Khóa luận Malaysia, quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Malaysia những năm gần đây

Trước hết, các doanh nghiệp cần nắm rõ, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lơi. Sự thành công tới đâu trong quá trình này là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc, vì sự sống còn của mình. Tư tưởng trông chờ vào Nhà nước hỗ trợ tất yếu sẽ dẫn tới sự đào thải. Trong quá trình cạnh tranh vươn lên này, Nhà nước sẽ hỗ trợ thích đáng cho các doanh nghiệp, nhưng sự hỗ trợ đó phải có chọn lọc, có điều kiện, có thời gian. Như vậy, con đường tất yếu cho các doanh nghiệp là kết hợp chặt chẽ sản xuất với kinh doanh. Mỗi đơn vị cần có chiến lược riêng cho mình. Một mặt quy hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, ưu tiên tập trung đầu tư cho sản xuất các mặt hàng chủ lực có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh của đơn vị, của địa phương mình. Không nên đầu tư dàn trải, cần chuyên sâu theo thế mạnh. Một mặt cần đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, khai thác lợi thế từ các cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư. Kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước. Xem thị trường trong nước là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Cần nghiên cứu, nắm vững cam kết cụ thể của giữa hai nước về vấn đề ưu đãi thuế quan, các cam kết cắt giảm hạn ngạch, chế độ giấy phép, thủ tụcvà chế độ hải quan, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm dịch động thực vật,. Từng bước cải thiện chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể là: cải tiến phương thức quản lý hoạt động, đăc biệt là quản lý tài chính, quản lý các yếu tố đầu vào nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn; đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp; nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mở rộng mạng lưới tiếp thị; quản lý chất lượng sản phẩm trước, trong và sau giai đoạn sản xuất. Đặc biệt các sản phẩm của doanh nghiệp phấn đấu đạt chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, cải tiến chất lượng bao bì và nhất thiết các sản phẩm phải thực hiện mã vạch.

doc89 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1670 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Malaysia, quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Malaysia những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quâ hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các cấp, các ngành và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình, không có vũ khí hạt nhân, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu á , châu Phi, Trung Đông và Mỹ Latinh, các nước trong phong trào không liên kết, ủng hộ lẫn nhau cùng phát triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương. Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh nhằm loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và mọi phương tiện chiến tranh hiện đại khác giết người hàng loạt, bảo vệ hoà bình, chống nguy cơ chiến tranh; tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lựa chọn con đường phát triển của mỗi dân tộc trên thế giới; góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song phương và đa phương với các với các tổ chức nhân dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới. Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam những năm tới: Về xuất nhập khẩu: Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm tăng nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mạnh các thị trường mới. Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính,... Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm khoảng 114 tỷ USD, tăng 16% mỗi năm. Nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 15,9%; trong đó, nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp tăng bình quân hàng năm 22%. Nhóm hàng nông lâm, thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hằng năm 16,2%. Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm khoảng 118 tỷ USD, tăng bình quân hằng năm 15%, trong đó nhóm hàng máy móc, thiệt bị và phụ tùng chiếm 32,6% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng bình quân hàng năm 17,2%; nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu chiếm 63,5%, tăng bình quân hàng năm 13,9%; nhóm hàng tiêu dùng chiếm khoảng 3,9% bằng 5 năm trước. Về thu hút đầu tư nước ngoài: Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm. Tập trung thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; tiếp tục nghiên cứu đề án xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5 năm. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Định hướng trong năm này dành khoảng 15% vốn ODA vào các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, nông thôn, xoá đói giảm nghèo; khoảng 25% cho các ngành năng lượng và công nghiệp; khoảng 25% cho các ngành giao thông, bưu điện, cấp, thoát nước và đô thị. Coi trọng sử dụng vốn ODA trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Ngoài ra cần tăng cường đầu tư ra nước ngoài; phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ; du lịch và các dịch vụ khác. b. Triển vọng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Malaysia trong những năm tới I. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại song phương Điểm chung nổi bật trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và Malaysia là quan điểm hoà bình, ổn định, tăng cường hợp tác quốc tế vì sự phồn vinh của các dân tộc trên cơ sở không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về kinh tế đối ngoại, tích cực mở rộng các mối quan hệ thương mại song phương và chủ động hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt coi trọng hợp tác kinh tế trong khu vực ASEAN. Đó là tiếng nói chung, là nền tảng hết sức quan trọng tạo điều kiện cho việc duy trì và phát triển quan hệ thương mại song phương giữa hai nước. Malaysia là một trong những thị trường truyền thống của Việt Nam, có nhiều nét tương đồng về phong tục tập quán, vị trí địa lý gần gũi thuận tiện cho vận chuyển, giao dịch, khả năng đẩy mạnh hơn nữa quan hệ ngoại thương giữa hai nước là rất khả quan. Trong cuộc họp Uỷ ban hỗn hợp hai nước vừa được tổ chức tại Kuala Lumpur tháng 3 vừa qua, hai bên đã đạt được nhiều thoả thuận quan trọng trong các lĩnh vực, mở ra triển vọng hợp tác nhiều mặt, đặc biệt là kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật. Điều này góp phần tác động vào việc tạo ra một giại đoạn phát triển mới bền vững và tốt đẹp hơn cho Việt Nam và Malaysia. Triển vọng xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của ta vào thị trường Malaysia: Lạc nhân: Hàng năm ta bán khoảng 3000 - 5000 tấn lạc nhân sang Malaysia. Tuy nhiên lạc của ta có hạn chế: Phẩm chất không đồng đều so với lạc Trung Quốc, ấn Độ; độ ẩm khống chế chưa tốt, có khi vượt mức 9% cho nên dễ bị mốc trong quá trình vận chuyển, hàm lượng aflatoxin có khi vượt mức 5 PPB, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Malaysia có nhu cầu lớn về hạt có dầu như: lạc nhân, hạt hướng dương, vừng, olive,... Trong đó nhu cầu về lạc nhân là lớn nhất. Lạc nhân được dùng trong bữa ăn hàng ngày, làm bánh kẹo, làm bơ thực vật. Hàng năm, vào thàng lễ ăn chay Ramada của Hồi, người ta ăn lạc nhiều để thay cho thịt. Dự tính từ nay đến năm 2010, ta có thể bán10 000 tấn mỗi năm vào thị trường này. Để đạt được mục tiêu này, các doanh nghiệp Việt Nam phải khắc phục được các nhược điểm nêu trên của mặt hàng này và khi có tranh chấp phải có thái độ hợp tác để giải quyết ổn thoả, giữ quan hệ bạn hàng. Mặt khác ta phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và ấn Độ. Gạo: Malaysia xác định sản xuất lúa gạo cũng là ngành kinh tế trụ cột vì có khoảng 300 000 nông dân sống dựa vào trồng lúa. Bạn mới tự túc được khoảng 70% nhu cầu, khoảng 1 triệu tấn. Trước năm 1990, bạn chủ yếu nhập từ Thailan và một số ít từ Pakistan, ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ. Từ năm 1991, thực hiện chủ trương đa dạng hóa nguồn cung cấp gạo, tránh lệ thuộc nhiều vào Thailan, bạn đã mua gạo của ta. Từ đó, hàng năm bạn mua khoảng 150 - 200 ngàn tấn/năm có năm lên tới 250 ngàn tấn. Đầu mối mua gạo của Malaysia là BERNAS và của ta là VINAFOOD 2. Tương lai ta vẫn có thể tiếp tục bán gạo sang thị trường này. Tháng 9/2001, nhân chuyến sang Hà Nội dự kỳ họp Bộ trưởng kinh tế ASEM và ASEAN, Bà Bộ trưởng Công thương Malaysia Rafidah Aziz, BERNAS, VINAFOOD 2 và VOCARIMEX đã thống nhất ký kết Thoả thuận buôn bán hai chiều. Theo đó VINAFOOD 2 đã cung cấp khoảng 24000 tấn gạo Việt Nam (gồm cả loại gạo thơm cao cấp) với trị giá khoảng 5 triệu USD và BERNAS đã cung cấp 2000 tấn/tháng các loại dầu cọ cho VOCARIMEX trong 6 tháng từ 01/10/2001 đến 31/3/2001. Cao su thiên nhiên: Từ những năm 80 trở về trước, Malaysia luôn đứng đầu thế giới về cao su thiên nhiên. Sông do chủ trương phát triển cây cọ dầu hiệu quả hơn, nên sản lượng cao su hiện nay chỉ còn khoảng 1 triệu tấn/năm (giảm 6%/năm), đứng thứ 3 sau Thailan và Indonesia, xuất khẩu mặt hàng này cũng giảm 10%/năm. Malaysia chuyển sang nhập khẩu một phần mặt hàng này từ các nước, trong đó có Việt Nam. Có năm lượng cao su nhập khẩu đạt 130 000 tấn, trong đó nhập từ Việt Nam khoảng 14 000 tấn, chiếm 11%, và bạn chủ yếu mua qua thị trường Singapore. Do phẩm cấp cao su của ta chưa đạt yêu cầu quốc tế nên sau khi mua về, Malaysia tái chế để tái xuất với giá cao hơn. Như vậy nếu Việt Nam cố gắng xuất trực tiếp, thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cao su sang Malaysia sẽ tăng hơn nhiều. Thịt lợn, thịt bò: Malaysia theo đạo Hồi, 51% dân không ăn thịt lợn, chỉ có khoảng 35% dân số người Hoa ăn thịt lợn. Nhu cầu bình quân 24 - 25 kg/người/năm. Dự kiến đến 2010, nhu cầu tiêu thụ của cả nước khoảng 520 000 tấn. Như vậy ta có thể xuất khẩu thịt lợn sang thị trường này. Về thịt bò, hàng năm bạn có nhu cầu khoảng 70 000 tấn trong khi đó sản xuất trong nước chỉ đạt 20 000 tấn, dự kiến năm 2010 nhu cầu sẽ lên tới 192 000 tấn. Như vậy triển vọng thị trường đối với mặt hàng này là rất khả quan. Vissan đã xuất thịt bò sang Malaysia. Tuy nhiên, thịt bò nhập khẩu vào Malaysia phải tuân thủ một quy trình kiểm tra ngặt nghèo và Cơ quan thú y Malaysia sẽ kiểm tra và cấp giấy phép ngay tại cơ sở giết mổ. Dừa:Do Malaysia có chính sách tập trung phát triển một số cây công nghiệp chủ yếu là dầu cọ, cao su và ca cao nên dừa được trồng rất hạn chế. Do đó hàng năm Malaysia phải nhập khẩu một lượng khá lớn, lên tới 300 000 USD. Dừa được sử dụng rộng rãi trong bữa ăn hàng ngày, nấu bánh kẹo, nước uống. Như vậy mặt hàng này ta cũng có thể xuất sang Malalaysia nhưng giá cả phải hợp lý. Hải sản: Nhu cầu tiêu thụ hải sản tại Malaysia ngày một tăng, hiện đang ở mức 45kg/người/năm, dự báo năm 2010 tăng lên mức 61 kg/năm. Mặt hàng này đã và đang là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta sang thị trường này. Hàng điện tử: Malaysia đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu linh kiện điện tử (sau Mỹ và Nhật). Các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Malaysia tại Việt Nam đã sản xuất nhiều chi tiết linh kiện và là các vệ tinh cho ngành công nghiệp điện tử Malaysia. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng tăng trong dài hạn. Ước tính kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng chính của Việt Nam với Malaysia năm 2002: (Đơn vị tính: triệu USD) Xuất khẩu sang Malaysia Nhập khẩu từ Malaysia Mặt hàng Kim ngạch Mặt hàng Kim ngạch Cà phê Cao su Dầu thô Gạo Giầy dép Hải sản Dệt may Hạt tiêu Lạc nhân LK điện tử 3,5 5,0 200 50 3,0 15 30 2,0 5,0 5,0 Dược phẩm LK điện tử Máy, TBPT Phân bón Xăng dầu Chất dẻo NL NPL dệt may da 3,0 20 15 5,0 50 10 5,0 Tổng kim ngạch 450 500 Nguồn: Bộ Thương mại Dự kiến kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng chính của Việt Nam với Malaysia năm 2003: (Đơn vị tính: triệu USD) Xuất khẩu sang Malaysia Nhập khẩu từ Malaysia Mặt hàng Kim ngạch Mặt hàng Kim ngạch Cà phê Cao su Dầu thô Gạo Giầy dép Hải sản Dệt may Hạt tiêu Lạc nhân LK điện tử 3,5 5,0 200 50 5,0 20 30 2,0 5,0 10,0 Dược phẩm LK điện tử Máy, TBPT Phân bón Xăng dầu Chất dẻo NL NPL dệt may da 3,0 25 20 5,0 70 10 10 Tổng kim ngạch 500 550 Nguồn: Bộ Thương mại. II. Triển vọng đầu tư của Malaysia vào Việt Nam Mặc dù còn một số hạn chế nhưng hiện nay Malaysia vẫn xem Việt Nam như là một đối tác đầu tư thích hợp và đáng tin cậy trong khu vực ASEAN. Nguyên nhân không chỉ vì nền kinh tế Malaysia có tính chất bổ sung đối với nền kinh tế Việt Nam mà còn vì môi trường đầu tư của ta cũng có những thuận lợi nhất định. Đó là: Trước hết là sự ổn định về chính trị; Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, được củng cố từ Trung ương tới địa phương, được sự ủng hộ nhiệt tình của quần chúng nhân dân tạo môi trường chính trị ổn định lâu dài cho các hoạt động đầu tư nước ngoài. Về môi trường pháp lý: Luật đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được ban hành năm 1987 không tránh khỏi tình trạng chưa hoàn thiện, còn sơ hở và ít hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, chúng ta đã bổ sung và hoàn thiện dần, bước đầu lôi cuốn được các nhà đầu tư. Đến thời điểm này, nếu so sánh với các nước ASEAN khác thì Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã đạt tới mức độ tương đối hấp dẫn. Về trình độ và tiềm năng phát triển kinh tế: Đến nay, chúng ta thừa nhận nền kinh tế Việt Nam còn đang ở trình độ kém phát triển hơn các nước ASEAN khác. Tuy vậy, khi xem xét những thành quả mà Việt Nam đạt được trong những năm gần đây, đã có nhiều ý kiến đánh giá cao tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam. Không những thế, nhiều người còn đặt sự quan tâm đến vị trí địa lý và vị thế chính trị khá thuận lợi của Việt Nam. Về nhân tố lao động: Việt Nam là một nước có lực lượng lao động rất dồi dào về số lượng, có trình độ tiên tiến. Trong điều kiện sản xuất như hiện nay, về cơ bản người lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương thấp hơn các nước ASEAN khác. Hơn nữa, người lao động Việt Nam nói chung đều có ý thức tuân thủ kỷ cương kỷ luật lao động, ít có đình công, bãi công tự do. Đây là một trong những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư. Về dung lượng thị trường: Hiện nay, nhiều nhà đầu tư xếp Việt Nam là một trong những thị trường lớn trong khu vực (thị trường tiềm năng). Họ cho rằng: với vị trí địa lý khá thuận tiện của Việt Nam, đầu tư vào đây không những là đã tiếp cận được nhu cầu của một thị trường hơn gần 80 triệu người ở nước sở tại mà còn là địa bàn để cung cấp hàng hoá cho một số thị trường láng giềng như Lào, Campuchia, Myanma và vùng Tây - Nam Trung Quốc. Sở dĩ họ đánh giá như vậy vì: Thị trường Việt Nam và các nước lân cận đều là thị trường chứa đựng những nhu cầu lớn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mặc dù hiện nay thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp nhưng trong tương lai, khu vực này sẽ là một thị trường có khả năng thanh toán không nhỏ. Như vậy thị trường Việt Nam là thị trường có triển vọng trong tương lai. Với những ưu điểm trên, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào khả năng thu hút của môi trường đầu tư Việt Nam đối với các nhà đầu tư Malaysia trong những năm tới. ã Trong chương trình xúc tiến thương mại được tổ chức vào tháng 8 - 2002, 42 doanh nhân và quan chức Malaysia do ông Kerk Choo Ting -Thứ trưởng Bộ ngoại thương và công nghiệp dẫn đầu đã có mặt tại Việt Nam. Ngoài việc tìm kiếm thị trường mới, chính phủ Malaysia muốn kêu gọi hợp tác đầu tư với Việt Nam trong một số lĩnh vực. Hiện nay Malaysia là một trong những nước có vốn đầu tư lớn tại Việt Nam, tham gia vào nhiều lĩnh vực từ ngân hàng, khách sạn, dầu khí đến xây dựng, xử lý chất thải và sản xuất công nghiệp,...Tuy nhiên như ông K.C.Ting nhận định, còn nhiều lĩnh vực khác có tiềm năng chưa được hai bên khai thác như sản xuất trang trí nội thất, y tế, giáo dục và đào tạo, xây dựng và du lịch...Cũng như Việt Nam, Malaysia có thế mạnh trong ngành sản xuất đồ gỗ trang trí nội thất do có lực lượng lao động dồi dào và tay nghề cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Malaysia có lợi thế hơn nhờ thiết lập được một mạng lưới khách hàng với thị trường Mỹ, Châu Âu và Nhật. Do đó, theo ông, các doanh nghiệp Việt Nam nên hợp tác với Malaysia trong lĩnh vực này. Ông cũng cho biết, chính phủ Malaysia quan tâm và có chiến lược phát triển hai lĩnh vực giáo dục đào tạo và y tế, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn muốn chuyển giao những thành tựu của mình của mình cho nước khác. Với 13 trường Đại học và Cao đẳng của Nhà nước và 16 trường Đại học tư nhân với phương tiện hiện đại, Malaysia rất muốn hợp tác với Việt Nam để đào tạo lao động có tay nghề và công nhân kỹ thuật, đặc biệt là mở các trường hoặc trung tâm đào tạo y tế như quản lý bệnh viện, huấn luyện y tá và cả xây dựng bệnh viện. Trên lĩnh vực xây dựng hạ tầng, theo đánh giá của thứ trưởng K.C.Ting, Malaysia có khả năng xây dựng những công trình phức tạp và hiện đại. Sự "chào hàng" này một lần nữa thể hiện thiện chí hợp tác đầu tư và niềm tin của các nhà đầu tư Malaysia đối với Việt Nam. Hy vọng rằng những dự án đầu tư của Malaysia sẽ phục vụ thiết thực cho cho công cuộc hiện đại hoá - công nghiệp hóa đất nước của Việt Nam. III. Triển vọng hợp tác lao động và du lịch 1. Triển vọng về xuất khẩu lao động Việt Nam sang Malaysia Theo nhận định của các chuyên gia, hiện tại cũng như nhiều năm tới Malaysia là thị trường có nhu cầu lớn về lao động nước ngoài, đặc biệt trong một số lĩnh vực như công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ, và một số ngành nghề đòi hỏi có tay nghề chuyên môn cao. Với khoảng cách gần ta, khí hậu và điều kiện sinh hoạt không có sự khác biệt nhiều, đây là một thị trường có tiềm năng lớn của lao động Việt Nam. Mặc dù, mức thu nhập không cao như các nước Đông Bắc á, song với mức chi phí trước khi đi thấp, yêu cầu về tay nghề và chuyên môn ở mức độ vừa phải, thị trường này khá phù hợp cho đại bộ phận lao động khu vực nông thôn Việt Nam. Nếu ta thực hiện tốt công tác tạo nguồn để đáp ứng yêu cầu của bạn, có thể thực hiện gấp đôi dự kiến đề ra là trong năm 2002 đưa được 5000 lao động sang Malaysia. Đặc biệt là sau khi ký Thoả thuận chính thức, chúng ta tin rằng Malaysia trở thành một thị trường lớn của lao động Việt Nam. 2. Triển vọng về hợp tác du lịch giữa Việt Nam và Malaysia Ngày 1 - 10 - 2002, Bộ trưởng Văn hóa - Nghệ thuật và Du lịch Malaysia ông Dato Paduka Abduk Kadir đã sang thăm và làm việc tại Việt Nam. Trong buổi làm việc Tổng cục trưởng Võ thị Thắng và ông D.P.A.Kadir đề cập đến những nội dung ghi trong Hiệp định hợp tác Du lịch hai bên ký kết từ năm 1994 đến nay đã và đang được thực hiện và một số nội dung chưa đáp ứng yêu cầu của hai bên. Malaysia rất quan tâm đến phát triển du lịch, đặc biệt là loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hoá và du lịch biển. Malaysia có nhiều chính sách tạo điều kiện cho du lịch phát triển như đầu tư kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất cho du lịch, đẩy mạnh xúc tiến quảng bá ở các thị trường gần rất thành công. Đến nay Malaysia đã miễn thị thực cho hầu hết các nước trên thế giới, với thời gian tối thiểu là 7 ngày. Tại buổi làm việc này, Tổng cục trưởng Võ thị Thắng đề nghị Malaysia sớm ký chương trình hợp tác ngắn hạn Việt Nam - Malaysia (giai đoạn 2002 - 2005). Tổ chức chương trình giới thiệu du lịch Việt Nam tại Malaysia. Hai bên phối hợp tổ chức cho các hãng báo chí nước ngoài vào Malaysia và Việt Nam để giới thiệu du lịch hai nước. Malaysia có nhiều kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, đề nghị Malaysia hỗ trợ Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch cụ thể: đào tạo tiếng Anh; kỹ năng quản lý khu tuyến điểm du lịch và đặc biệt kinh nghiệm tổ chức năm du lịch. Cử đoàn cấp cao hai bên trao đổi kinh nghiệm thực tiễn. Bộ trưởng Văn hoá - Nghệ thuật và Du lịch Malaysia D.P.A.Kadir ghi nhận những ý kiến đề xuất của Việt Nam và chính thức mời 2 viên chức cao cấp của Việt Nam sang thăm Malaysia và trao đổi kinh nghiệm và mong muốn Việt Nam sớm thành lập Hiệp hội Lữ hành, Hiệp hội khách sạn, Hiệp hội các doanh nghiệp du lịch,... giống như mô hình tổ chức của Malaysia để dễ học hỏi kinh nghiệm nhau hơn. Cuộc gặp đã góp phần mở ra một triển vọng mới cho quan hệ hợp tác du lịch giữa hai quốc gia. C. Giải pháp phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Malaysia trong những năm tới I. các giải pháp từ phía Nhà nước 1. Đổi mới chính sách thương mại: 1.1. Đổi mới chính sách chung trong lĩnh vực thương mại: a. Đổi mới chính sách quản lý của Nhà nước đối với hoạt động thương mại Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước, Chính phủ rà soát lại hệ thống chính sách chung (thể hiện ở các Nghị quyết, nghị định, quyết định của Chính phủ) để bổ sung, đổi mới cho phù hợp với điều kiện bên trong và bên ngoài. Tư tưởng chỉ đạo xây dựng chính sách thương mại vĩ mô là bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá xuất nhập khẩu, nhằm đạt được những mục tiêu mà đường lối của Đảng và chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước đã đặt ra, không đi chệch hướng. Đồng thời chính sách thương mại phải thu hút được đầu tư trong nước và ngoài nước, phát huy tính chủ động tích cực của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Để làm được điều đó: - Chính phủ và các bộ, ngành phải xây dựng chiến lược phát triển thương mại trong tổng thể chiến lược chung của nền kinh tế quốc dân. Công tác kế hoạch, quy hoạch phải được coi trọng, xuất phát từ đầu ra để bố trí sắp xếp lại sản xuất, tổ chức vùng kinh tế hợp lý. - Đổi mới quy trình và phương pháp xây dựng chính sách thương mại. Xây dựng chính sách xuất phát từ định hướng chung song phải khảo sát thị trường, nghiên cứu thực tiễn và tham gia ý kiến của các nhà khoa học - những người trực tiếp kinh doanh - để nâng cao hiệu lực và ý nghĩa thực tiễn của chính sách. - Chính sách thương mại phải đảm bảo kết hợp lợi ích của Nhà nước, địa phương và các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự phân công và phối hợp giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành, trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách phải được quy chế hoá và chịu sự giám sát chặt chẽ của Chính phủ. - Tăng cường vai trò hiệu lực của Bộ Thương mại trong lĩnh vực quản lý và điều tiết hoạt động thương mại. Hướng dẫn kịp thời và cụ thể hóa nhanh chóng các chính sách để các đơn vị sản xuất kinh doanh thực hiện củng cố chức năng kiểm tra, giám sát, hoạch định của Bộ Thương mại. - Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý và hoạt động kinh doanh cũng phải được chú ý. Đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và đào thải phải theo một quy định chặt chẽ và có tác dụng kích thích nâng cao năng lực chuyên môn, kiến thức tổng hợp và phẩm chất cao. b. Hoàn thiện chính sách mặt hàng xuất khẩu: Để đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ nhanh, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, cần chuyển đổi cơ cấu hàng hóa theo hướng sau đây: - Chuyển hoàn toàn và chuyển nhanh, mạnh sang hàng chế biến sâu, giảm tới mức tối đa hàng nguyên liệu, và giảm tới mức thấp nhất các hàng sơ chế; nghĩa là chuyển hẳn từ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên sang xuất khẩu giá trị thặng dư. - Phải mở ra các mặt hàng hoàn toàn mới. Một mặt, chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu hàng chế biến đối với các hàng đã có (như chuyển từ dầu thô và khí nguyên liệu sang xăng dầu, nhớt, phân bón, hoá chất; chuyển từ nông sản thô sang nông sản chế biến; chuyển từ lắp ráp điện tử sang chế tạo và xuất khẩu linh kiện...). Mặt khác, cần mở ra các mặt hàng hiện nay chưa có, nhưng có tiềm năng và có triển vọng, phù hợp với xu hướng quốc tế. Đó là các mặt hàng: sản phẩm kỹ thuật điện, sản phẩm điện tử, máy công nghiệp, dịch vụ(du lịch, vận tải, sửa chữa tàu thuỷ, phục vụ dầu khí, phục vụ hàng không...), và các sản phẩm trí tuệ. Trong các sản phẩm trí tuệ, xử lý dữ liệu máy tính điện tử và soạn thảo các chương trình phần mềm ứng dụng trên máy tính điện tử là các lĩnh vực đặc biệt thích hợp với người Việt Nam. c. Chính sách tài trợ và bảo hiểm xuất khẩu Tài trợ hay trợ cấp xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu là một công cụ quan trọng của chính sách ngoaị thương nhằm mục tiêu nâng đỡ xuất khẩu. Đối với nước ta, vấn đề tài trợ xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu cần kết hợp chặt chẽ với chính sách đầu tư nước ngoài (trực tiếp và gián tiếp). Trong thời gian tới tài trợ xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu có thể được thực hiện theo hướng và các hình thức cơ bản sau: - Thành lập tín dụng xuất khẩu, đảm bảo tín dụng và các điều khoản về bảo hiểm cùng với các phương tiện tài trợ cho trước và sau khi giao hàng. - Tài trợ trực tiếp của Nhà nước về vốn dành cho một số doanh nghiệp chuyên xuất khẩu một số sản phẩm nông sản hàng hoá ứ đọng trong nông dân mà thị trường tiêu thụ ở nước ngoài gặp khó khăn. - Hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi hoặc miễn thuế xuất khẩu cho một số hàng hóa ứ đọng lớn trong nông dân mà thị trường tiêu thụ ở nước ngoài gặp khó khăn. - Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi hoặc miễn thuế xuất khẩu cho một số nông sản hàng hoá hoặc sản phẩm chế biến ở những thời điểm cần thiết. - Tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và phát triển khả năng tiếp thị mới bằng cách đẩy mạnh đầu tư nước ngoài. - Trợ cấp cho một số doanh nghiệp xuất khẩu những loại hàng hoá vào thị trường mới, bởi khi xâm nhập vào thị trường mới có nhiều rủi ro hơn xuất khẩu sang các thị trường truyền thống (thị trường mới có thể là mới về sản phẩm hoặc mới về không gian địa lý kinh tế). Vì thế, trợ cấp dưới nhiều hình thức (miễn thuế, lãi suất tín dụng, các biện pháp hỗ trợ về mặt Nhà nước...) để khuyến khích các doanh nghiệp đi vào thị trường mới nhằm mở rộng thị trường mới nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. - Dành nhiều ưu tiên cho các dự án đầu tư vào kết cấu hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu - trước hết là các cảng biển, sân bay, hệ thống giao thông liên quốc gia. - Quy chế hoá và khuyến khích các công ty bảo hiểm và các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thực hiện hàng hoá xuất khẩu. d. Chính sách về cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại: Việc sử dụng cán cân quốc tế và cán cân thương mại với tư cách là công cụ chính sách ngoại thương cần theo hướng phục vụ cho những mục tiêu dài hạn và kết hợp hiệu quả những mục tiêu dài hạn với những mục tiêu ngắn hạn. Vì thế, trong những năm trước mắt việc xử lý cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau: - Cán cân thanh toán quốc tế: Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước công nghiệp hoá chỉ ra rằng, ngày nay, hầu như các nước ở giai đoạn khởi đầu công nghiệp hoá và phát triển kinh tế hiện đại đều gia tăng nợ nước ngoài sau một thời gian mới chững lại và bắt đầu giảm dần. Vấn đề cơ bản không phải là số lượng nợ nước ngoài mà là hiệu quả sử dụng vốn vay nước ngoài và chiến lược đầu tư gắn với chiến lược trả nợ. Đối với Việt Nam, chắc chắn trong những năm tới sẽ được các tổ chức tín dụng - ngân hàng quốc tế và các nước khác cho vay vốn lớn để đầu tư phát triển, nhu cầu vay vốn của Việt Nam hiện nay rất lớn. Việc xử lý cán cân thanh toán quốc tế những năm tới của Nhà nước ta tập trung vào những bước sau: + Tăng nhanh tỷ lệ tích luỹ, tăng cường đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, trước hết là các doanh nghiệp nhỏ. Đặc biệt, phải nâng cao hiệu quả vốn vay tín dụng của nước ngoài và các tổ chức quốc tế. + Chính phủ sớm có một chiến lược quản lý nợ nước ngoài, xác định rõ trách nhiệm vay - để tránh tình trạng cơ sở vay, Nhà nước trả. + Nhà nước sớm ban hành những quy chế chặt chẽ trong việc vay vốn nước ngoài. Mỗi dự án vay vốn nước ngoài của doanh nghiệp phải hướng vào mục tiêu sản xuất, đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu. Khi doanh nghiệp xây dựng phương án trả nợ kèm theo và phải có thế chấp thì ngân hàng mới bảo lãnh. + Các khoản vốn vay nước ngoài do Chính phủ đứng ra vay nhằm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, các công trình trọng điểm cấp Nhà nước... cần phải có chiến lược trả nợ nước ngoài. Cần có kế hoạch trả nợ dần những khoản nợ, nợ đến hạn để bảo đảm uy tín quốc tế, vừa tạo điều kiện tiếp tục vay, vừa khắc phục nguy cơ: thế hệ hôm nay vay nợ để gánh nặng trả nợ cho thế hệ mai sau. - Cán cân thương mại: Cán cân kim ngạch xuất nhập khẩu vừa phản ánh "độ mở" của nền kinh tế, sự tiến triển của quá trình công nghiệp hoá, vừa phản ánh "thể trạng sức khoẻ của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ đơn thuần là xuất siêu hay nhập siêu mà là những mục tiêu phát triển dài hạn. Chấp nhận nhập siêu trong tương lai là phương hướng chiến lược và là vấn đề phương pháp luận của việc xử lý cán cân thương mại của Nhà nước ta hiện nay. Tuy nhiên, để thực hiện được phương pháp đó thì phải có điều kiện và những biện pháp đồng bộ. Đó là: + Xác định đúng cơ cấu hàng nhập khẩu và điều chỉnh lượng hàng nhập khẩu bằng thuế quan theo hướng ưu tiên nhập khẩu vật tư thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ những hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu. + Nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ nhập khẩu thông qua việc Nhà nước tạo môi trường thuận lợi về mọi mặt: hành chính - pháp lý và kinh tế sao cho nền kinh tế luôn luôn ở trạng thái "nóng" nhằm tăng khả năng "hấp thụ" của nền kinh tế. + Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giám định bắt buộc chất lượng hàng nhập khẩu là những thiết bị công nghệ. Khắc phục tình trạng các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị, công nghệ lạc hậu hoặc gía quá cao so với cá nhân, bất chấp hậu quả để lại cho các doanh nghiệp và đất nước. + Cân bằng xuất - nhập mới chỉ là một nửa của vấn đề, nửa còn lại là cân bằng xuất - nhập khẩu trong trạng thái "nóng" của nền kinh tế thì mới tạo thế chuyển sang xuất siêu vững chắc và tăng trưởng nhanh. Mục tiêu đến năm 2005, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của nước ta đạt 232 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 114 tỷ USD, nhập khẩu đạt 118 tỷ USD. 1.2. Đổi mới chính sách công cụ trong lĩnh vực thương mại: a. Các biện pháp cải cách chính sách thuế: - Thực hiện đơn giản hoá các mức thuế suất: Cho đến nay, do trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta còn thấp, các ngành kinh tế chưa đạt được trình độ phát triển đồng đều thể hiện ở những mức độ khác nhau về hiệu quả sản xuất và tỷ lệ lợi nhuận, đòi hỏi những mức độ khác nhau về sự trợ giúp của Nhà nước, về bảo hộ, về điều tiết. Trong điều kiện như vậy, chính sách thuế bị chi phối và chưa thể tính toán các mức thuế suất dựa trên mức lợi nhuận bình quân trong các ngành. Tuy nhiên, việc tham gia vào quá trình hội nhập đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một hệ thống thuế trung lập thể hiện rõ nhất ở việc đơn giản hóa các mức thuế suất để có thể phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh lớn, có thể đạt được hiệu quả sản xuất cao, có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá các nước. Đồng thời một hệ thống thuế trung lập và rõ ràng sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, thực hiện cụ thể đối với từng sắc thuế như sau: + Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, áp dụng một thuế suất thống nhất cho mọi ngành sản xuất, kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. + Chúng ta đã chuyển sang thực hiện thuế giá trị gia tăng (VAT) thay cho thuế doanh thu. Với sự thay đổi này, chúng ta không chỉ khắc phục được tình trạng đánh trùng của thuế doanh thu mà còn cải thiện một cách cơ bản trong việc đơn giản hoá các mức thuế suất. Tuy nhiên, mức thuế xuất thuế VAT cũng cần được nghiên cứu, xác định một cách hợp lý để vừa có tác đông thuận lợi về số thu, vừa tác động một cách hiệu quả tới việc khuyến khích kinh doanh. Ngoài ra, việc ban hành và áp dụng thuế VAT cả đối với hàng nhập khẩu còn tạo điều kiện hạn chế phần giảm thu của ngân sách khi chúng ta phải thực hiện các bước cắt giảm thuế nhập khẩu. - Thực hiện giảm những thuế suất cao: Việc thực hiện cải cách, giảm dần những mức thuế suất cao thực tế sẽ liên quan nhiều đến thuế nhập khẩu. Khi thực hiện vấn đề này các mức thuế suất cần được nghiên cứu, sửa đổi một cách hợp lý để phù hợp với trình độ phát triển kinh tế hiện nay của các ngành sản xuất trong nước, phải căn cứ trên sự phân tích thị trường và chiến lược, khả năng sản xuất của các ngành. - Hoàn thiện công tác quản lý thuế: Việc thực hiện các biện pháp để hoàn thiện công tác quản lý thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc chống thất thu thuế. Trong vấn đề này, cần tập trung chu ý nhất việc quản lý thu thuế đối với những thu nhập được phát sinh từ nước ngoài, tiến hành quản lý đối tượng nộp thuế bằng mã số. Ngoài ra tăng cường chất lượng kiểm tra, thanh tra thuế và tạo môi trường đơn giản, rõ ràng để khuyến khích tuân thủ pháp luật của các đối tượng nộp thuế. Việc hoàn thiện công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu là cần thiết và phải được thực hiện từ khía cạnh tạo ra môt hệ thống quản lý phù hợp với các nước trong khu vực và quốc tế. Hiện nay hệ thống mã số hiện hành của biểu thuế xuất nhập khẩu cần được sửa đổi theo mức 8 số phù hợp với Danh mục biểu thuế chung ASEAN đang được soạn thảo. Nghiên cứu để áp dụng việc xác định trị giá hải quan theo GATT để tránh trốn lậu thuế qua chuyển giá. Đồng thời nghiên cứu để áp dụng các mức thuế suất ưu đãi, thuế suất phổ thông, thuế suất tạm thời,... phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới. b. Các biện pháp bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và chính sách công cụ phi thuế quan: Việc bảo hộ sản xuất trong nước cần được tiến hành một cách hợp lý, đồng thời với việc thực hiện những cam kết về cắt bỏ bảo hộ một cách từ từ để đảm bảo cho các nhà sản xuất trong nước có thể quen dần với môi trường không có bảo hộ, trên cơ sở từng bước thực hiện các vấn đề sau: - Xác định cụ thể chính sách bảo hộ sản xuất trong nước với các yêu cầu về mức độ và thời gian bảo hộ thích hợp cho từng nghành sản xuất, phù hợp với chiến lược ưu tiên phát triển ngành. - Trên cơ sở những yêu cầu về mức độ bảo hộ, xây dựng tiến trình cắt giảm thuế quan cho các mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời một cách thích hợp, theo hướng những mặt hàng nào cần được bảo hộ ở mức cao nhất sẽ được đưa vào cắt giảm thuế sau cùng và những mặt hàng không cần bảo hộ sẽ được cắt giảm thuế sớm hơn. - Phối hợp việc cắt giảm thuế với việc loại bỏ các rào cản phi thuế quan một cách linh hoạt và thích hợp để có thể duy trì bảo hộ cho các ngành sản xuất trong những trường hợp cần thiết. Đồng thời với việc xác định chính sách bảo hộ, cần gấp rút triển khai việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các biện pháp phi thuế quan hữu hiệu, phù hợp và được thông lệ quốc tế cho phép. c. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách thủ tục hành chính quốc gia: - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế ngoại thương phù hợp với pháp luật và thông lệ thương mại quốc tế. Việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách ngoại thương phải gắn liền với việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật kinh tế ngoại thương. Hiện nay, để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động ngoại thương cần xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý sau: + Quy chế về mở cửa hàng, lập chi nhánh công ty ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. + Quy chế về hội chợ, triển lãm và quảng cáo thương mại trong và ngoài nước. + Quy chế về quá cảnh hàng hoá. + Rà soát lại Luật Hải quan và các văn bản quy định dưới luật vì một số điều khoản của Luật này còn cản trở các hoạt động ngoại thương, chưa khuyến khích xuất, nhập khẩu. - Tăng cường sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành trong việc hoạch định chính sách, cơ chế và xây dựng các văn bản pháp luật về ngoại thương. Sự đơn phương và riêng rẽ của một số Bộ, ngành trong việc ban hành các văn bản pháp lý cũng như quyết định điều hành vĩ mô sản xuất - kinh doanh của các ngành có liên quan đến định hướng chiến lước công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu đã một mặt chỉ tính đến lợi ích toàn cục của nền kinh tế. Mặt khác, làm giảm hiệu quả của chính các văn bản pháp lý đó. Vì thế, tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng quản lý nhà nước trong việc ban hành các văn bản pháp lý, chính sách và các quyết định quản lý, điều hành vĩ mô các hoạt động ngoại thương...được coi là một điều kiện, biện pháp vĩ mô để tiếp tục hoàn chỉnh các công cụ chính sách ngoại thương. - Tiếp tục giảm bớt các thủ tục hành chính nhằm cải cách một bước nền hành chính nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương. Trong thời gian tới, nhằm cải cách một bước nền hành chính nhà nước, trước hết là cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đưa công tác quản lý hành chính quốc gia trong lĩnh vực ngoại thương vào nền nếp, quản lý bằng pháp luật, Bộ thương mại cần thực hiện những việc sau: +Tiếp tục rà soát các quy định hiện hành trong chính sách và cơ chế quản lý để trình Chính phủ hoặc Bộ quyết định nhằm loại bỏ những thủ tục hành chính không phù hợp. + Bãi bỏ tiếp một số thủ tục hành chính đang còn tồn tại nhưng không cần thiết, cần tiếp tục nghiên cứu xử lý như: cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, giao chỉ tiêu xuất nhập khẩu các mặt hàng định hướng. 2. Đẩy mạnh các giải pháp về tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp từ Malaysia Trong các nước ASEAN, nền kinh tế Malaysia có tính chất bổ sung đối với nền kinh tế Việt Nam hơn cả. Vì các quốc gia có trình độ phát triển thấp hơn của khối này như Thailan, Indonesia, Phillipin hiện nay còn có nhiều ngành có lợi thế so sánh giống Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, một số ngành công nghiệp nhẹ (giày, quần áo, dụng cụ thể thao,...). Các nước ASEAN sẽ hạn chế đầu tư vào các ngành đó tại Việt Nam. Do vậy, việc thu hút đầu tư từ Malaysia là cơ hội đồng thời cũng là một thách thức đối với Việt Nam. Để tăng cường thu hút đầu tư cần tiến hành một số biện pháp sau đây. 2.1. Mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư: Ngoài các hình thức đầu tư trực tiếp như luật hiện nay quy định có thể áp dụng các hình thức như: + Công ty cổ phần trong nước có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là loại hình công ty phổ biến trên thế giới và được áp dụng ở nhiều nước Đông Nam á. So với công ty trách nhiện hữu hạn, loại hình này có lợi thế về huy động vốn và giảm rủi ro. + Cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư cho rằng, các doanh nghiệp liên doanh không được phép huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, chứng khoán là qui định quá cứng nhắc và gây bất lợi cho phía Việt Nam. Cổ phần hoá sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam mua cổ phần, nâng tỷ lệ góp vốn của phia Việt Nam. + Nhà đầu tư tự do lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với các yêu cầu của mình. 2.2. Cải cách thủ tục hành chính: Cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cải cách thủ tục hành chính, khắc phục sự trì trệ trong các cơ quan quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc "một cửa". Các cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo đồng thời thay mặt nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi đăng ký. Về hồ sơ đăng ký cấp giấy phép đầu tư, các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần có. Để tạo điều kiện cho việc triển khai dự án nhanh sau khi được cấp giấy phép đầu tư, nhà nước giải quyết nhanh chóng các thủ tục: + Thủ tục cấp đất: Sở địa chính ở các tỉnh, thành phố chỉ tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính một lần và đơn giản hoá mọi thủ tục khác về đất đai. Đồng thời đề nghị tổng cục địa chính và các cơ quan hữu quan soạn thảo các quy định về giải phóng mặt bằng, về đền bù cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như quy định về chuyển quyền sử dụng đất. + Thủ tục quản lý xây dựng cơ bản theo thiết kế đã đăng ký cần được tổ chức chặt chẽ nhưng không được can thiệp quá sâu. Cơ quan nhà nước quản lý xây dựng cơ bản cần thực hiên đúng chức năng, thẩm quyền của mình, đồng thời cải tiến các thủ tục theo hương gọn, nhẹ và hiệu quả. 2.3. Tu sửa và xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Kết cấu hạ tầng giữ vai trò quan trọng, nó tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, qua đó quyết định sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế đặc biệt là công nghiệp xây dựng và dịch vụ, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Vì vậy cần tập trung cho việc tu bổ và xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các vùng trọng điểm, quyết định tới tăng trưởng kinh tế. Chúng ta phải nhanh chóng có những quy chế ưu đãi rõ ràng cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm để hình thức này nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai thực hiện, góp phần hỗ trợ vốn đầu tư cho ngân sách. Bên cạnh đó khuyến khích đầu tư xây dựng cho công nghiệp, khu chế xuất và đặc biệt là tương lai là xây dựng các đặc khu kinh tế để cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng. 2.4. Quy hoạch thu hút vốn FDI Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần nhanh chóng lập quy hoạch các ngành, lãnh thổ cơ cấu kinh tế thống nhất trên phạm vi cả nước. Trước hết, cần khẩn trương quy hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng như: chế biến thực phẩm, dệt, may; công nghiệp chế tạo như: cơ khí, hoá chất, điện tử, vật liệu xây dựng, sản xuất ôtô, xe máy, đóng tàu; công nghiệp lọc hoá dầu; công nghiệp luyện kim; công nghệ thông tin. Trên cơ sở đó xác định các dự án trong nước có thể kêu gọi đầu tư theo ngành và lãnh thổ cũng như xác định yêu cầu tương ứng về công nghệ thiết bị. 3. Các giải pháp thúc đẩy hợp tác du lịch và lao động: 3.1. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động sang Malaysia: Malaysia là thị trường còn mới mẻ, để có thể hợp tác bền vững Nhà nước cần thực hiện kịp thời một số giải pháp sau: - Chuẩn bị đủ nguồn lao động phù hợp với yêu cầu của thị trường. - Có chính sách đặc thù hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp, bao gồm giảm bớt các chi phí trước khi đi cho người lao động, hỗ trợ về tài chính, đào tạo, thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. - Tổ chức đưa lao động đi một cách chặt chẽ, không làm ồ ạt. - Quản lý chặt chẽ các điều kiện hợp đồng, đảm bảo quyền lợi cho người lao động, cho doanh nghiệp đồng thời đảm bảo tình cạnh tranh của lao động Việt Nam. - Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc đưa lao động đi. Các tổ kiểm tra của Cục quản lý lao động thường xuyên làm việc với các doanh nghiệp, tiếp xúc với người lao động đã được tuyển chọn nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và người lao động thực hiện đúng quy định, phát hiện những thiếu sót của doanh nghiệp để uốn nắn, hướng dẫn và xử lý kịp thời. 3.2. Giải pháp phát triển hợp tác du lịch: Để có thể mở ra một trang mới trong hợp tác du lịch giữa hai nước, ngành du lịch Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp chiến lược sau đây: - Xây dựng và xúc tiến hình ảnh về Du lịch Việt Nam để xác định vị thế trên thị trường du lịch nước bạn. Chẳng hạn như: cho ra đời biểu tượng mới; xây dựng các loại ấn phẩm quảng bá du lịch với nội dung và chất lượng cao; tham gia quảng cáo trên báo, tạp chí ở nứơc bạn; sản xuất một số băng video Du lịch Việt Nam;... - Khuyến khích các doanh nghiệp tích cực quan hệ rộng rãi với các hãng lữ hành nước ngoài. - Tham gia các hội chợ, hội thảo, diễn đàn du lịch tại nước bạn cũng như tự tiến hành tổ chức tại Việt Nam. - Đề nghị Chính phủ có cơ chế hợp lý để mở văn phòng đại du lịch quốc gia tại Malaysia. - Tăng cường quản lý, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan và môi trường du lịch, khuyến khích phát triển du lịch sinh thái, chuyển biến nhận thức về du lịch góp phần quảng bá tại chỗ hiệu quả. - Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên marketing, xúc tiến du lịch. II. Những giải pháp từ phía các doanh nghiệp Trước hết, các doanh nghiệp cần nắm rõ, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lơi. Sự thành công tới đâu trong quá trình này là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc, vì sự sống còn của mình. Tư tưởng trông chờ vào Nhà nước hỗ trợ tất yếu sẽ dẫn tới sự đào thải. Trong quá trình cạnh tranh vươn lên này, Nhà nước sẽ hỗ trợ thích đáng cho các doanh nghiệp, nhưng sự hỗ trợ đó phải có chọn lọc, có điều kiện, có thời gian. Như vậy, con đường tất yếu cho các doanh nghiệp là kết hợp chặt chẽ sản xuất với kinh doanh. Mỗi đơn vị cần có chiến lược riêng cho mình. Một mặt quy hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, ưu tiên tập trung đầu tư cho sản xuất các mặt hàng chủ lực có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh của đơn vị, của địa phương mình. Không nên đầu tư dàn trải, cần chuyên sâu theo thế mạnh. Một mặt cần đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, khai thác lợi thế từ các cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư. Kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước. Xem thị trường trong nước là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Cần nghiên cứu, nắm vững cam kết cụ thể của giữa hai nước về vấn đề ưu đãi thuế quan, các cam kết cắt giảm hạn ngạch, chế độ giấy phép, thủ tụcvà chế độ hải quan, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm dịch động thực vật,... Từng bước cải thiện chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể là: cải tiến phương thức quản lý hoạt động, đăc biệt là quản lý tài chính, quản lý các yếu tố đầu vào nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn; đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp; nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mở rộng mạng lưới tiếp thị; quản lý chất lượng sản phẩm trước, trong và sau giai đoạn sản xuất. Đặc biệt các sản phẩm của doanh nghiệp phấn đấu đạt chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, cải tiến chất lượng bao bì và nhất thiết các sản phẩm phải thực hiện mã vạch. Kết luận Mặc dù bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi về kinh tế, chính trị và quân sự nhưng hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế vẫn là xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia. Với Việt Nam, Malaysia là một đối tác láng giềng quan trọng. Trong khoá luận này, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về đất nước Malaysia và quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Malaysia để có được những giải pháp, định hướng đúng đắn trong phát triển quan hệ hợp tác những năm tới đây. Tác giả đã giới thiệu về đất nước, con người và nền kinh tế Malaysia trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại của Malaysia với các nước trên thế giới nói chung và với các nước ASEAN nói riêng. Qua đó cho thấy, Malaysia là một quốc gia có nền kinh tế mở, năng động và là một thị trường tiềm năng có tính chất bổ sung đối với Việt Nam. Sự gần gũi về địa lý, văn hóa và đường lối đối ngoại là nền tảng vững chắc cho sự hợp tác bền vững về mọi mặt giữa hai quốc gia. Để có thể nhìn nhận chính xác về quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong thời gian qua, tác giả đã phân tích một cách có hệ thống theo hai giai đoạn lớn là trước và sau năm 1995. Đồng thời trên cơ sở chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan của những tồn tại tác giả cũng đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm cải thiện hơn nữa mối quan hệ này. Qua tình hình thực tế cũng như những số liệu thống kê được có thể khẳng định rằng, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Malaysia trong những năm qua đã có được những bước tiến đáng kể, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia cũng như tăng cường ổn định kinh tế chính trị trong khu vực. Mặc dù còn nhiều tồn tại song chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào một tương lai hợp tác chặt chẽ và thân thiết hơn nữa, nhất là khi các chương trình liên kết kinh tế khu vực như AFTA, AIA,... được hoàn thiện mà trong đó Việt Nam và Malaysia luôn là hai người bạn đồng hành. Do thời gian nghiên cứu, phạm vi tài liệu cũng như trình độ người viết còn hạn chế, khoá luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự lượng thứ cũng như những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô, bạn bè và các độc giả. Một lần nữa tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cơ quan, tổ chức và các cá nhân đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp những tài liệu, tư liệu quý báu. Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo Tô Trọng Nghiệp - người đã tận tình chỉ bảo để em có thể hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Kinh tế Malaysia - NXB Khoa học xã hội, 2001. 2. Kinh tế các nớc Đông Nam á, thực trạng và triển vọng - NXB Khoa học xã hội, 2002. 3. Đặc điểm con đờng phát triển kinh tế xã hội của các nớc ASEAN - NXB Khoa học xã hội. 4. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị quốc gia, 2001. 5. Đổi mới để phát triển - NXB Chính trị quốc gia, 2002. 6. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và doanh nghiệp Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia, 2001. 7. Kinh tế thế giới 2001 - 2002, đặc điểm và triển vọng - NXB Chính trị quốc gia, 2002. 8. Tạp chí Thơng mại Việt Nam năm 2000 - NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. 9. Tạp chí Thơng mại - Số 19, T7/ 2002. 10. Tạp chí Kinh tế Sài Gòn - Số 38, 39, T9/ 2002. 11. Báo Du lịch - Tháng 10 năm 2002. 12. Báo Kinh tế quốc tế - Số 2, 22, 25, 27, 46/ 2002 13. Báo nghiên cứu kinh tế - Số 287/ 4 - 02. 14. Báo Kinh tế và dự báo - Số 2/ 2002. 15. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đàm phán Ngoại thơng - Chủ nhiệm: Thạc sĩ Nguyễn Văn Hồng, giảng viên ĐH Ngoại thơng, T9/ 2001. 16. Báo Lao động và xã hội - Số 196, 197,198, 201/ 2002 17. Thời báo Kinh tế Việt Nam - Đặc san: Kinh tế Việt Nam và thế giới 2001- 2001. 18.Malaysia International Trade and Industry Report 2001 - Ministry of International Trade and Industry Malaysia. 19. The Second Outline Perspective Plan 1991 - 2001; Eighth Malaysia Plan 2001 - 2005, Economic Planning Unit, Prime Minister , s Department Malaysia. 20. Malaysia in Brief, 2002 - Information Division Ministry of Foreign affairs, Malaysia. Internet: 21. 22. 23. 24.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan