục phát triển mạnh mẽ, sôi động. * Hợp tác đầu tư Tính đến cuối tháng 5 năm 2002, Nhật Bản là nước đứng thứ ba trong số các nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số 386 dự án được cấp phép, vốn đăng ký đạt 4,3 tỷ USD. Ngày14/11/2003, Đại diện Chính phủ hai nước đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, với sự kiện quan trọng này đã mở ra triển vọng to lớn cho hợp tác đầu tư hai nước. Tính đến hết tháng 8/2006, Nhật Bản có 677 dự án đầu tư có hiệu quả tại Việt Nam với tổng vốn 6,8 tỷ USD, đứng thứ ba về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ [19, tr. 17]. Nhật Bản còn là nước đã tích cực hỗ trợ phát triển tài chính để góp phần khai thông mối quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt vào cuối năm 1992. Tính đến cuối năm 2005 tổng số vốn ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam “đã vượt qua con số 10 tỷ USD, xấp xỉ 10,5 tỷ USD, trong đó trên 10% là viện trợ không hoàn lại, phần còn lại là các khoản tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp và thời gian tài trợ dài” [20, tr. 67]. Chương trình viện trợ dài hạn của Nhật Bản dành cho Việt Nam tập trung vào 5 lĩnh vực chính là: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, xây dựng và cải tạo các công trình giao thông - điện lực, phát triển nông nghiệp và xây dựng hạ tầng nông thôn, phát triển giáo dục đào tạo và y tế, bảo vệ môi trường. Trong chính sách ODA mới của Nhật Bản có nêu ba mục tiêu chính là: giúp Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống- xã hội, hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Vấn đề quan trọng đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng ODA, để giữ được niềm tin của người Nhật trong việc tiếp tục thực hiện chính sách ODA ưu tiên cho Việt Nam. Hiện nay, hai nước đang ra sức phát triển mạnh mẽ quan hệ hữu nghị và hợp tác song phương về đầu tư và thương mại, đẩy nhanh việc triển khai giai đoạn hai sáng kiến chung Việt - Nhật, để tiếp tục nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của quan hệ hợp tác phát triển toàn diện về nhiều lĩnh vực sao cho phù hợp với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu phát triển của hai nước. Tóm lại, thông qua các chương trình hợp tác với các nước APEC, chúng ta có cơ hội nắm bắt các thông lệ quản lý phù hợp, giúp nâng cao năng lực trong nhiều lĩnh vực, hợp tác đầu tư và thương mại phát triển, góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước tiên tiến. Đồng thời chúng ta đã thu được nhiều kinh nghiệm quý báu từ các đối tác trong APEC, đặc biệt là cải thiện môi trường, thu hút FDI, cải cách cơ chế chính sách, tăng tính minh bạch của hệ thống pháp lý, tạo thêm thuận lợi cho thương mại và xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng và hỗ trợ rất lớn cho tiến trình đàm phán gia nhập WTO. Trên cơ sở kết quả đã đạt được, trong thời gian tới phải đẩy mạnh hợp tác hơn nữa để khẳng định uy tín, thiện chí và khả năng của Việt Nam sẵn sàng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 3. Những giải pháp về quá trình hợp tác giữa Việt Nam và APEC 3.1. Định hướng và giải pháp phát triển Hiện nay, tình hình thế giới vẫn đang diễn biến phức tạp, khó lường, sự biến động bất lợi về giá cả và sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế sẽ ngày càng găy gắt. Ở trong nước, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước tiếp tục được phát huy, sự ổn định chính trị- xã hội cùng với những thành tựu đã đạt được trên các mặt sẽ tạo thời cơ thuận lợi lớn cho việc thu hút các nguồn lực cả trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, đồng thời với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng khẩn trương, sâu rộng và nhất là khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO thì những yếu kém, bất cập của nền kinh tế nước ta sẽ là những khó khăn, thách thức lớn. Thực trạng trên đòi hỏi phải nỗ lực phấn đấu quyết liệt hơn nữa để triển khai thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các mục tiêu nhiệm vụ mà Đại hội IX, X của Đảng đã đề ra: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sủ dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển văn hoá. Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác APEC đang là một tiềm năng lớn. “Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị trường APEC chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra 7,5% đầu tư trực tiếp nước ngoài và hơn 50% viện trợ phát triển chính thức (ODA) vào Việt Nam từ các thành viên APEC” [21, tr. 2]. Phải trên cơ sở giữ gìn độc lập, tự chủ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy bản sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phấn đấu vì hoà bình, an ninh khu vực và thế giới. Để củng cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ này, chúng ta sẽ thực hiện các giải pháp sau: 3.1.1. Môi trường - thể chế Giữ vững ổn định chính trị, kiên trì đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế, tiếp tục hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định chính trị là điều kiện cơ bản để ổn định các chính sách kinh tế, nhằm mục tiêu tăng cường hợp tác và hội nhập khu vực. Cùng với đó là chính sách ngoại giao mềm dẻo, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ. Xoá bỏ những rào cản trong qúa trình hợp tác là tạo ra và củng cố môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, không phân biệt đối xử và có tính khuyến khích cao đối với tất cả các chủ thể kinh tế. Đẩy mạnh quá trình đổi mới doanh nghiệp, cổ phần hoá doanh nghiệp, nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính- ngân hàng và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô. 3.1.2. Phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng vật chất - kỹ thuật Tận dụng tốt, tránh để lãng phí các khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ngoài ra phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các nguồn tiềm năng của toàn xã hội, đưa vào giải quyết những công trình trọng điểm. Khẩn trương quy hoạch, phát triển mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại v.v... trong quy hoạch tổng thể phát triển thương mại của từng địa phương và cả nước, đồng thời tìm ra những khu vực địa lý, kinh tế xã hội, có vị trí thuận lợi để xây dựng các đặc khu kinh tế với quy mô thích hợp để tiếp nhận các nguồn vốn và kỹ thuật. 3.1.3. Nguồn nhân lực Chúng ta luôn luôn coi trọng nhân tố con người, phát huy nhân tố con người là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Hiện nay, nhân lực có tay nghề cao là yếu tố hấp dẫn các đối tác nước ngoài, nên phải chú trọng hơn nữa về xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm cân đối giữa các trình độ trong cơ cấu đào tạo. Thông qua các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục, xây dựng các trung tâm đào tạo công nhân lành nghề bậc cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ hiện đại. Vận động các tổ chức quốc tế giúp vốn, kỹ thuật, chuyên gia, giảng viên để thành lập các trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam và cung cấp học bổng du học nước ngoài cho sinh viên Việt Nam. Ngoài ra có chính sách đầu tư và khuyến khích đào tạo ở những ngành mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới ... để nâng cao khả năng thực hành trong quá trình đào tạo. 3.1.4. Chính sách - công cụ Tiếp tục đổi mới chính sách đầu tư và công tác quy hoạch, kế hoạch, khuyến khích thu hút mạnh đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với cơ cấu ngành nghề phù hợp. Khuyến khích đầu tư phát triển các sản phẩm, ngành hàng đang có lợi thế về thị trường và sức cạnh tranh. Áp dụng các biện pháp để nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng hàm lượng khoa học công nghệ. Nâng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường. Tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn trong phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn đa dạng cơ cấu ngành và nâng cao đời sống nông dân. Tranh thủ tối đa nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội quan trọng, đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng, kiểm soát chặt chẽ, không để thất thoát lãng phí và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Xây dựng và cải tạo mạng lưới giao thông nội đô, hệ thống cấp thoát nước và xử lý chất thải, bổ sung đồng thời quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch và các quy chế về phát triển đô thị. Mặt khác là thông qua chiến lược năng lượng quốc gia và quy hoạch phát triển điện năng cần có chính sách khuyến khích thu hút FDI cũng như các nhà đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp và khu chế xuất một cách công khai, minh bạch. Đặc biệt, cần có các thông tin chi tiết về ngành nghề, năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp và các định hướng khuyến khích đầu tư nhằm phát triển liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước. 3.1.5. Giải pháp về đối tác Nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên cả ba góc độ: kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Qua đó lựa chọn, thu hút đối tác đầu tư và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, ưu tiên các thị trường trọng điểm phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, đồng thời tiếp tục duy trì và phát triển các thị trường truyền thống như các nước Đông Âu, Châu Phi và các nước trong khu vực để không phụ thuộc qúa nhiều vào một thị trường nhất định. Từ đó đưa ra các tiêu chí để lựa chọn các nhà đầu tư sao cho có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện theo yêu cầu của các dự án, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. 3.1.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật Phải có môi trường pháp lý ổn định, một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, vận hành hiệu quả phù hợp điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế. Một mặt, nó phải tạo ra cơ sở vững chắc cho việc thực thi, theo hướng tăng cường hợp tác và hội nhập, mặt khác phải thích hợp với điều kiện nước ta, tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng nhưng chặt chẽ, đảm bảo an toàn trật tự cho tất cả các hoạt động kinh tế. Một thực tế là Việt Nam tham gia các công ước quốc tế, ký kết các điều ước quốc tế với các nước hữu quan nhằm bảo đảm tính ổn định, hợp thông lệ quốc tế của hệ thống pháp luật trên tinh thần hội nhập. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt trong việc thẩm định dự án cấp giấy phép và quản lý hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn nước ngoài ở nước ta. 3.1.7. Bộ máy nhà nước - công tác Cán bộ Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy quản lý của cơ quan hành chính Nhà nước. Kiện toàn theo hướng tinh giản và nâng cao chất lượng của các cơ quan trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, không can thiệp trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, khoa học, công minh, xây dựng và hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ. Có cơ chế chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, đãi ngộ những người có đức có tài. 3.2. Một số đề xuất, kiến nghị Trên đây là những giải pháp lớn, hết sức cần thiết cho sự phát triển quan hệ Việt Nam và APEC. Trong khuôn khổ khoá luận, có thể đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế như sau: - Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích về hội nhập kinh tế quốc tế. - Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể về hội nhập kinh tế quốc tế, tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. - Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin thị trường và xúc tiến thương mại, đồng thời nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về thương mại. - Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, cùng với việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động và hoạt động có hiệu quả. - Lập kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học kỹ thuật. - Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong khi triển khai các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước về chính trị, kinh tế... cần phải mở rộng hơn nữa hoạt động đối ngoại nhân dân trên các lĩnh vực: văn hoá nghệ thuật, thể thao, du lịch và giáo dục đào tạo. Nhằm tạo thêm sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, qua đó góp phần xoá bỏ những mặc cảm quá khứ, nhất là những mặc cảm mang tính ý thức hệ. - Nâng cao bản lĩnh và bản sắc văn hoá Việt Nam tránh khỏi nguy cơ “hoà tan” trong quá trình hội nhập quốc tế. - Kiện toàn Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, tích cực thực hiện các cam kết với WTO. - Gắn kết hội nhập kinh tế với nhiệm vụ củng cố quốc phòng an ninh. - Tăng cường kỷ cương pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và chế độ chịu trách nhiệm, loại bỏ những phần tử tha hoá, làm trong sạch Bộ máy Nhà nước. - Hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của quan hệ hợp tác. Như vậy, đối với Việt Nam những giải pháp về quá trình hợp tác APEC đầu tiên và quan trọng nhất là quá trình quản lý và điều tiết của Nhà nước. Cụ thể là việc hoạch định chính sách thương mại tổng thể ở tầm vĩ mô, tạo điều kiện cho môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định, có nguyên tắc, phù hợp với định hướng chiến lược do Nhà nước quy định, không trái với khuôn khổ chung và thực tiễn quốc tế. Điều này bao hàm nhu cầu tăng cường năng lực của hệ thống pháp luật và chính sách phải được công bố trước khi thi hành, công bố rộng rãi cho tất cả các chủ thể tham gia hoạt động thương mại. Tiến đến là áp dụng các giải pháp như đã nêu trên, yêu cầu là phải phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Để các giải pháp được đi vào thực hiện và thực hiện có hiệu quả, đòi hỏi sự nỗ lực và cố gắng của tất cả các ngành, các cấp và toàn thể nhân dân. Cùng với một số ý kiến đề xuất của bản thân, em mong rằng sẽ góp một phần nhỏ vào phát triển của mối quan hệ hợp tác này. KẾT LUẬN Trong gần hai thập kỷ qua, APEC đã đi được một quãng đường tương đối dài và vượt qua không ít khó khăn, thử thách để không ngừng phát triển về mọi mặt, cả về những thành tựu cũng như hạn chế, ta thấy APEC đã trưởng thành, đã đạt được những thành tựu nổi bật, ngày càng khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thương mại đa phương. Thể hiện vai trò trong việc giải quyết vấn đề chung của cộng đồng, đặc biệt là các vấn đề kinh tế của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, vì từ rất sớm, các nhà lãnh đạo APEC đã nhìn thấy triển vọng của một cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương, ngay trong tuyên bố Xiatơn năm 1993 đã lần đầu tiên chính thức đề cập đến một Cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương “an toàn, ổn định và thịnh vượng”. Mang lại lợi ích cho tất cả các thành viên trong cộng đồng. Mặc dù trong quá trình tồn tại APEC đã từng rơi vào tình thế khó khăn, thậm chí ở mức độ tồi tệ, nhưng hiện nay giai đoạn đó đã qua đi và APEC đang trên đà phát triển mới, ngày càng trở nên toàn diện hơn. Về phía Việt Nam, việc tham gia APEC đã giúp chúng ta tận dụng được sức mạnh mọi mặt của APEC để mở rộng và đa dạng hoá quan hệ quốc tế, đồng thời giúp Việt Nam tham gia vào “luật chơi” chung để nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam, là quá trình hợp tác và đấu tranh cùng tồn tại hoà bình. Trong thời gian qua, chúng ta đã rất cố gắng, các nước APEC cũng đánh giá cao tiến trình hội nhập APEC của Việ Nam. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước cần phải thúc đẩy hơn nữa tiến trình hội nhập trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của APEC. Để APEC ngày càng được củng cố và phát triển, nâng cao hơn nữa sức sống, sự năng động, uy tín của APEC và khu vực châu Á Thái Bình Dương “an toàn, ổn định và thịnh vượng”, Việt Nam cùng với các nước thành viên tích cực hợp tác, hỗ trợ nhau về mọi mặt về những quyền lợi chung, vì an ninh, hợp tác và phát triển, trong đó Việt Nam luôn luôn mong muốn và sẽ có những đóng góp xứng đáng vào những thành công chung của APEC, đồng thời thể hiện uy tín, vị thế và sẵn sàng tham gia hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trước yêu cầu đó, Khoá luận đã làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của mối quan hệ Việt Nam - APEC, từ đó hiểu rõ hơn về Diễn đàn này và thấy được thực trạng kinh tế nước nhà. Hơn nữa, Khoá luận còn chỉ ra những vấn đề cần phải giải quyết, các giải pháp và mối liên hệ, tác động qua lại của quá trình hội nhập APEC. Căn cứ vào thực tiễn mà em xin mạnh dạn đưa ra đề xuất những việc cấp thiết phải làm trong thời gian tới nhằm đẩy mạnh phát triển mối quan hệ hợp tác này, đưa đất nước phát triển. Về tổng thể, đã cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn về tình hình kinh tế và tiến trình hội nhập quốc tế cũng như APEC. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (102).doc
Tài liệu liên quan