LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước xu hướng chung của sự phát triển quốc tế là khu vực hóa, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng như các nước khác đang bước nhanh vào tiến trình hội nhập. Quan hệ giữa các quốc gia diễn ra trong điều kiện hết sức đa dạng, khác biệt về bản sắc văn hóa cùng các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội. Hình thành và phát triển trong điều kiện quan hệ quốc tế đó, Điều ước quốc tế (ĐƯQT) có chức năng duy trì và ổn định tương đối trật tự pháp lý quốc tế, giữ gìn quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia, bảo đảm hài hòa lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích quốc gia, đồng thời bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được thực thi và tuân thủ.
Nhận thức được rõ vai trò của điều ước quốc tế trong thời kì các quốc gia trên thế giới đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, chúng ta cũng nhìn nhận được tầm quan trọng của vấn đề ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đối với thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng. Việt Nam – một quốc gia nhỏ, đang phát triển, tiếng nói chưa có sức nặng trên trường quốc tế thì việc làm sao để khi ký kết, thực hiện điều ước quốc tế vừa phù hợp xu hướng quốc tế chung, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia là rất quan trọng. Do đó, vấn đề ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt ra rất cấp thiết. Đây cũng là lí do vì sao tôi chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lí cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Bài khóa luận này tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về điều ước quốc tế của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 trong tương quan với hệ thống pháp luật Việt Nam và Luật điều ước quốc tế (Công ước Viên 1969).
Phân tích những qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế tại Việt Nam. Đưa ra những nhận xét, đánh giá cũng như một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa việc ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong bối cảnh hội nhập trước mắt cũng như trong tương lai.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn.
4. Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế và sơ lược quá trình phát triển của các qui định về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
- Chương II: Các qui định cơ bản của pháp luật Việt Nam về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
- Chương III: Sự tương thích của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 với Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế. Thực trạng ký kết, thực hiện và một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều ước quốc tế ở Việt Nam.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH 3
VỀ KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 3
1. Một số vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế 3
1.1. Khái niệm điều ước quốc tế 3
1.1.1. Về định nghĩa ĐƯQT 3
1.1.2. Về cơ cấu ĐƯQT 6
1.1.3. Về phân loại và ngôn ngữ điều ước quốc tế 7
1.1.4. Hiệu lực của ĐƯQT 8
1.1.5. Về tên gọi của ĐƯQT 10
1.2. Khái niệm luật ĐƯQT 11
1.2.1. Về định nghĩa luật ĐƯQT 11
1.2.2. Về nguyên tắc cơ bản của luật ĐƯQT 12
1.2.3. Nguồn của luật ĐƯQT 13
1.3. Về các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện ĐƯQT 14
1.3.1. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết ĐƯQT 14
1.3.2. Nguyên tắc ĐƯQT phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế 15
1.3.3. Nguyên tắc pasta sunt servanda 15
2. Sơ lược quá trình phát triển của các quy định về ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay 16
2.1. Từ năm 1945 đến trước đổi mới năm 1986 16
2.1. Giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến nay 17
CHƯƠNG II 21
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÍ CƠ BẢN CỦA VIỆT NAM VỀ KÝ KẾT, 21
GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ HIỆN HÀNH 21
1. Vấn đề ký kết, gia nhập ĐƯQT 21
1.1. Về thẩm quyền ký kết, gia nhập ĐƯQT 21
1.2. Quy định về vấn đề hình thành văn bản điều ước 22
1.2.1. Về việc đề xuất đàm phán 23
1.2.2. Về thẩm định ĐƯQT 23
1.2.3. Về đàm phán ĐƯQT 24
1.3. Các qui định về hành vi xác nhận sự ràng buộc đối với một ĐƯQT 25
1.3.1. Về ký ĐƯQT 25
1.3.2. Về hành vi phê chuẩn ĐƯQT 26
1.3.3. Về hành vi phê duyệt ĐƯQT 27
1.3.4. Về trao đổi văn kiện tạo thành ĐƯQT 28
1.3.5. Về gia nhập ĐƯQT 28
1.3.6. Về hiệu lực, áp dụng tạm thời toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT 30
1.3.7. Về lưu chiểu, lưu trữ, sao lục, công bố, đăng kí ĐƯQT 31
2. Về các quy định pháp lý cơ bản về thực hiện ĐƯQT 32
2.1. Về kế hoặch thực hiện ĐƯQT 32
2.2. Về hoạt động giải thích ĐƯQT 32
2.3. Pháp luật Việt Nam cũng dự liệu và điều chỉnh những tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện ĐƯQT 34
2.4. Mối quan hệ giữa ĐƯQT và luật quốc gia 35
CHƯƠNG III 37
SỰ TƯƠNG THÍCH GIỮA LUẬT KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 2005 VỚI CÔNG ƯỚC VIÊN 1969. THỰC TRẠNG KÝ KẾT, THỰC HIỆN VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ NHẰM 37
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM 37
1. Những điểm mới của luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 37
1.1. Những quy định chung 37
1.1.1. Về phạm vi áp dụng 37
1.1.2. Về giải thích từ ngữ 37
1.1.3. Về mối quan hệ giữa ĐƯQT và văn bản quy phạm pháp luật trong nước 38
1.2. Về ký kết ĐƯQT 39
1.3. Về gia nhập ĐƯQT nhiều bên 39
1.4. Về bảo lưu ĐƯQT; hiệu lực áp dụng tạm thời toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT, lưu chiểu, lưu trữ, sao lục, công bố, đăng kí ĐƯQT 40
1.4.1. Về bảo lưu ĐƯQT 40
1.4.2. Về hiệu lực, áp dụng tạm thời toàn bộ hay một phần ĐƯQT 40
1.5. Về thực hiện ĐƯQT 41
1.6. Về trách nhiệm của cơ quan,của tổ chức, của cá nhân trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 41
2. Sự phù hợp của luật 2005 so với Công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT 42
2.1. Về những quy định chung 42
2.1.1. Về phạm vi điều chỉnh 42
2.1.2. Về giải thích từ ngữ 43
2.2. Về ký kết ĐƯQT 44
2.2.1. Về vấn đề uỷ quyền 44
2.2.2. Về xác thực văn bản điều ước 44
2.2.3. Về các hình thức biểu thị sự đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một ĐƯQT với quốc gia 45
2.2.4. Về bảo lưu ĐƯQT 46
2.3. Về thực hiện ĐƯQT 46
3. Thực trạng ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐƯQT ở Việt Nam 47
3.1. Thực trạng ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước ngày luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 có hiệu lực 47
3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945-1986 47
3.1.2. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 có hiệu lực (mồng 1 tháng 1 năm 2006) 49
3.2. Những tồn tại của việc ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ĐƯQT của Việt Nam 50
3.2.1. Về thực tiễn ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 50
3.2.2. Về những quy định của pháp luật Việt Nam trong ký kết,gia nhập và thực hiện ĐƯQT trong luật 2005 51
KẾT LUẬN 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2409 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề pháp lí cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu lực đối với nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được công bố trên công báo của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Niên giám ĐƯQT, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài hoặc có quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong trường hợp có yêu cầu không công bố ĐƯQT, cơ quan đề xuất trình Chính phủ quyết định sau khi lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và các cơ quan tổ chức hữu quan…”
Hoạt động công bố ĐƯQT nhằm minh bạch hóa các văn bản qui phạm pháp luật quốc gia nói riêng và pháp luật quốc tế nói chung, là một trong những yêu cầu của tiến trình hội nhập quốc tế, đưa ĐƯQT đi vào cuộc sống.
Đặc biệt hoạt động đăng kí ĐƯQT tại ban thư kí Liên hợp quốc có ý nghĩa ghi nhận sự công nhận quốc tế của ĐƯQT mà chúng ta đã tham gia. Trong các hoạt động quốc tế chúng ta chỉ có thể viện dẫn quyền và nghĩa vụ thành viên ĐƯQT của mình với các quốc gia khác trên thế giới như một chứng cứ pháp lý khi mà ĐƯQT chúng ta tham gia đã được đăng kí tại Liên hợp quốc. Điều này có nghĩa là việc đăng kí này bản thân nó không làm phát sinh hiệu lực ĐƯQT giữa các thành viên mà nó chỉ đóng vai trò là một ghi nhận quốc tế khi chúng ta cần viện dẫn.
2. Về các quy định pháp lý cơ bản về thực hiện ĐƯQT
ĐƯQT được các quốc gia tôn trọng và thực hiện. Hoạt động thực hiện ĐƯQT đã ký kết và gia nhập diễn ra ngay sau khi ĐƯQT có hiệu lực đối với quốc gia. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh quá trình thực hiện ĐƯQT nhằm nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế.
2.1. Về kế hoặch thực hiện ĐƯQT
Luật 2005 xem xét thực hiện ĐƯQT như là một quá trình, các vấn đề trong đó là một tổng thể thống nhất liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó việc đầu tiên trong thực hiện ĐƯQT mà Nhà nước ta quan tâm là kế hoạch thực hiện ĐƯQT. Mục này gồm 3 điều: Từ Điều 71 đến Điều 73, đề ra kế hoạch đưa ĐƯQT đi vào thực hiện trong thực tế. Cơ quan đề xuất trình Chính phủ quyết định kế hoạch thực hiện ĐƯQT mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, Thủ tướng Chính phủ quyết định kế hoạch thực hiện, sau đó cơ quan đề xuất và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm triển khai thực hiện.
2.2. Về hoạt động giải thích ĐƯQT
Giải thích ĐƯQT là việc xác định tư tưởng và nội dung đích thực của điều ước nhằm mục đích thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nhất các qui định của điều ước. Đây là một phần của quá thực hiện ĐƯQT, được quan tâm không chỉ ở phương diện quốc gia. ĐƯQT phải được giải thích phù hợp với tinh thần, mục đích, nội dung của ĐƯQT và nghĩa thông thường của nhưng thuật ngữ được sử dụng trong ĐƯQT. Giải thích ĐƯQT của chúng ta xẩy ra trong 2 trường hợp: Một là khi có đề nghị giải thích ĐƯQT của bên ký kết nước ngoài, nếu giải thích được các bên chấp nhận thì được coi là có giá trị hiệu lực ràng buộc các bên và có hiệu lực thực thi trong quá trình áp dụng; hai là chúng ta tiến hành giải thích để các tổ chức cơ quan trong nước, các pháp nhân, thể nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam áp dụng phù hợp với pháp luật Việt Nam. Điều 74 quy định các trường hợp giải thích ĐƯQT có ghi nhận cá nhân có quyền đề nghị giải thích. Tuy nhiên các qui định tại Điều 78 về hồ sơ trình, báo cáo về việc giải thích ĐƯQT lại chỉ đề cập tới đề nghị giải thích của “bên kí kết nước ngoài” hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan mà không đề cập tới đề nghị giải thích của “cá nhân”. Tương tự Điều 79 quy định về việc thông báo giải thích ĐƯQT lại tiếp tục bỏ qua “cá nhân”. Đương nhiên qui định tại Điều 79 là hệ quả tất yếu của Điều 78 bởi lẽ trong hồ sơ trình, báo cáo về việc giải thích ĐƯQT không có đề nghị giải thích của cá nhân thì đương nhiên cơ quan đề xuất cũng không phải gửi thông báo về nội dung giải thích cho cá nhân. Như vậy việc quy định cá nhân đề nghị việc giải thích ĐƯQT trong chính bản thân luật có lẽ đã mang tính hình thức nhiều hơn là thực tế.
Các căn cứ để giải thích ĐƯQT bao gồm:
“a. Văn bản ĐƯQT và các phụ lục kèm theo ĐƯQT đó;
b. Thoả thuận có liên quan đến ĐƯQT của toàn bộ thành viên ĐƯQT khi kí kết ĐƯQT đó;
c. Văn kiện có liên quan đến ĐƯQT do thành viên ĐƯQT đưa ra khi kí kết ĐƯQT đó và được các thành viên khác chấp nhận;
d. Thoả thuận về việc giải thích hoặc thực hiện các quy định của ĐƯQT giửa các thành viên ĐƯQT sau khi kí ĐƯQT đó;
đ. Thực tiễn giải thích ĐƯQT được các thành viên ĐƯQT công nhận;
e. Quy định của pháp luật quốc tế được áp dụng trong quan hệ giữa các thành viên của ĐƯQT” (Khoản 2, Điều 75-Luật 2005)
Tại Điều 76 quy định rõ thẩm quyền quyết định việc giải thích ĐƯQT của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và của Chính phủ. Quyết định giải thích ĐƯQT phải được thể hiện bằng văn bản với những nội dung: tên, thời gan và địa điểm ký ĐƯQT được giải thích, nội dung giải thích ĐƯQT, trách nhiệm của cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và các cơ quan tổ chức hữu quan, trình tự thủ tục trình, quyết định giải thích ĐƯQT theo quy định tại Điều 77- Luật 2005. ĐƯQT được giải thích theo các phương pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào các qui định của điều ước về giải thích và hoàn cảnh cụ thể của các bên khi ký kết và thực hiện. Các phương pháp giải thích bao gồm: Giải thích theo văn phạm, giải thích theo logic, giải thích theo lịch sử, giải thích theo thực tiễn và giải thích theo tài liệu trù bị. Hoạt động giải thích ĐƯQT ở nước ta là sự kết hợp của các phương pháp để nhằm mục đích sử dụng ĐƯQT một cách hiệu quả nhất.
2.3. Pháp luật Việt Nam cũng dự liệu và điều chỉnh những tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện ĐƯQT
Luật 2005 có đề cập đến vấn đề sửa đổi, bổ sung gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT, cơ sở của vấn đề này xuất phát từ thực tiễn thực hiện ĐƯQT có nhiều vấn đề phát sinh. Không phải tất cả những nội dung trong điều ước cũng như điều ước lúc nào cũng phù hợp với thực tế. Xã hội luôn vận động thay đổi không ngừng làm cho các điều kiện hoàn cảnh khách quan cũng như chủ quan thay đổi, ĐƯQT muốn phù hợp thì cần sửa đổi bổ sung cho tương thích với hoàn cảnh thực tế cũng như có thể gia hạn để kéo dài hiệu lực ĐƯQT mà không phải ký lại, chúng ta cũng có thể từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ khi nó không còn phù hợp với lợi ích quốc gia thành viên xét trong mối tương quan với lợi ích cộng đồng quốc tế.
Văn bản đề nghị sửa đổi, bổ sung gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ phải nêu được mục đích, yêu cầu, cơ sở pháp lí, nội dung và những hệ quả pháp lí, kèm theo ý kiến của các ban ngành hữu quan về vấn đề này.
Luật 2005 xây dựng kế hoạch thực hiện ĐƯQT gắn liền với tổ chức thực hiện, với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện ĐƯQT như giải thích, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện đã tạo thuận lợi về mặt pháp lý đảm bảo cho các cơ quan có thẩm quyền tăng cường hơn nữa công tác quản lý ĐƯQT, tạo điều kiện cho ĐƯQT được thực thi, phù hợp lợi ích quốc gia và thực tiễn áp dụng.
Các quy định về công bố, giải thích, sửa đổi, bổ sung, gia hạn,…là hoạt động thực hiện ĐƯQT mang tính thủ tục, tạo điều kiện cho ĐƯQT được triển khai trên thực tế một cách tốt nhất. Vấn đề cốt lõi của việc thực hiện ĐƯQT là xử lí mối quan hệ giữa ĐƯQT và luật quốc gia.
2.4. Mối quan hệ giữa ĐƯQT và luật quốc gia
Điều 6 -Luật 2005 quy định như sau:
“1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và ĐƯQT mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của ĐƯQT.
2. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện ĐƯQT mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn dề.
3. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của ĐƯQT, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện, quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT đó.”
Như vậy, chúng ta không nên đặt ra vấn đề ĐƯQT có hiệu lực cao hơn hay Hiến pháp có hiệu lực cao hơn nữa, bởi nếu đặt ra câu hỏi này thì chúng ta sẽ chỉ gây ra những tranh cãi không cần thiết. Chính Nhà nước ( thay mặt quốc gia có chủ quyền) khi tham gia quan hệ quốc tế có vai trò vừa là chủ thể kí kết trong quan hệ với các quốc gia khác, lại vừa là chủ thể thực thi pháp luật trên lãnh thổ của mình. Do vậy nhà nước khi đã ký kết ĐƯQT đương nhiên phải bằng những phương tiện sẵn có của mình (pháp luật quốc gia, bộ máy hành chính, hệ thống cơ quan tư pháp) thực hiện điều ước đã ký kết chứ không nên đặt vấn đề ĐƯQT có hiệu lực cao hơn hay thấp hơn Hiến pháp.
Còn vấn đề nội luật hóa, chúng ta đang sử dụng cả hai phương thức là chuyển hóa trực tiếp và chuyển hóa gián tiếp. Trong thực tiễn Việt Nam hiện nay chúng ta có thể tìm thấy được những ví dụ về trường hợp trong nội luật của ta, bao gồm các quy định tương tự như các quy định của ĐƯQT đã ký kết hoặc gia nhập, và cũng không ít trường hợp các điều khoản của ĐƯQT được áp dụng trực tiếp.
ĐƯQT luôn chiếm vị trí khá đặc biệt trong hệ thống pháp luật quốc gia và nó có ý nghĩa lớn trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật ở từng quốc gia. Vấn đề mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung, ĐƯQT nói riêng với luật quốc gia cũng như vấn đề chuyển hoá ĐƯQT đã ký kết vào pháp luật quốc gia luôn mang tính thời sự, được tranh luận cả trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong thời kì khu vực hoá, toàn cầu hoá này sự tương thích giữa luật quốc tế và luật quốc gia là hết sức cần thiết. Đặc biệt với những quốc gia là thành viên của ĐƯQT thì vấn đề nội luật hoá ĐƯQT là yêu cầu tất yếu để ĐƯQT được thi hành trên thực tế không mâu thuẩn với luật quốc gia. Hoạt động chuyển hoá ĐƯQT rất đa dạng và phức tạp, thực chất của hoạt động này là quá trình tạo môi trường pháp lí - thực tiễn để thực thi có hiệu quả ĐƯQT đã ký kết, gia nhập.
CHƯƠNG III
SỰ TƯƠNG THÍCH GIỮA LUẬT KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 2005 VỚI CÔNG ƯỚC VIÊN 1969. THỰC TRẠNG KÝ KẾT, THỰC HIỆN VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
1. Những điểm mới của luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005
1.1. Những quy định chung
So với pháp lệnh 1998, luật 2005 ở chương 1 có thêm một số nội dung mới có tính nguyên tắc sau:
1.1.1. Về phạm vi áp dụng
Luật 2005 quy định chỉ áp dụng với hai loại ĐƯQT được ký kết, gia nhập nhân danh Nhà Nước và nhân danh Chính phủ (Điều 1).Thoả thuận quốc tế được ký kết nhân danh Bộ, Ngành không được điều chỉnh tại luật này. Các thoả thuận quốc tế này sẽ được điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật mới tương ứng của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ (cụ thể là Pháp lệnh ký kết và thực hiện thoả thuận quốc tế).
1.1.2. Về giải thích từ ngữ
Tại điều 2 - Luật 2005 đã sửa đổi nội dung giải thích một số thuật ngữ trong pháp lệnh năm 1998 cho phù hợp với Công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi 2001) như: ĐƯQT, ký kết, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập, bảo lưu, chấm dứt hiệu lực, huỷ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện ĐƯQT; đồng thời luật cũng giải thích thêm một số thuật ngữ mới như: trao đổi văn kiện tạo thành ĐƯQT, ĐƯQT mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bên ký kết nước ngoài, tổ chức quốc tế …cho phù hợp với nội dung liên quan.
Luật 2005 bổ sung thêm và ghép các nguyên tắc ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT vào một điều (Điều 3) gồm 5 nguyên tắc chính sau:
- Phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế;
- Phải phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- ĐƯQT có điều khoản trái với văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi ký hoặc gia nhập;
- ĐƯQT cấp Chính phủ phải phù hợp với ĐƯQT cấp nhà nước;
- ĐƯQT có hiệu lực phải được thi hành nghiêm chỉnh.
1.1.3. Về mối quan hệ giữa ĐƯQT và văn bản quy phạm pháp luật trong nước
Luật 2005 quy định về mối quan hệ giữa ĐƯQT với các văn bản quy phạm pháp luật trong nước. Trên thực tế, quan hệ này đã được khẳng định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hàng chục năm qua. Hầu hết trong các luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định được ban hành đều nêu rõ: nếu quy định trong các văn bản này khác với các quy đinh của ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì áp dụng các quy đinh của ĐƯQT đó. Đây là một nguyên tắc quan trọng được thừa nhận trong hệ thống pháp luật hiện hành và do đó, nó được đưa vào luật như là một nguyên tắc chung và không cần thiết phải được nhắc lại trong từng văn bản quy phạm pháp luật khác (Điều 6, khoản 1).
Khoản 2 Điều 6 của luật 2005 còn khẳng định việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện ĐƯQT mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề. Ngoài ra, luật còn quy định ĐƯQT có hiệu lực đối với Việt Nam có thể áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định về việc ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập ĐƯQT. Trong trường hợp không thể áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT có hiệu lực đối với Việt Nam thì cơ quan có thẩm quyền quyết định việc ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập ĐƯQT quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT đó (Khoản 3, Điều 6).
Luật 2005 quy định mới về hánh vi pháp lý chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đối với Viêt Nam (Điều 8).
Chỉ thông qua các hành vi pháp lý cụ thể của mình như: ký kết, gia nhập, phê duyệt, phê chuẩn ĐƯQT; trao đổi văn kiện tao thành ĐƯQT; thực hiện các hành vi khác theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài thì Việt Nam mới bị ràng buộc với ĐƯQT đó. Nghĩa là chỉ khi đó, ĐƯQT mới có hiệu lực đối với Việt Nam, khi đó Việt Nam mới có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách chủ thể được quy định trong ĐƯQT.
1.2. Về ký kết ĐƯQT
So với Pháp lệnh năm 1998, chương này có bổ sung nhiều quy định mới làm rõ hơn các quy định của pháp lệnh 1998 cũng như kết cấu lại nội dung và hình thức các điều cho gắn kết với nhau hơn và tạo thành hệ thống các quy định theo thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục, hồ sơ trình về việc ký, phê chuẩn, phê duyệt và chia thành các mục riêng trong chương. Đặc biệt cũng tại chương này, luật dành hẳn một mục quy định thẩm quyền về việc thẩm định ĐƯQT. Trong đó chỉ rõ nguyên tắc: ĐƯQT phải được thẩm định trước khi trình Chính phủ về việc đàm phán, ký và bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định ĐƯQT; phạm vi , thẩm quyền, trình tự thủ tục thẩm định ĐƯQT cũng như các quy định cụ thể về hồ sơ đề nghị thẩm định.
Luật 2005 cũng bổ sung thêm trường hợp trình Quốc hội phê chuẩn thì phải được thẩm tra về tính hợp hiến, sự cần thiết phải phê chuẩn, mức độ trái với quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thương vụ Quốc hội ban hành; yêu cầu phải sửa đổi bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội để thực hiện ĐƯQT; khả năng áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT, việc tuân thủ trình tự, thủ tục đề xuất phê chuẩn ĐƯQT
1.3. Về gia nhập ĐƯQT nhiều bên
Đây là một chương mới của luật 2005 so với pháp lệnh 1998, chương này được xây dựng trên tinh thần cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi 2001), theo đó gia nhập ĐƯQT là một hành vi pháp lý riêng biệt, làm phát sinh sự ràng buộc của ĐƯQT đối với nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chương này gồm các quy định chi tiết về thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục hồ sơ trình về việc gia nhập ĐƯQT nhiều bên đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và yêu cầu tham gia các thể chế kinh tế, tài chính đa phương thông qua việc gia nhập các ĐƯQT nhiều bên.
Tại chương này luật cũng bổ sung thêm về việc phải trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trong trường hợp đề xuất gia nhập ĐƯQT nhiều bên có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Điều 51), quy định rõ hơn thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hồ sơ trình Quốc hội quyết định gia nhập ĐƯQT nhiều bên theo đề nghị của Chủ tịch nước.
1.4. Về bảo lưu ĐƯQT; hiệu lực áp dụng tạm thời toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT, lưu chiểu, lưu trữ, sao lục, công bố, đăng kí ĐƯQT
1.4.1. Về bảo lưu ĐƯQT
Đây là một chương mới được xác định trên cơ sở một số quy định nguyên tắc của Pháp lệnh 1998. So với Pháp lệnh 1998 chương này quy định mới về chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu do bên ký kết nước ngoài đưa ra; thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục, hồ sơ trình về bảo lưu, chấp nhận hay phản đối bảo lưu, rút bảo lưu hay rút phản đối bảo lưu nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích của Việt Nam khi ký kết hoặc gia nhập ĐƯQT nhiều bên. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với trường hợp Việt Nam quyết định gia nhập một ĐƯQT nhưng không tham gia quá trình soạn thảo nội dung điều ước đó.
1.4.2. Về hiệu lực, áp dụng tạm thời toàn bộ hay một phần ĐƯQT
So với pháp lệnh 1998 đây là một chương mới được xây dựng quy định về hiệu lực của ĐƯQT; áp dụng tạm thời toàn bộ hay một phần, chấm dứt áp dụng tạm thời toàn bộ hay một phần ĐƯQT và thông báo đối ngoại, thông báo cho cơ quan trong nước về việc này.
Về lưu chiểu, lưu trữ, sao lục công bố, đăng kí ĐƯQT: so với pháp lệnh 1998, chương này bổ sung thêm quyết định về việc Việt Nam thực hiện chức năng lưu chiểu ĐƯQT nhiều bên.
1.5. Về thực hiện ĐƯQT
Khác với cách hiểu truyền thống của Pháp lệnh năm 1998, theo cách hiểu và thể hiện mới của luật thì thực hiện ĐƯQT không chỉ là những gì liên quan trực tiếp đến việc thực hiện ĐƯQT đã được ký kết, gia nhập. Thực hiện ĐƯQT phải được xem xét như là một quá trình, trong đó có thể phát sinh những vấn đề cần thiết phải điều chỉnh trong một thể thống nhất có liên quan chặt chẽ với nhau với phương châm một mặt đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam, mặt khác đảm bảo các quyền chính đáng của Việt Nam không bị vi phạm.
Ngoài ra, vấn đề xây dựng kế hoạch thực hiện ĐƯQT phải luôn gắn với việc tổ chức thực hiện ĐƯQT, gắn với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện ĐƯQT như giải thích ĐƯQT, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, tạm đình chỉ thực hiện ĐƯQT do vi phạm của bên ký kết nước ngoài…Do đó vấn đề thực hiện ĐƯQT được luật 2005 xây dựng thành một chương bao gồm 4 mục:
1- Kế hoạch thực hiện ĐƯQT;
2- giải thích ĐƯQT;
3- Sửa đổi, bổ sung, gia hạn ĐƯQT;
4- Chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT.
Quy định như vậy nhằm tạo thuận lợi về mặt pháp lý đảm bảo cho các cơ quan có thẩm quyền tăng cường hơn nữa công tác quản lý về ĐƯQT, theo dõi, giám sát việc thực hiện ĐƯQT, sơ lược, tổng kết, đánh giá và định kì báo cáo việc thực hiện các ĐƯQT lên Chủ tich nước và Thủ tướng Chính phủ; đồng thời giao cho Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm trước Chính phủ về công tác này.
1.6. Về trách nhiệm của cơ quan,của tổ chức, của cá nhân trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT
So với pháp lệnh năm 1998 chương này có thêm quy định về việc xác định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát như: trả lời chất vấn (Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sóat nhân dân tối cao); ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện ĐƯQT (Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao); ra quyết định hoặc trình Chủ tịch nước quyết định về việc sửa đổi, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT có dấu hiệu trái với Hiến pháp (Chính phủ); áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm ĐƯQT; sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT; xem xét giải quyết các vấn đề có liên quan đến chính sách, pháp luật của nhà nước về hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT …(các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ).
2. Sự phù hợp của luật 2005 so với Công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT
Năm 2001 Nhà nước ta gia nhập Công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT, sự việc này đã đặt ra yêu cầu đánh giá mức độ tương thích giữa các quy định của pháp luật hiện hành về ký kết và thực hiện ĐƯQT của Việt Nam so với nội dung của Công ước Viên 1969. Sự thay thế pháp lệnh năm 1998 bằng luật 2005 là sự thể hiện của quá trình hoàn thiện pháp luật về ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT của Việt Nam theo hướng ngày càng phù hợp với Công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT. Tuy nhiên quá trình pháp điển hoá công ước Viên 1969 vào Việt Nam với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể đã tạo nên nhiều điểm tương đồng cũng như khác biệt của luật 2005 so với luật ĐƯQT.
2.1. Về những quy định chung
2.1.1. Về phạm vi điều chỉnh
Công ước Viên 1969 quy định tại Điều 1 như sau: “Công ước này được áp dụng đối với những điều ước giữa các quốc gia” nhưng luật 2005 lại quy định phạm vi rộng hơn: điều chỉnh quan hệ điều ước giữa Việt Nam với “bên ký kết nước ngoài là quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế” (Khoản 16. Điều 2). Như vậy phạm vi điều chỉnh của Luật 2005 rộng hơn so với Công uớc Viên 1969. Trên thực tế quan hệ ĐƯQT không chỉ phát sinh giữa các quốc gia với nhau mà hoàn toàn có thể phát sinh giũa các chủ thể khác của luật quốc tế với nhau và với quốc gia. Việc giới hạn phạm vi điều chỉnh này là một hạn chế của Công ước Viên, có lí do từ hoàn cảnh lịch sử hình thành công ước. Luật 2005 của Việt Nam đã mở rộng phạm vi điều chỉnh so với Công ước chính là một sự phù hợp với thực tiễn ký kết ĐƯQT.
2.1.2. Về giải thích từ ngữ
Luật 2005 đã sửa đổi nội dung giải thích một số thuật ngữ trong pháp lệnh 1998 cho phù hợp với Công ước Viên 1969 như thuật ngữ ĐƯQT, giấy uỷ quyền, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập, chấp thuận, tổ chức quốc tế. Đặc biệt về danh nghĩa ký. kết ĐƯQT được chia làm 2 loại: ĐƯQT nhân danh Nhà nước và ĐƯQT nhân danh chính phủ, các danh nghĩa Bộ, Ngành không còn được xem là danh nghĩa ký kết ĐƯQT của Việt Nam. Sự thay đổi này phù hợp với Công ước Viên bởi lẽ ĐƯQT theo Công ước Viên 1969 quy định: “Là thoả thuận quốc tế được kí kết bằng văn bản giữa các quốc gia”. Như vậy khi ký ĐƯQT là nhân danh cả một quốc gia, bộ, ngành không thể ký ĐƯQT với danh nghĩa của cả một quốc gia được. Toà án nhân dân tối cao chỉ là “cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.(Điều 127 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi); “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” ( Điều 137 Hiến pháp 1992 sửa đổi) thì Toà án Nhân dân tối cao cũng như Viện kiểm sát Nhân dân tối cao không thể lấy danh nghĩa quốc gia Việt Nam để ký kết ĐƯQT. Cũng trong khoản 2 Điều 2 Luật 2005 đã ghi nhận tên gọi của ĐƯQT là “Hiệp ước, hiệp định, định ước, thoả thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc tên gọi khác”; khác với pháp lệnh năm 1998 chỉ giới hạn tên của ĐƯQT là “Hiệp ứớc, công ước, định ước, hiệp định, nghị định thư, công hàm trao đổi”. Quy định theo hướng liệt kê tại pháp lệnh này sẽ không bao quát hết bởi lẽ trên thực tế ĐƯQT có rất nhiều tên gọi khác nhau. Công ước Viên 1969 cũng ghi nhận điều này tại khoản 1 Điều 2 “không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của các văn kiện đó”.
Về việc quy định mối quan hệ giữa ĐƯQT và quy định của pháp luật trong nước tại Điều 6 luật 2005 quy đinh:
“1.Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và ĐƯQT mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của ĐƯQT;
2.Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện ĐƯQT mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề”.
Việc ghi nhận mối quan hệ giữa ĐƯQT và pháp luật quốc gia thành một quy định trong luật và khẳng định hiệu lực áp dụng của ĐƯQT này chính là một sự thể chế hoá quy định của luật ĐƯQT vào luật quốc gia. Tại Điều 27 của Công ước Viên 1969 quy định: “ Thành viên của một ĐƯQT không thể viện dẫn những quy định của pháp luật quốc gia để biện minh cho việc không thi hành ĐƯQT đó”. Quy định này liên quan đến hiệu lực của những cam kết quốc tế của Việt Nam, việc quy định tại điều 6 của luật theo đúng hướng Điều 27 Công ước Viên 1969 tạo điều kiện cho những ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên được thực thi trên thực tế phù hợp với luật quốc tế.
2.2. Về ký kết ĐƯQT
2.2.1. Về vấn đề uỷ quyền
Điều 22 Luật 2005 quy định về trường hợp: “ đàm phán ký ĐƯQT không cần giấy uỷ quyền, tham dự hội nghị quốc tế không cần giấy uỷ nhiệm”. Việc luật 2005 lược bỏ trường hợp: “Chánh án Toà án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, thủ trưởng bộ, ngành không cần giấy uỷ quyền khi đàm phán và ký ĐƯQT với danh nghĩa bộ ngành mình” (khoản 2 điều 7 Pháp lệnh năm 1998) là sự sửa đổi phù hợp với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi 2001) và cũng là phù hợp với khoản 2 Điều 7 Công ước Viên quy định về những người: “ trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình được coi là đại diện quốc gia không cần xuất giấy uỷ quyền”.
2.2.2. Về xác thực văn bản điều ước
Việc xác thực văn bản điều ước quy định tại Điều 26 luật 2005 tương đối phù hợp với quy định về xác thực văn bản tại Điều 10 Công ước Viên 1969. Tuy nhiên luật Việt Nam không quy định trường hợp xác thực văn bản bằng việc đại diện các bên kí ad refedeum bởi lẽ luật 2005 quy định rõ những trường hợp đàm phán, ký ĐƯQT không cần giấy uỷ quyền và trường hợp đàm phán, ký ĐƯQT phải có giấy uỷ quyền ( Điều 22, Điều 23). Luật không ghi nhận trường hợp “từ những thực tiễn của quốc gia hữu quan hoặc trong những hoàn cảnh khác cho thấy những quốc gia này có ý định coi người đại diện cho quốc gia mình để thực hiện những hành vi nêu trên không cần giấy uỷ quyền”. Do đó chỉ những người có thẩm quyền đương nhiên hoặc những người được uỷ quyền theo giấy uỷ quyền mới có quyền ký ĐƯQT làm phát sinh hiệu lực của ĐƯQT (nếu ĐƯQT đó không cần phê chuẩn, phê duyệt).
2.2.3. Về các hình thức biểu thị sự đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một ĐƯQT với quốc gia
Điều 11 Công ước Viên 1969 quy định : “Việc đồng ý của một quốc gia chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước có thể được thể hiện bằng việc ký, trao đổi văn kiện tạo thành điều ước, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt, hay gia nhập hoặc bằng bất kì cách nào khác theo thoả thuận’’.
Các hành vi chấp nhận sự ràng buộc với một ĐƯQT của nước Cộng hoà xã hôị chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 8- Luật 2005 tương đối giống với Điều 11 Công ước. Tuy nhiên luật Viêt Nam không ghi nhận hành vi chấp thuận bởi lẽ đây là một thủ tục mới được áp dụng trong thực tiễn quan hệ điều ước vào cuối thế kỉ XX nhưng bản thân nó đã nảy sinh một số vấn đề trong lý luận. Nếu một điều ước cho phép một quốc gia tham gia thông qua chấp thuận mà không cần ký trước đó thì chấp thuận ở đây không phân biệt được với gia nhập; nếu một điều ước cho phép một quốc gia thông qua chấp thuận sau khi ký thì nó lại không phân biệt được với phê chuẩn. Do đó luật 2005 chỉ ghi nhận các hành vi: ký, phê chuẩn, phê duyệt, trao đổi văn kiện, gia nhập và hành vi khác theo thoả thuận với bên ký kết nước ngoài mới là hành vi thể hiện sự chấp thuận ràng buộc với ĐƯQT của Việt Nam.Các hành vi nay được quy định cụ thể tại các mục 5, 6 chương II và chương III của Luật 2005.
2.2.4. Về bảo lưu ĐƯQT
Luật 2005 đã xây dựng riêng một chương IV quy đinh về bảo lưu về ĐƯQT nhiều bên trên cơ sở áp dụng những quy định về bảo lưu của Công ước Viên tại mục 2 chương II và trên cơ sở những quy định có tính nguyên tắc của Pháp lệnh năm 1998 tại Điều 15, Điều 16. Luật 2005 đã ghi nhận một cách cụ thể, khá chi tiết về trình tự, thẩm quyền bảo lưu ĐƯQT cũng như các quy định về rút bảo lưu hoặc phản đối bảo lưu. Các quy định cụ thể về bảo lưu này đặc biệt có ý nghĩa với trường hợp Viêt Nam quyết định gia nhập một ĐƯQT nhưng không tham gia quá trình soạn thảo nội dung điều ước đó.
2.3. Về thực hiện ĐƯQT
Nếu như Pháp lệnh năm 1998 chỉ quan niệm việc thực hiện ĐƯQT theo nghĩa truyền thống là những gì liên quan trực tiếp đến việc thực hiện ĐƯQT đã được ký kết, gia nhập (pháp luật chỉ quy định về việc tuân thủ thực hiện điều ước, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, đình chỉ hiệu lực, bãi bỏ điều ước và giải thích nội dung điều ước) thì Luật 2005 đã xem xét việc thực hiện ĐƯQT như là một quá trình trong đó có thể phát sinh những vấn đề cần thiết phải điều chỉnh với tinh thần vừa đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế vừa đảm bảo cho quyền và lợi ích của Việt Nam không bị vi phạm. Những quy định tại chương VII – thực hiện ĐƯQT này tương thích với tinh thần cũng như quy định tại Công ước Viên 1969: thực hiện ĐƯQT phải được xem xét trong một tổng thể thống nhất các vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau. Các vấn đề về giải thích ĐƯQT, sửa đổi, bổ sung, gia hạn ĐƯQT; chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT được xây dựng thành các mục trong chương với những quy định theo hướng cụ thể hoá các chương III, IV, V luật ĐƯQT vào tình hình chinh trị, kinh tế, xã hội cụ thể của Việt Nam. Đặc biệt chương V xây dựng mục 1: kế hoạch thực hiện ĐƯQT với 3 điều nhằm phác thảo chương trình thực hiện điều ước, tạo điều kiện cho ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên được triển khai thực hiện trên thực tế. Điều nay hướng đến thực hiện nguyên tắc được quy định trong Công ước Viên 1969: “Tất cả điều ước có hiệu lực đều rằng buộc các thanh viên và phải được các thành viên tự nguyện thi hành với thiện chí”(Điều 26).
Toàn bộ luật 2005 nhìn chung được xây dựng theo hướng nội luật hoá Công ước Viên 1969 vào pháp luật Việt Nam trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực hiện một cách thống nhất các yêu cầu trong việc đề xuất đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, đặc biệt là hội nhập kinh tế. Sự ra đời của luật 2005 thay thế Pháp lệnh năm 1998 chính là sự đảm bảo nguyên tắc pacta sunt servand (Điều 26 Công ước Viên), trên cơ sở đó Công ước sẽ được triển khai, thực hiện một cách có hiệu quả tại Việt Nam đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước này.
3. Thực trạng ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐƯQT ở Việt Nam
3.1. Thực trạng ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước ngày luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 có hiệu lực
Hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định dựa trên một khung pháp lý ngày càng hoàn chỉnh đáp ứng nhu cầu kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta. Kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1945 (năm 1976 đổi tên là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, công tác ký kết ĐƯQT ngày càng được chú trọng. Pháp luật về ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT dần được hoàn thiện qua các giai đoạn, lịch sử khác nhau của đất nước. Nhìn chung việc ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT của Việt Nam từ năm 1945 đến nay được chia ra làm các thời kỳ khác nhau với điều kiện kinh tế, xã hội, cơ sở pháp lý khác nhau đã tạo nên sự thay đổi về số lượng cũng như lĩnh vực ký kết ĐƯQT.
3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945-1986
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà- một quốc gia độc lập có chủ quyền. Trên cơ sở đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhân danh nhà nước Việt Nam ký hai ĐƯQT: Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946 với Pháp. Đây là hai ĐƯQT quốc tế song phương đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà theo quy định về thẩm quyền ký kết tại Điều 23- Hiến pháp 1946. Từ đó đến nay Việt Nam đã ký kết hàng nghìn ĐƯQT song phương, đa phương cũng như gia nhập rất nhiều ĐƯQT.
Giai đoạn từ 1945-1975 với đặc điểm đất nước ta đang tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thống nhất hai miền Nam - Bắc của tổ quốc, lần lượt chống lại hai cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Sau khi dành được độc lập từ năm 1975 đến trước đổi mới 1986 thì Đảng và Nhà nước ta lại chủ trương đường lối đối ngoại khép kín với nền kinh tế quan liêu bao cấp, nhà nước Việt Nam non trẻ chưa được quan tâm thực sự trên trường quốc tế. Hơn nữa suốt trong thời kì này pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản pháp lý chuyên ngành nào điều chỉnh hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT, cơ sở pháp lý của hoạt động này mới chỉ là những quy định chung trong hiến pháp mà chưa được cụ thể hoá bằng các văn bản pháp luật để có thể dễ dàng đi vào đời sống. Hoàn cảnh khách quan và chủ quan này đã dẫn đến một thực tế là suốt từ 1945 đến 1975 Việt Nam ký kết, gia nhập không nhiều ĐƯQT với những lĩnh vực ký kết chủ yếu là về chính trị, quân sự .
Các ĐƯQT có giá trị lịch sử, đánh dấu những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ 1954 về lập lại hoà bình ở Đông Dương với Pháp; Hiệp định Pari 1972 với Mỹ…Tuy số lượng ĐƯQT ở giai đoạn này chưa nhiều nhưng lại đóng vai trò rất lớn trong quá trình lập lại hoà bình, thống nhất nước nhà của Việt Nam.
Từ năm 1975-1986, đây là thời kì sau khi thống nhất, cả nước ta cùng bắt tay xây dựng nước nhà. Do thực hiện đường lối ngoại giao khép kín với nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp cho nên thời kì này mặc dù số lượng ĐƯQT mà Việt Nam tham gia có tăng lên nhưng cũng chưa nhiều. Chủ yếu là các ĐƯQT về tương trợ được ký kết giữa Việt Nam với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt mặc dù trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 cũng như Hiến pháp 1980 không hề có bất kì một quy định nào về gia nhập ĐƯQT nhưng Việt Nam vẫn sử dụng chế định gia nhập ĐƯQT trong Công ước Viên 1969 (mặc dù lúc này chưa là thành viên) như một quy phạm tập quán. Năm 1957 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định gia nhập 4 Công ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh và một loạt các công ước sau đó.
3.1.2. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 có hiệu lực (mồng 1 tháng 1 năm 2006)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) khẳng định Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới với đường lối kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc khác xu hướng quốc tế hoá khu vực và toàn cầu đã làm cho ĐƯQT trở thành một công cụ đối ngoại vô cùng quan trọng của các quốc gia. Trước tình hình này, với nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò của ĐƯQT trong mối liên hệ về lợi ích giữa các quốc gia, Nhà nước Việt Nam đã lần lượt ban hành các văn bản pháp lý chuyên ngành kịp thời điều chỉnh hoạt động ký kết ĐƯQT trên thực tế. Pháp lệnh năm 1989, Pháp lệnh năm 1998, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 đã thể hiện xu hướng ngày càng hoàn thiện theo pháp luật quốc tế, đặc biệt là phù hợp với Công ước Viên 1969 (Việt Nam là thành viên năm 2001).
Với những tác động chủ quan và khách quan mang lại, từ sau 1986 Việt Nam tham gia ngày càng nhiều ĐƯQT song phương cũng như đa phương, khu vực cũng như toàn cầu. Số lượng ĐƯQT được ký kết, gia nhập tăng nhanh về số lượng, mở rộng về lĩnh vực ký kết. Việt Nam không còn bó hẹp đối tượng ký kết ĐƯQT chỉ là các nước trong phe xã hội chủ nghĩa nữa mà đã mở rộng ra với tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Về lĩnh vực ký kết cũng có sự dich chuyển. Nếu như giai đoạn trước đây các ĐƯQT mà Việt Nam tham gia chủ yếu là các ĐƯQT về quân sự, chính trị thì giai đoạn này việc ký kết được mở rộng ra trên mọi lĩnh vực như thương mại, thuế quan, chính trị, quyền con người, du lịch, môi trường…Các ĐƯQT về quân sự giảm dần thay vào đó là các điều ước về kinh tế tăng nhanh tỉ trọng trong cơ cấu các lĩnh vực được ký kết, gia nhập. Pháp luật ĐƯQT của Việt Nam ngày càng được hoàn chỉnh giúp hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT được tiến hành ngày càng nhanh chóng và đảm bảo tốt hơn nữa quyền và lợi ích quốc gia trong mối tương quan với lợi ích quốc tế. Số lượng các ĐƯQT gia tăng nhanh chóng, chỉ tính trong vòng 10 năm từ năm 1994 đến 2004 số lượng ĐƯQT bằng số lượng của 50 năm trước đó.
Đặc biệt ngày 7 tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO sau 12 năm đàm phán. Việc gia nhập Hiệp định thành lập WTO trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới đã thể hiện vai trò to lớn của luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT trong đời sống quốc gia nói riêng và trong hoạt động đối ngoại của nhà nước ta nói chung .
3.2. Những tồn tại của việc ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ĐƯQT của Việt Nam
3.2.1. Về thực tiễn ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT
Từ khi thành lập nước Việt Nam đến nay nhà nước ta đã ký cũng như gia nhập hàng ngàn ĐƯQT phục vụ cho đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Tuy vậy có một thực tế không thể chối cãi được và các đại diện của chúng ta khi tham gia đàm phán, ký kết gặp rất nhiều bất lợi, do đó việc đảm bảo quyền, lợi ích của quốc gia chưa được thực hiện triệt để. Điều này có thể được giải thích là vì Việt Nam là một quốc gia nhỏ, nghèo do vậy tiếng nói của quốc gia chưa thực sự được chú trọng trên thế giới. Đặc biệt khi chúng ta ký kết ĐƯQT với những nước phát triển (như với Mỹ trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ) thì thật sự chúng ta đã phải khoan nhượng rất nhiều. Bởi lẽ một nhượng bộ nào đó đối với ta là rất to lớn nhưng đối với những đối tác khác nhất là các nước phát triển lại có thể là chưa đủ! Hơn nữa đàm phán, ký kết ĐƯQT là một hoạt động đòi hỏi người tham gia phải cực kỳ khéo léo, thông minh nhanh nhạy. Phái đoàn đàm phán, ký ĐƯQT là đại diện cho cả quốc gia, mọi cử chỉ lời nói của họ trên bàn đàm phán đều liên quan đến lợi ích của cả quốc gia dân tộc. Do vậy Việt Nam cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo đội ngũ cán bộ để Việt Nam là một nước “nhỏ” nhưng không “yếu” trên bàn đàm phán, đảm bảo hơn nữa quyền và lợi ích quốc gia khi ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT.
Một thực tế nữa là trong các văn bản pháp luật chuyên ngành đã có những quy định về bảo lưu và phản đối bảo lưu trong ĐƯQT nhưng Việt Nam trong lịch sử ký kết, gia nhập của mình hầu như không hề sử dụng chế định này! Điều này cũng cần được lưu tâm bởi lẽ tại sao chúng ta không sử dụng quyền này để bảo vệ lợi ích quốc gia khi điều kiện thực tế của mình chưa phù hợp. Phải chăng điều này phản ánh năng lực của cơ quan đề xuất trong việc phân tích tình hình và đưa ra kiến nghị?
Đặc biệt trong vấn đề xây dựng văn bản điều ước, Việt Nam chúng ta đã bị thụ động rất nhiều. Trong cả khoảng thời gian dài từ khi ký kết ĐƯQT đầu tiên (1946) đến trước khi luật 2005 ra đời, pháp luật Việt Nam chưa hề có một quy định nào xác định cơ quan có trách nhiệm tiến hành xây dựng văn bản điều ước. Hầu như vấn đề đàm phán của chúng ta dựa trên văn bản điều ước mà phía đối tác đưa ra. Luật 2005 tại khoản 4 Điều 9 mới quy định: “cơ quan đề xuất có trách nhiệm xây dựng dự thảo ĐƯQT của bên Việt Nam; trong trường hợp dự thảo ĐƯQT đã được bên ký kết nước ngoài chuẩn bị thì cơ quan đề xuất có trách nhiệm nghiên cứu dự thảo đó, xây dựng phương án chấp nhận, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng dự thảo của bên Việt Nam.” Như vậy một yêu cầu đặt ra là mỗi cơ quan chủ quản phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ đáp ứng nhu cầu. Từ những thực tế trên đây trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT của Việt Nam đặt ra một yêu cầu là chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện hơn nữa đội ngũ cán bộ trong các cơ quan, bộ, ngành thực sự là những cán bộ giàu năng lực, có chuyên môn, nhạy bén, giàu tâm huyết với quốc gia, đặc biệt là những người trực tiếp tham gia đamg phán, ký kết ĐƯQT phải là những người thực sự có đức, có tài, tận tâm, tận lực với quốc gia dân tộc.
3.2.2. Về những quy định của pháp luật Việt Nam trong ký kết,gia nhập và thực hiện ĐƯQT trong luật 2005
Luật 2005 ra đời là một bước tiến rất xa của pháp luật Việt Nam về ĐƯQT đưa luật Việt Nam tiến dần phù hợp với luật quốc tế về điều ước. Tuy nhiên thực tế trong luật vẫn còn những quy định chưa thực sự sáng tỏ khi đi vào thực tế sẽ mang lại nhiều khó khăn.
Tại Điều 32- luật 2005 quy định tại khoản 1 như sau: “ Quốc Hội quyết định phê chuẩn ĐƯQT do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu nhà nước khác, phê chuẩn các ĐƯQT khác theo đề nghị của Chủ tịch nước”. Luật không quy định rõ trong trường hợp như thế nào thì Chủ tịch nước phải đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Như vậy chúng ta có thể hiểu quy định này là thông thường thì Chủ tịch nước phê chuẩn ĐƯQT, tuy nhiên khi có “ sự cần thiết” hay “ lý do chính đáng” thì Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Nhưng lúc nào thì “ cần thiết” và lý do nào là “ chính đáng” không được luật đề cập cho nên việc đề nghị Quốc hội phê chuẩn chưa thực sự được tiến hành theo quy cũ. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về phê chuẩn ĐƯQT cũng đi theo hướng này, rất ít ĐƯQT được Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Trong lĩnh vực thương mại, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là hiệp định thương mại duy nhất của Việt Nam được Quốc hội phê chuẩn tính đến nay.
Như vậy Chính Phủ cần xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể những trường hợp có lý do chính đáng và sự cần thiết phải có sự phê chuẩn của Quốc hội như:
- Một là xét về ý nghĩa, tầm quan trọng và phạm vi điều chỉnh thì Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân cần là cơ quan đưa ra quyết định chấp nhận hiệu lực pháp lý của điều ước này;
- Hai là kết quả rà soát pháp luật của Chính phủ cho thấy có những quy định trong ĐƯQT chưa phù hợp hoặc chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Ba là xét tính phức tạp và tổng hợp của ĐƯQT cho thấy điều ước này cần được xem xét, phân tích và đánh giá ở mức độ chi tiết và thận trọng;
- Bốn là theo quy định trong ĐƯQT thì điều ước đó phải được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn (ví dụ như trong nhiều tuyên bố của Việt Nam tại đàm phán gia nhập WTO có đề cập tới việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn việc gia nhập WTO (đoạn 119 của báo cáo gia nhập) do đó nếu Chủ tịch nước phê chuẩn sẽ không hoàn toàn phù hợp với các tuyên bố của Việt Nam trong đàm phán gia nhập WTO.
Hơn nữa, Điều 33 qui định về ĐƯQT phải thẩm tra có qui định: “ĐƯQT trình Quốc hội phê chuẩn phải được thẩm tra”. Quy định như vậy là quá hẹp. Những ĐƯQT do Chủ tịch nước phê chuẩn có liên quan đến các vấn đề hệ trọng như: An ninh quốc gia, hòa bình, biên giới, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… Thiết nghĩ cũng cần phải thẩm tra trước khi phê chuẩn, trong đó Uỷ ban thường vụ Quốc hội có ý kiến về các vấn đề quan trọng như sự cần thiết của điều ước, giải pháp xử lý đối với các điều khoản trái hoặc chưa được qui định trong văn bản luật, pháp lệnh để đảm bảo tính thực thi của điều ước. Nếu các điều ước này sau khi ký không qua thủ tục thẩm tra thì việc phê chuẩn của Chủ tịch nước sẽ mang tính hình thức và không thể hiện được ý chí đại diện của nhân dân.
Luật 2005 dành hẳn chương III quy định về gia nhập ĐƯQT nhiều bên, tuy nhiên lại không có quy định rõ về trường hợp gia nhập ĐƯQT mà chỉ quy định chung rằng: “ Trong trường hợp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ký kết ĐƯQT đó, không phụ thuộc vào việc ĐƯQT này đã có hiệu lực hay chưa có hiệu lực” (Khoản 10 Điều 2-Luật 2005). Thực tế khi xin gia nhập ĐƯQT trong quá trình đàm phán, gia nhập chúng ta gặp rất nhiều bất lợi:
Trước hết, đàm phán gia nhập là đàm phán một chiều. Mọi thành viên đều có quyền đòi hỏi trong khi nước xin gia nhập không có quyền đó, chỉ là hoặc chấp nhận hoặc kiên trì thuyết phục các thành viên giảm bớt yêu cầu. Kiểu đàm phán này dẫn đến hai hệ quả: Một là quá trình đàm phán kéo dài, hai là nước xin gia nhập nhiều khi phải chấp nhận những yêu cầu vuợt ra ngoài chuẩn mực của ĐƯQT đó. Đàm phán một chiều còn làm nảy sinh xu thế ép nước gia nhập sau phải cam kết ít nhất là bằng, trong nhiều trường hợp là sâu và rộng hơn nước gia nhập trước. Tiêu chuẩn gia nhập vì vậy được nâng dần.
Trong một số trường hợp, đàm phán có thể ảnh hưởng bởi các toan tính chính trị hoặc phi thương mại khác khiến nước xin gia nhập rất khó định hướng hoặc xử lý.
Trước những khó khăn bất lợi chung của việc gia nhập ĐƯQT như vậy, thiết nghĩ nên chăng chúng ta cần xây dựng một quy định thật rõ ràng cho những trường hợp gia nhập của Việt Nam?
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 ra đời là một nỗ lực lớn của Việt Nam chuẩn bị cho quá trình hội nhập sâu và rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên để luật này đi vào thực tiễn áp dụng được thuận lợi Chính phủ cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn để việc thực hiện luật được thống nhất và dễ dàng.
KẾT LUẬN
Với đề tài “ Những vấn đề pháp lý cơ bản của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ”, trong phạm vi của một bài khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi đã cố gắng đề cập tới những nét cơ bản nhất của vấn đề ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của Việt Nam được quy định trong Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế 2005. Đồng thời đặt những quy định hiện hành của hệ thống pháp luật Việt Nam về ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế trong mối tương quan so sánh với Luật Điều ước quốc tế (Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế) và những quy định trước đây của Pháp luật Việt Nam (gần đây nhất là Pháp Lệnh 1998 về ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế ). Cũng như đặt những quy định này trong mối tương quan với điều kiện kinh tế, xã hội trên toàn thế giới và ở Việt Nam hiện nay để thấy được những điểm phù hợp với Pháp luật quốc tế và đời sống quốc gia. Bên cạnh đó cũng tìm ra một số điểm còn bất cập, từ đó đưa ra những kiến nghị riêng của mình nhằm hoàn thiện hệ thống Pháp luật Việt Nam về Điều ước quốc tế.
Sự ra đời của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế 2005 là một bước tiến vượt trội so với từ trước tới nay của hệ thống pháp luật về Điều ước quốc tế Việt Nam. Luật đã thể chế hóa được đường lối, chủ trương của Đảng, mục tiêu, chính sách của Nhà nước về đối ngoại theo phương châm Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Các quy định của Luật cũng đã cụ thể hóa được những nguyên tắc ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Pháp luật quốc tế, đặc biệt là các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Luật ra đời đã giải quyết được những yêu cầu thực tiễn về ký kết, gia nhập, thực hiện Điều ước quốc tế đó đặt ra trong tiến trình hội nhập của Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới cho công tác Điều ước quốc tế ở nước ta. Chính phủ cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn thi hành để những quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế 2005 thực sự đi vào thực tiễn, phát huy vai trò của mình trong lĩnh vực Điều ước quốc tế, nhất là khía cạnh kinh tế - khía cạnh được quan tâm nhiều nhất hiện nay trong tiến trình khu vực hoá, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng cộng sản Việt Nam (2001), văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đại học Luật (2000), giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Đại học Luật (2004), giáo trình luật quốc tế, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Công ước Viên về luật Điều ước quốc tế năm 1969
Công ước Viên về luật Điều ước quốc tế năm 1986
Hiệp định thương mại giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005
Luật sửa đổi, bổ sung luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002
Pháp lệnh ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế năm 1989
Pháp lệnh về ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế năm 1998
Bộ tư pháp, Vụ hợp tác quốc tế, Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật (2005), Đề cương giới thiệu luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, Hà Nội.
Chính phủ (2006), tờ trình về kết quả đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới, Hà Nội.
Chu Mạnh Hùng (2006), sự phát triển của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế, tạp chí Luật học, số 02/2006,tr25-30
Lê Văn Bính (2005), tìm hiểu chế định giải thích Điều ước quốc tế, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2005, tr53- 59.
Lê Văn Hường- Khổng Văn Hà (2005), luật Điều ước quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Hoàng Ngọc Giao (2005), bàn về thực thi Điều ước quốc tế, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 03/2005, tr67-72.
Nguyễn Duy Chiến (1998), vấn đề ký kết Điều ước quốc tế trong bốn bản Hiến pháp Việt Nam, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 09/1998, tr48- 54.
Nguyễn Ngọc Trân (2005), Điều ước quốc tế: nhận thức và ứng xử, hội thảo “Điều ước quốc tế vai trò của cơ quan lập pháp” do ủy ban đối ngoại của Quốc hội tổ chức, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thuận (2005), giải quyết vấn đễun đột về hiệu lực áp dụng giữa các Điều ước quốc tế, tạp chí Luật học, số 06/2005, tr52-56
Nguyễn Thị Thuận (2005), về giải thích Điều ước quốc tế, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2005, tr49- 54.
Nguyễn Thị Thuận (2006), những điểm mới của luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04/2006,tr70-75.
Nguyễn Thị Thuận (2007), pháp luật về Điều ước quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, tạp chí luật học, số 01/2007, tr49-55.
Nguyễn Văn Luật (2000), Pháp luật nước ta trước nhu cầu hội nhập và hợp tác quốc tế, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 06/2000, tr3.
Thái Vĩnh Thắng (2000), mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, tạp chí luật học, số 02/2000, tr48-53.
Trần Văn Thắng – Lê Mai Anh (2001), Luật quốc tế- lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LL1094.doc